← Quay lại trang sách

Chương 5 NÀO AI  ĐẾN DỰ  DẠ YẾN

Chúng ta thường truất phế những chứng cứ dẫn đến sự thiểu nhược. Tức là, chúng ta bị thuyết phục mạnh mẽ bởi tính hợp lý từ nhận định của mình đến độ loại trừ chứng cứ nào không giúp ta kiên tín. Không một điều gì xứng đáng gọi là sự thật lại có thể đến bằng những phương cách như thế.

— MARILYNNE ROBINSON, Cái chết của Adam

⚝ ⚝ ⚝

Có những lúc ta chọn để tin một điều gì đó mà bình thường được xem là hoàn toàn phi lý. Điều đó không có nghĩa là nó thật sự phi lý, chỉ có điều chắc chắn nó không hợp lý. Có lẽ có một siêu hình: lý trí vượt ngoài các định nghĩa thông thường căn cứ trên luận lý của sự kiện hay dữ liệu, một điều gì đó chỉ hợp lý nếu bạn có thể nhìn thấy một bức tranh thực tế to lớn hơn. Có lẽ đó chính là nơi chốn của niềm tin.

Mack không chắc về nhiều điều, nhưng trong những ngày sau khi bị trượt ngã trên lối đi băng giá, có một lúc trong tâm can và trí não, anh đã tin rằng có ba cách lý giải hợp lý về lá thư. Hoặc thư đến từ Chúa, mà nghe thật vô lý, một trò đùa ác ý, hoặc một gì đó hung ác hơn nữa từ kẻ sát hại Missy. Dù gì thì lá thư vẫn chiếm lĩnh tâm tưởng của anh từng phút ban ngày và những giấc mơ về đêm.

Một cách bí mật, anh bắt đầu chuẩn bị kế hoạch để đi đến căn chòi vào cuối tuần sau. Thoạt đầu anh không nói với ai, kể cả Nan. Anh không có lời biện hộ nào thích đáng trong bất kỳ trường hợp nào nếu bị chất vấn sau khi nói ra, và anh lo rằng mình sẽ gặp bế tắc như thể bị nhốt vào phòng rồi quẳng luôn chìa khóa. Anh suy diễn rằng dù sao một cuộc đối thoại như thế chỉ mang lại thêm nỗi đau mà chẳng giải quyết gì. “Mình giữ kín cho riêng mình vì Nan,” anh tự nhủ. Vả lại, bàn về lá thư tức là thú nhận anh đã giữ những điều bí mật đối với nàng; những điều bí mật mà anh vẫn biện minh trong đầu mình. Đôi khi sự trung thực có thể hết sức rắc rối.

Tin tưởng vào sự đúng đắn của chuyến đi sắp tới, Mack bắt đầu tính cách để đưa gia đình đi khỏi nhà vào dịp cuối tuần mà không gây bất cứ sự hoài nghi nào. Có một khả năng nhỏ nhoi tên sát nhân đang định dụ anh ra khỏi thành phố, bỏ lại gia đình không ai che chở, và điều đó không thể chấp nhận được. Nhưng anh thấy bế tắc. Nan rất nhạy cảm đối với anh trong bất kỳ chuyện gì, và làm thế sẽ dẫn đến những câu hỏi mà anh chưa biết cách trả lời.

May thay cho Mack, chính Nan lại là người đưa ra một giải pháp. Nàng đang suy tính về chuyện đi thăm người chị và gia đình trên quần đảo San Juan, vùng biển khơi bang Washington. Anh rể của nàng là một nhà tâm lý học trẻ em, và Nan nghĩ rằng nếu được anh ấy giúp ý kiến chuyên môn về các hành vi phản kháng ngày càng trầm trọng của Kate thì thật hữu ích, nhất là khi cả nàng lẫn Mack đều không có tiến triển gì trong việc tiếp cận con bé. Khi nàng nêu ra ý định về chuyến đi, Mack háo hức hưởng ứng ngay.

“Em nên đi chứ,” là phản ứng của anh khi Nan bộc bạch. Đó không phải là câu đáp mà nàng mong chờ, và nàng đã nhìn anh hơi khác lạ. Anh lúng túng: “Ý anh thì anh nghĩ đó là một ý hay. Anh nhớ cả nhà chứ, nhưng anh ở một mình vài ngày không sao cả, đằng nào anh cũng có rất nhiều việc để làm.” Nàng thấy nhẹ nhõm, có lẽ dễ chịu vì kế hoạch chuyến đi đã mở ra quá dễ dàng.

“Em chỉ nghĩ tốt nhất là Kate được đi đâu đó vài ngày,” nàng nói thêm, và anh gật đầu đồng ý.

Một cú điện thoại cho chị của Nan và chuyến đi đã được thu xếp. Căn nhà chẳng mấy chốc lại nhộn nhịp. Josh và Kate đều vui; việc này sẽ kéo dài kỳ nghỉ xuân của chúng thêm một tuần. Chúng thích đến thăm những người anh em họ và dễ dàng ủng hộ ý tưởng này, mà thật ra chúng cũng chẳng có bất kỳ sự lựa chọn nào.

