- VII -
Giữa giờ nghỉ giải lao, Thái ngồi trong phòng giáo sư, lơ đãng nghe các bạn đồng nghiệp bàn tán về buổi họp cuối niên học. Tầm mắt anh nhìn ra sân trường, nắng rực rỡ, các em học sinh túm năm tụm ba, nô đùa dưới bóng mát của mấy cây phượng vĩ. Thái thấy lòng mình rưng rưng, se thắt bởi những kỷ niệm ấu thời, nơi ngôi trường tỉnh nhỏ vào lúc đầu mùa hè. Tiếng ve rộn rã, cánh hoa phượng đỏ tươi rắc trên mái trường ngói khô cong, bám đầy từng mảng rêu chết đã trở thành mầu xám nhạt. Những bức tường vôi vàng loang lổ bóng nắng gắt, hắt lên từ nền xi măng nóng bỏng. Tâm trạng Thái ngày đó cũng như đám học trò ngoài kia, nôn nóng chờ đón những ngày nghỉ dài, trên các khuôn mặt trong sáng vô tư, những nụ cười nở tươi tắn bên bè bạn. Mỗi người một cuốn lưu bút, chuyền tay nhau viết mấy giòng cảm nghĩ trang trọng dán hình thân tặng..
Mùa hè lại sắp trở về, mùa hè của năm ba mươi bảy tuổi trong đời Thái. Vẫn âm hưởng tiếng ve kêu và phượng vĩ tung cánh như nhỏ máu xuống sân trường, mang đến cho Thái nỗi nhớ nhung vơ vẩn, những hình ảnh sâu đậm. Trang, ngày mới quen trước cũng vào mùa hoa phượng nở. Thái đến đón Trang nơi cổng trường, đôi mắt nàng bối rối lộ vẻ ngượng ngùng, bàn tay mân mê tà áo trắng. Bỗng nhiên Thái mỉm cười. Từ lâu rồi Thái mất hẳn nụ cười những khi nghĩ về Trang.
Uống cạn tách trà, Thái nhìn lên bầu trời xanh mầu nước biển, từng cụm mây trắng bồng bềnh. Thái chợt có ý nghĩ, kỳ nghỉ hè này anh sẽ đưa Trang và hai con ra “Ô Cấp” ít ngày. Thái thoáng nhớ tới Nga, một mong muốn mơ hồ “Phải chi Nga cùng đi”. Nhưng ý nghĩ đó không thành hình. Từ ngày cưới Trang, hai vợ chồng Thái chưa có dịp nào ra khỏi thành phố đông đúc và ồn ào này. Những chồng bài vở cao ngập, xếp trên bàn làm việc của anh; những giờ dạy học liên miên. Mỗi khi rời lớp học, Thái trở về nhà mang theo tâm trạng mệt mỏi, càng chán nản hơn, phải đụng chạm với khuôn mặt chịu đựng, lặng lẽ của Trang. Quanh năm bù đầu với công việc, tới kỳ hè lại lao mình vào dạy những lớp luyện thi, Thái không có thời gian nghỉ ngơi và giành cho vợ con. Bên trong lý do đó còn một lý do nữa mà Thái không dám nhìn nhận: tại anh chán gặp vợ.
Thêm vào đó, guồng máy quay cuồng của đời sống đã chi phối nặng nề đến sinh hoạt gia đình, đẩy Thái một ngày mỗi xa Trang. Càng nghĩ Thái lại càng thấy thương Trang. Cái bịnh thương vợ luôn luôn ám ảnh Thái mỗi khi rời khỏi nhà, và sau những lần gây gỗ với vợ. Lần này, thật nặng nề hơn nhiều vì Thái đã bỏ nhà suốt đêm không về.
Thực ra, hôm qua khi đến với Nga, Thái không có ý định ở lại, nhưng thấy Nga quá buồn khổ về chuyện Huệ hư hỏng bỏ trường đi cả tuần nay! Nga ân hận cho là tại nàng xử quá tệ, đã mắng nhiếc Huệ nặng lời. Về chuyện Huệ bỏ học, Nga thấy mình trách nhiệm một phần lớn. Nga bị mặc cảm phạm tội dày vò. Có thể vì Nga yêu Thái, một người đã có gia đình, khiến nàng mất uy tín với Huệ. Nga khó mở lời dạy dỗ em, nhưng lòng thương em tràn ngập. cộng thêm những hy sinh quá mức đã từng nhịn ăn tiêu để đóng tiền học cho Huệ, lo lắng cho Huệ từng cuốn sách, từng chiếc áo dài. Nay Huệ bỏ học, Nga thấy sự hy sinh của mình trở nên vô nghĩa. Dự tính về tương lại cho Huệ tan tành phút chốc.