Mack bí mật gọi cho Willie và hỏi mượn chiếc xe Jeep hai cầu của người bạn trong lúc cố gắng một cách không thành công lắm trong việc không tiết lộ quá nhiều thông tin. Vì Nan dùng chiếc xe thùng, anh cần một chiếc khác thích hợp hơn chiếc xe nhỏ của mình để thi thố trên những đoạn đường giằng xóc ở khu bảo tồn, mà chắc hầu như vẫn còn chìm trong cảnh khắc nghiệt của mùa đông. Yêu cầu khác lạ của Mack không tránh khỏi khiến Willie gạn hỏi, những câu hỏi mà Mack cố hết sức để trả lời một cách tránh né. Willie đã hỏi thẳng thừng có phải Mack định đi một chuyến đến căn chòi, Mack đáp rằng anh không thể trả lời câu hỏi ngay lúc đó nhưng sẽ giải thích đầy đủ khi Willie mang xe đến vào buổi sáng.

Cuối chiều thứ năm Mack ôm hôn tiễn Nan, Kate và Josh, rồi anh từ tốn bắt đầu chuẩn bị cho chuyến đi dài đến Đông Bắc Oregon - đến nơi ác mộng của mình. Anh suy luận rằng mình chẳng cần gì nhiều nếu Chúa đã mời gọi, nhưng để dự phòng, anh đã nạp vào bình cách nhiệt nhiều nước hơn cả mức cần thiết cho đoạn đường rồi lấy thêm một chiếc túi ngủ, một số nến, diêm và một vài dụng cụ thoát hiểm. Rõ ràng, anh có khả năng biến thành một tên đần độn hoặc mục tiêu của một trò đùa tai ác nào đó, nhưng lúc ấy anh chỉ việc lái về mà thôi. Một tiếng gõ cửa làm Mack giật mình trong lúc đang tập trung, và anh nhận ra đó là Willie. Cuộc đối thoại của họ ắt hẳn đủ phức tạp để khiến người bạn đến sớm. Mack nhẹ người vì Nan đã đi rồi.

“Tôi đây, Willie. Trong nhà bếp.” Mack gọi với.

Một giây sau, Willie thò đầu vào và lắc đầu nhìn đống hỗn độn Mack bày ra. Anh đứng dựa khung cửa và khoanh tay. “Tôi đã mang chiếc Jeep đến và đổ đầy xăng rồi, nhưng tôi không đưa chìa khóa chừng nào anh bạn chưa nói rõ chuyện gì đang xảy ra.”

Mack tiếp tục nhét đồ đạc vào mấy cái túi cho chuyến đi. Anh biết nói dối bạn vô ích, và anh cần chiếc Jeep. “Tôi quay lại căn chòi, Willie à.”

“Tôi cũng đoán như vậy mà. Điều tôi muốn biết là tại sao anh lại muốn quay lại đó, nhất là vào lúc này trong năm. Không biết chiếc Jeep có cõng nổi tụi mình lên đó không. Nhưng để dự phòng, tôi cất xích ở đằng sau biết đâu mình cần.”

Không nhìn bạn, Mack đi vào văn phòng, cạy nắp hộp thiếc nhỏ để lấy lá thư. Quay vào nhà bếp, anh trao cho Willie. Người bạn lật ra rồi đọc thầm. “Trời, thằng quái gàn nào viết thư cho anh kiểu này vậy? Cha này là ai?”

“Anh biết đó, Cha - tên mà Nan ưa thích gọi Chúa.” Mack nhún vai, không biết nói gì nữa. Anh cầm lại lá thư rồi nhét vào túi áo sơmi.

“Khoan đã, anh không nghĩ đây là thư của Chúa thật đấy chứ?”

Mack dừng bước và xoay lại đối diện anh ta. Đằng nào anh cũng sắp đóng gói đồ đạc xong rồi. “Willie, tôi không biết nghĩ gì về việc này. Mới đầu, tôi nghĩ rằng đây là một trò chơi xỏ và tôi tức giận đến phát khùng. Có thể tôi không được tỉnh táo. Tôi biết nói ra nghe điên rồ, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy bị cuốn hút một cách kỳ lạ phải tìm cho ra vụ này. Tôi phải đi, Willie, nếu không thì tôi điên luôn.”

“Anh có nghĩ đến khả năng đây là tên sát nhân không? Nếu hắn dụ anh đến vì một lý do nào đó thì sao?”

“Dĩ nhiên tôi có nghĩ đến chuyện đó. Trong thâm tâm tôi cũng có phần chẳng ngạc nhiên nếu có chuyện đó. Tôi có món nợ phải thanh toán với hắn,” anh nói giọng dứt khoát rồi ngưng lại. “Nhưng khả năng đó cũng không hợp lý lắm. Tôi không nghĩ tên sát nhân lại ký thư này là Cha. Anh phải biết rất rõ gia đình tôi thì mới nghĩ ra chuyện đó được.”

Willie bối rối.

Mack nói tiếp: “Và không có ai biết rõ gia đình tôi đến mức ấy mà lại gửi một bức thư thế này. Tôi nghĩ chỉ có Chúa thôi... có lẽ.”

“Nhưng Chúa không làm những chuyện như thế. Ít ra tôi chưa bao giờ nghe Chúa gửi thư cho ai cả. Không phải Chúa không làm được, nhưng... anh hiểu ý tôi rồi đó. Mà tại sao Chúa muốn anh quay lại căn chòi? Tôi không nghĩ ra chỗ nào tệ hơn...” Sự im lặng treo giữa họ trở nên khó xử.

Mack dựa người vào quầy bếp phía sau và nhìn chằm chằm xuống sàn trước khi cất giọng. “Tôi không chắc, Willie. Trong thâm tâm tôi có phần muốn tin rằng Chúa quan tâm đến tôi đến mức gửi thư cho tôi. Tôi rất hoang mang, sau bấy nhiêu thời gian. Tôi cảm thấy như chúng tôi đang mất Kate và điều đó làm tôi đau khổ muốn chết. Có lẽ chuyện xảy ra với Missy là sự phán xét của Chúa cho việc làm của tôi đối với bố tôi. Tôi không biết được.” Anh ngước nhìn vào mặt người đàn ông quan tâm đến anh hơn ai hết mà anh biết, ngoại trừ Nan. “Tôi chỉ biết tôi cần phải trở lại.”

Lại một sự im lặng giữa họ trước khi Willie lên tiếng trở lại. “Vậy chừng nào mình đi?”

Mack xúc động bởi người bạn sẵn sàng nhảy vào cơn điên của mình. “Cám ơn anh bạn, nhưng tôi rất cần làm chuyện này một mình.”

“Tôi biết anh sẽ nói vậy mà,” Willie vừa đáp vừa quay bước ra khỏi phòng. Một lát sau anh quay lại với một khẩu súng lục và một hộp đạn trong tay. Anh đặt nhẹ chúng lên quầy. “Tôi đoán là tôi không thể thuyết phục anh đừng đi, nên tôi nghĩ biết đâu anh cần đến thứ này. Tôi tin là anh biết cách dùng.”

Mack nhìn khẩu súng. Anh biết Willie có thiện ý và đang cố gắng giúp đỡ. “Willie, tôi không biết dùng. Ba mươi năm rồi tôi chưa cầm súng trở lại và bây giờ tôi cũng không định. Bài học của tôi trong đời là nếu dùng bạo lực để giải quyết một vấn đề thì tôi luôn gặp một vấn đề tệ hại hơn.”

“Nhưng nếu đó là tên giết hại Missy thì sao? Nếu hắn đang chờ anh trên đó thì sao? Khi ấy anh sẽ làm gì?”

Anh nhún vai. “Tôi thật lòng không biết, Willie. Chắc tôi sẽ thử thời vận vậy.”

“Nhưng anh vô phương tự vệ. Làm sao biết hắn nghĩ gì trong đầu, hay thủ sẵn trong tay. Cứ cầm đi, Mack.” Willie đẩy khẩu súng và đạn trên quầy về phía anh. “Anh đâu có bị bắt buộc phải dùng.”

Mack nhìn xuống khẩu súng và sau khi suy tính bèn từ tốn với lấy súng và đạn, cẩn thận nhét vào túi. “Ok, để dự phòng.” Rồi anh quay lại lấy thêm một số dụng cụ và với súng đã nạp đạn, bước ra xe Jeep. Willie xách túi đồ lớn còn lại, thấy nặng hơn anh tưởng, vừa nhấc lên vừa kêu.

“Trời, Mack, nếu anh nghĩ là Chúa đang chờ ở đó thì đem đủ thứ đồ theo làm gì?”

Mack cười khá buồn “Tôi chỉ định mang dự phòng thôi. Chuẩn bị nếu sẽ có chuyện gì đó... hay chẳng có gì cả.”

Họ đi ra khỏi nhà đến chỗ lối đi nơi chiếc Jeep đang đậu. Willie rút chìa khóa trong túi ra trao cho Mack.

“Vậy,” Willie phá tan sự im lặng, “mọi người đâu rồi, còn Nan nghĩ gì khi anh đi đến căn chòi đó? Tôi không tưởng tượng được cô ấy hài lòng.”

“Nan và mấy đứa nhỏ đi thăm người chị cô ấy ở đảo, mà... tôi không nói với cô ấy,” Mack thú thật.

Willie ngạc nhiên ra mặt. “Gì! Anh chưa bao giờ giấu cô ấy điều gì. Tôi không ngờ anh nói dối cô ấy!”

“Tôi đâu có nói dối cô ấy,” Mack phản ứng.

“Bỏ qua cho tôi vì đã xía vào chuyện này,” Willie đáp trả. “Đúng rồi, anh đâu có nói dối cô ấy vì anh đâu có nói với cô ấy toàn bộ sự thật. Ừ thì cô ấy cũng sẽ hiểu hết thôi.” Willie nhướn mày.

Mack không đếm xỉa đến cơn bực dọc và bước lui vào trong phòng làm việc trong nhà. Trong ấy, anh tìm thấy một bộ chìa khóa dự phòng của xe hơi và nhà, ngập ngừng giây lát, anh cầm lấy chiếc hộp thiếc. Rồi anh quay trở ra đến chỗ Willie.

“Vậy anh nghĩ con người ấy trông ra sao?” Willie cười tủm tỉm khi anh tiến đến.

“Ai?” Mack hỏi.