Thái kể cho Nga nghe, có một người bạn chàng gặp Huệ hay đi với một sĩ quan cấp Tá, vẫn kề vai nhau trong chiếc 404, và thường xuyên có mặt tại các phòng trà đắt tiền. Hình như Huệ được bồ sắm cho căn phố đủ tiện nghi, xinh lắm thì phải.
Nga thấy tối mặt, đầu óc quay cuồng. Một nỗi bàng hoàng, đau đớn khi chợt nhận ra Huệ đã thực sự vuột khỏi tầm tay nàng. Huệ không còn là một nữ sinh bé bỏng hay đòi chị mua ô mai nữa. Không phải chỉ là Huệ bắt đầu một khúc quanh mới trong đời sống mà chính là Nga, Nga mất hẳn niềm tin tưởng ở tình thương yêu ruột thịt. Hơn bao giờ hết, Nga càng thấy tình yêu của Thái quá cần thiết cho nàng. Nga tưởng như không xa nổi Thái một giây nào được nữa. Nàng ôm lấy Thái sợ anh cũng vuột khỏi tầm tay nàng như Huệ. Nga nức nở:
– Như vậy là nó lấy người ta à?
Thái cười khẩy:
-Lấy gì nổi, sợ chỉ…
Thái định nói “Sợ chỉ là gái bao ấy chứ”, nhưng trước nỗi đau đớn của Nga, anh đành im lặng. Nga hỏi:
– Bây giờ phải làm sao, mình?
Thái biết mỗi lần Nga gọi anh bằng “mình” là nàng đặt hết niềm tin tưởng, trông cậy vào anh. Thái nhẹ nhàng vuốt tóc Nga, lúc đó đang gục trong lòng anh.
– Em phải bình tĩnh thì mới tính được.
– Biết nó ở đâu bây giờ, phải tìm cho ra nó và tống nó vào trường.
– Em đừng nghĩ như thế nữa, lại khổ thân. Huệ nó không còn bé bỏng để em muốn tống vào trường hay bắt ở nhà theo ý em đâu!
Nga khóc thành tiếng, Thái không còn lòng dạ nào bỏ nàng một mình mà về với Trang được nữa. Thái yên chí là Trang chịu đựng đã quen, hoặc cho quen đi cũng vừa. Đã đến thời kỳ Thái nghĩ nên chia giờ giấc cho Nga. Anh không thể bỏ Nga sống cô đơn thế này mãi. Trang dù sao cũng có hai đứa con.
Và Thái đã ở lại với Nga, sáng ra anh đi dạy học liền. Giờ ngồi đây, trong lúc nghỉ giải lao uống trà, anh mới nghĩ tới vợ con. Tại sao vợ anh là người đàn bà, rất xứng đáng, đầy đủ bổn phận làm vợ làm mẹ. Quanh năm ít khi có dịp ra khỏi nhà, công việc hàng ngày đều đặn, cơm nước giặt giũ, lo lắng cho chồng con từng chút, không bao giờ hé răng kêu hoặc nói lên ý kiến riêng của mình. Trong sinh hoạt chung ở gia đình, phải hay trái chỉ âm thầm chịu đựng. Cười, không cười lớn. Khóc, không thành tiếng. Lặng lẽ và xa xôi, có phải chính sự nhẫn nại của Trang thường làm Thái bực mình? Hay vì tính trầm lặng của Trang đã đóng chặt tâm hồn nàng. Chẳng bao giờ Trang chịu tâm sự thủ thỉ với chồng. Thiếu sự gần gũi về tâm hồn, người ta dễ xa nhau?
Hình như không hẳn thế, đôi khi nhắc đến “tâm hồn” Thái lại thấy chẳng cần thiết phải hợp hay không. Kinh nghiệm bản thân, và chung quanh anh, biết bao nhiêu trường hợp, khi yêu ai thì người mình yêu có khó chiu, có xấu tính cách mấy, người ta vẫn yêu, và ngược lại, “ghét nhau ghét cả đường đi lối về”. Trong đạo Phật có câu “có yêu có ghét, có sinh có tử” Thái thích nhất, vì thấy đúng vô cùng. Nếu đừng sinh ra đời thì làm gì có sự chết; nếu không yêu thì làm sao thành ghét. Chẳng lẽ tự nhiên lại ghét một kẻ qua đường sao?