“Chúa chứ ai. Anh nghĩ Ngài trông ra sao, nếu như Ngài xuất hiện? Tôi hình dung chắc anh sẽ làm cho mấy người đi dã ngoại sợ chết khiếp - anh sẽ hỏi xem có phải Ngài là Chúa không rồi bắt Ngài trả lời đủ thứ.”

Mack cười toe toét khi nghe ý đó. “Không biết nữa. Có thể Ngài là một nguồn sáng rực rỡ, hay là một bụi cây bốc lửa. Tôi thì lúc nào cũng hình dung Ngài là một ông cụ thật to lớn râu dài bạc phơ, giống như Gandalf trong Chúa tể của những chiếc nhẫn của Tolkien.”

“Này, nếu Chúa xuất hiện thì cho tôi gửi lời chào nhé,” Willie vừa nói vừa cười. “Bảo Ngài rằng tôi cũng có mấy câu hỏi riêng. Mack này, đừng có làm Ngài nổi giận nhé.” Cả hai cùng cười. “Nói nghiêm túc đấy,” Willie tiếp lời, “tôi lấy làm lo cho anh bạn. Giá mà tôi đi cùng, hay là Nan, hay là một ai đó. Hy vọng anh sẽ tìm thấy những gì cần tìm trên đó. Tôi sẽ cầu nguyện cho hai người.”

“Cám ơn nhé, Willie. Tôi quý anh lắm.” Anh vẫy chào trong khi Willie lùi ra khỏi lối đi. Mack biết anh bạn của mình sẽ giữ lời. Chắc là anh cũng cần đến tất cả những lời cầu nguyện có thể có được.

Anh dõi nhìn đến lúc Willie chạy qua khúc quanh rồi mất dạng, rồi rút lá thư trong túi áo ra đọc một lần nữa, rồi cất lại vào trong chiếc hộp thiếc nhỏ, đặt trên ghế sau cùng với các đồ đạc chất trên đó. Khóa cửa lại, anh quay vào nhà để trải qua một đêm không ngủ.

***

Từ mờ sáng thứ sáu, Mack đã ra khỏi thành phố theo đường I-84. Nan đã gọi điện đêm trước từ nhà chị gái báo tin cả gia đình đến nơi an toàn, và anh định bụng ít ra đến chủ nhật mới có một cú điện nữa. Đến lúc đó chắc anh đã trên đường về rồi, nếu như chưa về đến nhà. Anh đã chuyển tiếp cuộc gọi từ điện thoại nhà sang điện thoại di động để dự phòng, mặc dù không định nghe điện thoại khi đã vào khu bảo tồn.

Anh đi lại con đường đã đi ba năm rưỡi trước đó, với một vài đổi thay nho nhỏ: không có quá nhiều ổ gà và anh lướt qua thác Multnomah mà không ngắm nhìn. Anh đã dẹp bỏ mọi ý nghĩ về nơi ấy từ khi Missy mất tích, giam sâu chôn chặt cảm xúc tận đáy lòng.

Trên chặng đường dài đến hẻm núi, Mack bắt đầu cảm thấy một nỗi hoang mang càng lúc càng trỗi dậy. Anh cố tránh không nghĩ đến việc đang làm và cố gắng luôn dấn bước, nhưng giống như trứng chọi đá, cảm xúc và nỗi sợ bị kìm nén bắt đầu tìm cách len ra. Mắt anh tối sầm và bàn tay siết chặt tay lái để chống lại sự thôi thúc quay xe về nhà mỗi khi đến khúc quanh. Anh biết mình đang lái thẳng vào chính giữa nỗi đau của mình, cơn lốc xoáy của nỗi đau lớn đã từng triệt hạ trong anh ý thức về sự sống. Những hình ảnh chớp nhoáng của ký ức và những khoảnh khắc cuồng dại nhói đau giờ đây ập đến thành từng đợt sóng, hòa cùng vị đắng và vị máu trong miệng.

Cuối cùng anh đến La Grande, dừng lại đổ xăng, rồi đi theo xa lộ 82 đến Joseph. Trước đó, anh đã tần ngần muốn dừng bước tìm Tommy nhưng rồi quyết định thôi. Càng ít người nghĩ anh là một tên lú lẫn điên rồ càng tốt, đổ xăng xong anh đi tiếp.

Xe cộ thưa thớt, vùng Imnaha và những con đường nhỏ khá trống trải và khô ráo vào mùa này, ấm hơn nhiều so với anh hình dung. Nhưng dường như càng lái lâu anh càng đi chậm, như thể căn chòi đang khước từ anh. Chiếc Jeep băng vào vùng tuyết vĩnh cửu để bắt đầu những dặm cuối cùng dẫn đến con đường mòn hướng đến căn chòi. Át cả tiếng rú của động cơ, anh nghe thấy cả tiếng lốp xe lì lợm nghiến vào tuyết và băng dày. Thậm chí sau mấy lần quẹo sai đường phải quay lui, khi Mack đậu xe lại ở đầu đường mòn, lúc ấy chỉ mới đầu giờ chiều.

Anh ngồi đó gần năm phút tự trách mình sao ngốc nghếch đến vậy. Mỗi dặm đường đi qua từ Joseph, ký ức lại quay về rõ ràng đến choáng ngợp, và bây giờ trí não anh biết chắc rằng mình không muốn đi thêm nữa. Nhưng sự thôi thúc từ bên trong lại không gì cưỡng được. Trong lúc tinh thần giằng xé, anh đưa tay cài áo khoác và với lấy đôi găng da.

Anh đứng đó nhìn xuống con đường, quyết định bỏ lại mọi thứ trong xe và đi bộ chừng cả dặm đường để đến hồ; ít nhất theo cách đó anh không phải vác theo thứ gì đi ngược trở lại lên đồi khi quay về, một điều mà giờ đây anh mong sắp diễn ra.

Trời đủ lạnh để không khí anh thở ra ngưng đọng lại quanh mình và tưởng chừng như nó sắp đóng băng. Cơn đau chất chứa trong bụng anh giờ đây khiến anh phát hoảng. Sau năm bước chân, anh dừng lại và ọe thốc ra mạnh đến độ ngã quỳ xuống đất.

“Cứu con với!” anh rên rỉ. Anh đứng dậy trên đôi chân run rẩy và dợm bước về phía chiếc xe. Rồi anh dừng lại và quay bước. Anh mở cửa sau rồi với tay vào sục sạo đến khi sờ thấy chiếc hộp thiếc. Anh cạy nắp hộp ra và tìm thấy thứ mình đang tìm kiếm, bức ảnh Missy mà anh yêu thích, rồi lấy nó ra cùng với bức thư. Đậy nắp lại, anh bỏ chiếc hộp lại trên ghế. Anh dừng một lát ngắm nhìn ngăn kéo trên xe. Cuối cùng, anh mở ra lấy khẩu súng của Willie, kiểm tra xem đạn đã nạp chưa rồi cài chốt an toàn. Đứng dậy, anh đóng cửa xe, với lấy áo khoác, nhét khẩu súng vào thắt lưng phía sau. Anh quay người nhìn con đường một lần nữa, nhìn tấm ảnh Missy một lần cuối trước khi nhét vào túi áo sơmi cùng với lá thư. Nếu người ta tìm thấy anh đã chết, ít nhất họ biết anh đang nghĩ đến ai.

Con đường mòn đầy bất trắc, những tảng đá đóng băng và trơn trượt. Mỗi bước đều phải tập trung trong khi đi xuống khu rừng rậm rạp. Cảnh vật yên ắng một cách khác lạ. Âm thanh duy nhất anh nghe thấy là tiếng bước chân lạo xạo trên tuyết và hơi thở của anh nặng nhọc. Mack bắt đầu có cảm giác mình bị theo dõi, và thậm chí một lần anh quay phắt lại xem có ai không. Anh càng muốn quay người bỏ chạy về chỗ chiếc xe Jeep thì đôi bàn chân dường như lại càng có ý riêng của chúng, quyết đi tiếp xuống dưới và đi sâu vào cánh rừng lờ mờ và càng lúc càng rậm rạp.

Đột nhiên có thứ gì đó di chuyển gần kề. Giật mình, anh đứng bất động, im lặng và cảnh giác. Tim đập thình thịch bên tai, miệng chợt khô khốc, anh từ từ với tay ra sau lưng rút súng ra khỏi thắt lưng. Bật chốt an toàn, anh nhìn chăm chú vào trong bụi cây thấp tối mò, cố dõi nhìn hay lắng nghe một thứ gì đó để giải thích cho tiếng động và làm mình bớt xáo động. Nhưng thứ gì đó đã chuyển động giờ đây đã ngừng. Nó đang chờ anh? Để chắc ăn, anh đứng bất động trong vài phút trước khi bắt đầu nhích tới trên con đường mòn về phía dưới, cố gắng càng yên lặng càng tốt.

Khu rừng dường như vây quanh anh và anh bắt đầu thắc mắc một cách sợ sệt liệu mình có đi sai đường không. Trong khóe mắt anh lại thấy có sự chuyển động và lập tức ngồi thụp xuống, nhìn xuyên qua tán cành thấp của một cái cây cạnh đó. Một thứ gì đó ma quái, như một cái bóng, đã luồn vào trong bụi rậm. Hay là anh tưởng tượng ra? Anh lại chờ đợi, không nhúc nhích một cơ bắp nào. Có phải Chúa không? Lòng anh đầy hoài nghi. Có lẽ một con thú? Anh không nhớ nổi trên này có sói, hươu hay nai sừng tấm có thể gây tiếng động. Rồi anh nghĩ đến điều mà anh vẫn tránh né: “Nếu tệ hơn thì sao? Nếu hắn đã và đang rình rập trên này thì sao? Nhưng để làm gì?”

Từ từ đứng dậy khỏi nơi ẩn nấp, súng vẫn trong tay, anh bước một bước về phía trước thì đột nhiên bụi rậm phía sau anh dường như bùng nổ. Mack quay phắt lại, kinh sợ và chuẩn bị chiến đấu để thoát thân, nhưng chưa kịp bóp cò thì anh nhận ra phần sau của một con lửng lao vụt đi lên trên con đường mòn. Anh từ từ thở ra một hơi thở từ nãy giờ nén lại không hề hay biết, hạ súng xuống rồi lắc đầu. Chàng Mack gan dạ chỉ còn là một cậu bé sợ sệt trong rừng. Cài lại chốt an toàn, anh nhét súng vào. “Có người mệt đấy,” anh nghĩ bụng trong khi thở ra nhẹ nhõm.