Mới ngày nào đám cưới của Thái và Trang rộn tiếng cười vui, đầy lời chúc tụng. Tuần trăng đẫm mật ngọt. Thời gian bảy, tám năm, qua mau như một lằn chớp, chẳng thể ngờ bây giờ lại đưa đến tình trạng buồn nản này. Thái như sóng biển dạt dào vào bờ, Trang như mặt cát trơn láng, phẳng lì. Bờ cát không giữ nổi sóng biển, vẫn gần nhau mà vẫn xa nhau. Tình vợ chồng giữa Thái và Trang chỉ như sóng biển và bờ cát, thật gần mà thật xa, không phải không cần thiết.
Có bóng một cô gái đi ngang qua cửa phòng giáo sư. Cô này thoạt nhìn rất giống Hạnh làm Thái chợt giật mình. Tuy đã biết Hạnh thôi học từ hai tháng nay, hiện đang sống với gia đình ở Huế, Thái cảm thấy lòng mình se lại khi nhớ về Hạnh. “Vô lý!”, Thái tự mắng thầm và búng mạnh mẩu thuốc đang hút ra sân.
Tiếng cười của các bạn rộ lên, Thái chưa rõ họ đang cười về chuyện gì, nhưng cũng quay vào cười góp, làm như mình vẫn theo dõi câu chuyện. Giáo sư Đăng vừa cố nín cười vừa chỉ vào giáo sư Toàn nói đùa:
– Con lậy cụ, con cũng xin bái cụ làm thầy rồi nhờ cụ truyền giáo cho, để vụ đi coi thi kỳ này, con thực hành bắt chước cụ mới được.
Toàn tỉnh bơ, miệng ngậm pipe, bập bập giọng thành thạo:
– Đâu có dễ bắt chước như vậy. Chinh phục phái nữ phải có chiến thuật đàng hoàng mới được chứ.
Giáo sư Hoà chen vào:
– Quan trọng hóa làm gì, cứ nói huỵch toẹt, anh em nghe cho rồi. Vòng vo mãi!
– Từ từ chứ, các cậu khó tính bỏ xừ đi, để yên cho người ta còn “dậy” thằng Đăng.
Thái cũng muốn góp chuyện cho đỡ buồn, nhưng câu chuyện của các bạn làm Thái nhớ đến Nga. Từ ngày yêu Nga, Thái tránh, ít nói đùa về tình yêu. Anh lái câu chuyện sang vấn đề khác, hỏi Hoà:
– Kỳ coi thi năm nay, anh thích đi tỉnh nào?
– Thích đâu có được, ví dụ tôi thích đi Huế, nhưng hôm này rút thăm phải đi Cần Tho thì cũng phải chịu, chứ đâu có tùy thuộc vào ý thích của mình mà được.
– Đành vậy rồi, nhưng tôi muốn hỏi ý riêng anh muốn được đi đâu kìa.
– Đi Huế, mùa này đang độ sen, tôi rất thích được đứng trước hồ sen bát ngát. Ngoài ra còn được chiêm ngưỡng những mái tóc thề của gái Huế nữa chứ, chà thật tuyệt!
Nghe Hoà nhắc đến Huế, Thái ngầm có ý mong được đi coi thi ở Huế kỳ này. Anh nhớ lần nói chuyện với Hạnh, anh có hỏi nàng:
-Xa Huế, Hạnh nhớ gì nhất?
Bằng giọng thuần tuý của gái Huế, một chút gì nũng nịu pha với âm thanh trầm ấm như tiếng đàn tranh mười sáu dây não nuột, Hanh đáp nhỏ nhẹ:
– Dạ, em nhớ Ba Mạ và các em.
Thái cười, mắt không rời núm đồng tiền bên má cô gái.
– Không, tôi nói về thành phố Huế với những kỷ niệm của Hạnh kia. Còn nhớ gia đình là chuyện đương nhiên rồi.
– Dạ, như vậy em nhớ những buổi chiều đi dạo trong Thành Nội với vài chị bạn thân. Thưa, thầy đã ra Huế lần nào chưa?
– Có, hồi mới ở sư phạm ra, tôi có dạy ở Huế một thời gian.
– Như vậy, thầy đã đi hết các lăng tẩm và Thành Nội rồi?
– Mấy nơi đó thì không một người nào đã đến Huế mà lại không đi. Tôi yêu Huế vì vẻ trầm lặng, nhưng trong cái trầm lặng ẩn giấu biết bao thăng trầm của các thời đại. Có lẽ chính vì vậy mà tâm hồn người Huế cũng trầm lặng và đa dạng.