Hít một hơi sâu và thở ra chầm chậm, anh trấn tĩnh lại. Nhận định rằng mình đã hết sợ rồi, anh tiếp tục đi, cố gắng tỏ ra tự tin hơn cảm giác trong lòng. Anh hy vọng mình không vượt qua bao nhiêu dặm đường vô ích. Nếu Chúa sắp gặp anh ở đây, anh rất nôn nao muốn trút bỏ vài nỗi niềm chất chứa, dĩ nhiên là một cách tôn kính.

Sau vài lần rẽ lối, anh thoát khỏi khu rừng và bước ra khoảng trống. Xa xa dưới sườn đồi anh lại thấy nó - căn chòi. Anh đứng, nhìn nó, lòng rối bời cảm xúc và bấn loạn. Vẻ ngoài nó dường như chẳng có gì thay đổi ngoài tiết đông đã làm trụi lá cây cối và bức màn tuyết trắng bao trùm xung quanh. Căn chòi trông có vẻ chết chóc và trống rỗng, nhưng khi anh nhìn chằm chằm dường như trong khoảnh khắc nó biến thành một gương mặt quái quỷ, vặn vẹo trông một dung mạo xấu xí của quỷ sứ, nhìn ngược lại anh và thách thức anh dám tiến đến. Bất chấp cảm giác sợ hãi trào dâng, Mack kiên quyết bước một trăm bộ cuối cùng về phía dưới đến trước hiên nhà.

Ký ức và nỗi kinh hoàng của lần cuối cùng đứng tại khung cửa này tràn về và anh ngập ngừng trước khi đẩy cửa. “Xin chào?” anh gọi, không quá lớn tiếng. Hắng giọng, anh gọi lại lần nữa, lần này lớn hơn. “Xin chào? Có ai ở đây không?” Giọng anh vang dội vào khoảng trống trong nhà. Cảm thấy gan lì hơn, anh bước hẳn qua khung cửa rồi dừng lại.

Khi mắt quen dần với bóng tối, anh bắt đầu nhận ra chi tiết của căn phòng bởi ánh sáng chiều lọt qua khung cửa sổ vỡ. Bước vào phòng chính, anh nhận ra cái ghế và cái bàn cũ. Mack không cưỡng lại được chính mình khi đôi mắt anh hướng về nơi mà anh không dám nhìn. Đã mấy năm rồi mà vết máu phai vẫn còn nhìn rõ mồn một trên ván gỗ gần lò sưởi nơi người ta tìm thấy chiếc áo của Missy. “Bố hết sức xin lỗi con, con ơi.” Nước mắt bắt đầu dâng lên trong mắt anh.

Rồi cuối cùng tim anh bùng nổ như một cơn thác lũ, tháo tung cơn tức giận tích tụ để nó chảy tràn trên thung lũng cảm xúc sỏi đá. Ngước mắt lên trời, anh bắt đầu hét lên những câu hỏi khổ đau. “Tại sao? Tại sao Chúa lại để xảy ra chuyện này? Tại sao người lôi tôi đến đây? Bao nhiêu nơi để gặp - tại sao lại ở đây ?” Con tôi bị giết hại chưa đủ sao? Người lại đùa với cả tôi nữa sao?” Trong một cơn cuồng nộ mù quáng, Mack chộp lấy chiếc ghế gần nhất và ném vào cửa sổ. Nó gãy tan. Anh nhặt một chân ghế lên rồi bắt đầu tàn phá mọi thứ trong tầm tay. Những tiếng kêu rên rỉ, than van của tuyệt vọng và điên cuồng bật ra từ môi anh trong khi anh trút cơn thù hằn vào nơi chốn khủng khiếp này. “Tôi căm ghét người!” Trong cơn mê loạn anh trút hết thịnh nộ cho đến khi nhừ tử và kiệt lực.

Thất vọng và bất lực, Mack ngồi sụp xuống sàn cạnh vết máu. Anh chạm vào nó một cách cẩn trọng. Đây là tất cả những gì còn lại của Missy. Nằm xuống cạnh cô bé, ngón tay anh dịu dàng lần bước theo viền máu đã phai màu và thầm thì nhẹ nhàng: “Missy, bố hết sức xin lỗi. Bố xin lỗi đã không bảo vệ được con. Bố xin lỗi đã không tìm thấy con.”

Thậm chí trong lúc kiệt lực, cơn tức giận vẫn trào sôi và một lần nữa anh lại nhắm vào đấng Chúa thờ ơ mà anh hình dung đang ở đâu đó bên trên mái nhà. “Chúa, người còn không để cho chúng con tìm thấy con bé để chôn cất cho tử tế. Đòi hỏi như thế có gì quá đáng không?”

Trong hỗn độn của cảm xúc hết cuốn trôi lại dâng trào, cơn thịnh nộ của anh nhường bước cho nỗi đau, một con sóng đau buồn mới mẻ lại bắt đầu hòa nhịp với hoang mang. “Vậy người ở đâu? Người muốn gặp tôi ở đây mà? Tôi đây, Chúa ơi. Còn Chúa? Chẳng thấy người ở đâu! Khi tôi cần chẳng bao giờ thấy Chúa - cả khi tôi còn nhỏ, cả khi tôi mất Missy. Giờ đây nữa! ‘Papa’ gì kỳ vậy!” Anh phun ra hàng tràng.

Mack ngồi đó trong yên lặng, sự trống rỗng của nơi này xâm lấn hồn anh. Mớ bòng bong những câu chất vấn không có lời đáp và những lời cáo buộc cuồng nộ lắng xuống bên cạnh anh trên sàn nhà, rồi từ từ trôi vào chiếc hố ưu phiền. Nỗi đau siết chặt quanh anh, và anh gần như mời mọc cảm giác âm ỉ này. Nỗi đau này anh biết. Anh đã quen với nó rồi, gần như một người bạn.

Mack cảm nhận được khẩu súng đằng sau lưng, cảm giác cuốn hút lành lạnh trên da. Anh rút súng ra, không biết để làm gì. Ồ, để không còn quan tâm, để không còn cảm giác đau, để không còn cảm giác gì nữa. Tự tử? Trong khoảnh khắc ý tưởng ấy thật hấp dẫn. “Thật dễ quá,” anh nghĩ. “Không còn nước mắt, chẳng còn nỗi đau...” Anh như thấy cả một hố đen toác ra trên sàn đằng sau khẩu súng mà anh đang ngắm nhìn, một khoảng tối hút lấy mọi dấu vết hy vọng cuối cùng trong tim anh. Tự sát là một cách để trả đũa Chúa, nếu như có Chúa.

Những đám mây bên ngoài dạt ra, và một tia nắng mặt trời chợt lọt vào phòng, xuyên thấu nỗi tuyệt vọng của anh. Nhưng... còn Nan thì sao? Còn Josh, Kate, Tyler và Jon thì sao? Anh muốn ngăn nỗi đau trong tim mình biết bao, anh biết anh cũng không thể làm chúng thêm đau.

Mack ngồi thẫn thờ trong sự khánh kiệt cảm xúc, cân nhắc những sự lựa chọn với khẩu súng trên tay. Một làn gió lạnh lướt trên mặt anh và trong thâm tâm anh phần nào muốn nằm xuống để chết đi vì lạnh cóng, anh đã quá kiệt sức. Anh ngồi thụp xuống dựa vào tường rồi dụi đôi mắt mệt mỏi. Anh nhắm mắt lại và lẩm bẩm: “Bố yêu con Missy. Bố nhớ con nhiều lắm.” Rồi chẳng mấy chốc anh trôi tuột vào giấc ngủ li bì.

Chắc chỉ vài phút sau thì Mack choàng dậy. Ngạc nhiên vì mình ngủ thiếp, anh đứng phắt dậy. Nhét súng trở lại trong thắt lưng và cất cơn giận vào đáy sâu thẳm trong tâm hồn, anh bước ra cửa. “Thật là quái gở! Mình đúng là thằng đần! Lại còn hy vọng Chúa quan tâm đến mức gửi thư!”

Anh nhìn lên xà nhà. “Đủ rồi, Chúa,” anh thì thào. “Tôi hết chịu nổi rồi. Tôi đã mệt mỏi phải tìm kiếm người khắp nơi.” Vừa nói anh vừa bước ra cửa. Anh quyết định đây là lần cuối anh đi tìm Chúa. Nếu Chúa muốn anh, Chúa phải đến với anh.

Anh thò tay vào túi lấy ra bức thư nhận được từ thùng thư rồi xé thành từng mảnh, để mặc cho nó từ từ rơi qua kẽ tay, cuốn bay theo cơn gió lạnh tràn tới. Một người đàn ông mệt mỏi, anh bước ra khỏi hiên nhà, với những bước chân nặng nề và một cõi lòng còn nặng nề hơn, anh bắt đầu cuốc bộ trở lại xe.

***

Anh bước đi chưa được năm mươi bộ lên con đường mòn thì cảm thấy một luồng khí ấm bất chợt ập đến với mình từ phía sau. Tiếng chim hót chiêm chiếp phá tan sự tĩnh lặng băng giá. Con đường phía trước mặt anh thoắt biến mất lớp băng tuyết bao phủ, như thể có ai bật máy sấy. Mack dừng lại nhìn trong khi bốn bề xung quanh màu trắng bao trùm tan biến và được thay thế bằng một sự lớn dậy rực rỡ. Ba tuần lễ mùa xuân nảy nở trước mắt anh trong vòng ba mươi giây. Anh dụi mắt và trấn tĩnh lại giữa cơn lốc các sự việc. Thậm chí những bông tuyết mỏng đang rơi xuống cũng chợt biến thành những bông hoa li ti rơi lững lờ rồi đáp xuống đất.