Hạnh nhìn Thái, ánh mắt long lanh đầy cảm mến, cô tủm tỉm cười hỏi Thái đúng câu Thái vừa hỏi cô:
– Thưa thầy, xa Huế thầy nhớ gì nhất?
Thái biết ý Hạnh hỏi trêu lại mình, anh cười rạng rỡ:
– Xem nào…, tôi nhớ một buổi chiều chớm đông, có mưa giây giây, thành phố Huế như chìm trong làn mây loãng, giòng sông Hương trở nên huyền ảo. Gió đầu mùa như ở một nơi nào xa xôi lắm thổi tới, gây lạnh nhưng lại làm tăng hơi ấm từ trong người toát ra. Những thân cây yên lặng, cành lá trĩu nước, mầu xanh như xanh tươi hơn.
Hạnh cười, ngắt lời:
– Thưa thầy, chắc thầy là nhà thơ?
– Không đâu Hạnh, mà cứ gì phải là nhà thơ mới nhận thức được thiên nhiên. Nhưng tôi chưa nói đến một cảnh tôi định nói, mà.
– Thưa thầy, cảnh gì ạ?
– Hạnh nhớ khoảng bờ sông Hương, nơi gần Phú Văn Lâu không?
– Thưa nhớ.
– Ở đấy, giữa cảnh trời mưa, không gian mờ mịt, thành phố vắng hẳn người qua lại, thế mà bên bờ sông, dưới gốc một cổ thụ, có ông thầy không biết bói tướng gì đó, vẫn ngồi thu người trên băng ghế gỗ.
Điều đáng chú ý nhất là lúc đó gió từ mé sông thổi lên rất lạnh, nước từ trên cây nhỏ xuống thành những hạt nặng. Tôi không thể quên được hình ảnh ông ta ngồi xổm trên băng ghế gỗ, dáng rét mướt thu hai đầu gồi lên ngực, tay che chiếc ô đen, mặc áo dài the thâm lộ ra chiếc quần vải trắng. Cho đến nay tôi vẫn không hiểu lý do nào mà ông ta lại ngồi dưới mưa như vậy. Bảo rằng đợi khách coi bói thì ai lại đội mưa, rét ra mà coi. Còn bảo ngồi chờ mưa tạnh thì ai chả biết cái cảnh mưa phùn xứ Huế, đâu có phải chốc lát mà tạnh được.
Còn Hạnh, chắc hẳn phải có kỷ niệm gì sâu đậm lắm mới làm Hạnh nhớ Thành Nội?
Nét mặt lắng đọng, Hạnh trả lời nhỏ tiếng:
– Dạ kỷ niệm riêng thì không, nhưng em nhớ vì nhà em ở gần đấy nên em có nhiều dịp đi dạo. Và nơi đó đã cho em nhiều cảm giác. Từ chiếc ngai ngày xưa Ngài ngự, em cũng quyến luyến như hơi hướng các vì Thiên Tử còn thấm sâu trong thớ gỗ. Từ những lối mòn trong vườn cây rậm, hay bên hồ sen, đâu đâu em cũng phảng phất thấy bóng dáng các nàng Cung Tần, các vị Hoàng Hậu ẩn hiện. Cả đến một vài cọng cỏ xanh nẩy lên giữa kẽ gạch nứt, hay mảng rêu phủ lạnh lẽo trên con đường gạch hoang vắng, cũng gây cho em một nỗi buồn tiền kiếp. Hình như từ thuở nào và xa lắm, em đã sống ở đấy, nhưng với cảnh huy hoàng nhộn nhịp. Thưa thầy, gia đình em sùng đạo Phật nên tin ở thuyết luân hồi. Có lần em đã kể với mạ em về cảm giác của em. Mạ em trầm ngâm một lúc, mới bùi ngùi nói:
-“Có lẽ tiền thân con là vị Hoàng Hậu hay Phi Tần gì đó chăng?
Nghe Hạnh kể xong Thái thấy bàng hoàng trước ý nghĩ của nàng. Không ngờ một cô gái mười bảy tuổi lại có được một tâm hồn như vậy. Thái nói:
– Cũng có thể mạ nói đúng, nhưng chắc tại em đọc sử nhiều, rồi luôn luôn có dịp sống với cảnh vật, với di tích cổ. Em lại sinh trưởng ngay tại thành phố cổ kính nên nẩy sinh ra tư tưởng như vậy đó thôi. Em có thích đọc sử không?
– Dạ, em rất ưng đọc sử, em mê nữa.
– Nếu thế, cảm nghĩ của em như vậy là phải rồi.