Cảnh tượng anh đang nhìn thấy dĩ nhiên là hoàn toàn không thể. Lớp tuyết biến mất và hoa dại mùa xuân bắt đầu tô điểm bên lề con đường mòn và cả trong rừng đến tận nơi thật xa mà mắt anh nhìn thấy. Chim cổ đỏ và se sẻ đuổi nhau giữa các tàn cây. Sóc và sóc chuột thỉnh thoảng băng ngang con đường phía trước, một số con còn ngồi lại và nhìn anh một lát trước khi lủi vào bụi cây. Anh thậm chí còn nghĩ rằng mình đã thoáng thấy một con hươu đực hiện ra từ một trảng tối trong rừng, nhưng nhìn lại thì nó đã đi mất. Như thể bấy nhiêu chưa đủ, hương hoa bắt đầu lan trong không trung, không phải là mùi thoang thoảng của hoa dại trên núi, mà là hương ngào ngạt của hoa hồng, hoa lan và các hương thơm lạ lùng khác chỉ thấy ở những vùng nhiệt đới.

Mack không còn nghĩ về nhà nữa. Một nỗi khiếp sợ chụp lấy anh, như thể anh đã mở tung hộp Pandora và đang bị cuốn đi vào giữa cơn khùng điên, biến mất mãi mãi. Lảo đảo, anh cẩn thận xoay người lại, cố bám víu lấy một chút ý thức minh mẫn.

Anh choáng váng. Chẳng còn giống mấy với trước đây, nếu có giống. Căn chòi đổ nát đã được thay thế bằng một ngôi nhà gỗ các chắc chắn và xây cất đẹp đẽ, đang đứng chắn giữa anh và hồ nước, mà anh đang nhìn từ ngay phía trên mái nhà. Nó được làm bằng những thanh gỗ dài hết cỡ và bào bằng tay, mỗi thanh đều được cưa đo vừa khít.

Thay cho những bụi rậm tăm tối um tùm khủng khiếp, những dây tầm xuân, và hang ổ của quỷ sứ, mọi thứ Mack nhìn thấy giờ đây hoàn hảo như tranh. Khói lững lờ bốc lên từ ống khói buông vào bầu trời chiều hôm, một dấu hiệu của sự sinh hoạt trong nhà. Một lối đi đã được làm sẵn dẫn thẳng đến và vòng quanh hàng hiên, viền bởi một hàng rào cọc trắng. Âm thanh tiếng cười vẳng đến từ đâu đó gần kề - có lẽ từ bên trong, nhưng anh không chắc.

Có lẽ cảm giác này cũng giống như trải nghiệm một cơn loạn thần kinh. “Mình mất trí rồi,” Mack nhủ thầm. “Không thể có chuyện này được. Không thể có thực được.”

Đó là một nơi Mack chỉ có thể tưởng tượng trong những giấc mơ tươi đẹp nhất, và điều này càng làm cho chuyện thêm đáng ngờ. Cảnh tượng thật kỳ thú, hương thơm gây đê mê, còn đôi bàn chân anh, như thể chúng có trí não riêng, đã đưa anh quay trở lại lối đi và tiến đến hàng hiên trước nhà. Hoa nở khắp nơi và hương hoa cỏ các loại gợi trong anh những ký ức từ lâu quên lãng. Anh vẫn nghe nói chiếc mũi là mối liên hệ tốt nhất với quá khứ, và khứu giác là mạnh nhất để tìm lại ký ức lãng quên, và giờ đây ký ức xưa cũ của thời niên thiếu vụt lướt trong tâm trí anh.

Khi đến hàng hiên anh lại dừng chân. Những giọng nói rõ ràng phát ra từ trong nhà. Mack cưỡng lại sự thôi thúc đột nhiên trỗi dậy muốn anh bỏ chạy, như thể anh là một cậu nhóc đã ném bóng vào vườn hoa của người láng giềng. “Nhưng nếu Chúa ở trong thì cũng đâu có hay ho gì mấy?” Anh nhắm mắt lại rồi lắc đầu xem thử mình có giũ bỏ được ảo giác và tái hiện lại thực tại không. Nhưng khi mở mắt ra, mọi thứ vẫn còn đó. Anh ngập ngừng đưa tay ra chạm lấy thanh vịn bằng gỗ. Rõ ràng nó có vẻ thật.

Giờ đây, anh lại đối diện với một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Ta sẽ làm gì khi đứng trước cửa một căn nhà, hay là căn chòi trong trường hợp này, mà Chúa ở bên trong? Có nên gõ cửa không? Mà chắc là Chúa cũng đã biết Mack đang ở đây rồi. Có lẽ cứ bước vào và tự giới thiệu thôi, nhưng như thế dường như cũng kỳ cục chẳng kém. Rồi xưng hô với Chúa thế nào đây? Gọi người là Cha, hay Đấng Toàn năng, hay đơn giản là Chúa, rồi tốt nhất có phải là sụp xuống để tôn kính người hay không, thật sự anh thấy tâm trạng mình không sẵn sàng.

Trong khi cố gắng lấy lại quân bình trong tâm trí, cơn thịnh nộ mà anh tưởng mới đây đã tan biến trong lòng giờ lại bắt đầu trỗi dậy. Không còn băn khoăn hay nghĩ ngợi phải xưng hô với Chúa như thế nào và bị kích động bởi cơn thịnh nộ, anh bước thẳng đến cửa. Mack quyết định xô mạnh cửa bước vào xem sao, nhưng khi anh vừa vung tay định làm thế thì cửa mở ra, và anh ngay trước mặt anh là một phụ nữ to lớn người Mỹ gốc Phi đang tươi cười.

Anh nhảy lùi lại theo bản năng, nhưng quá chậm. Với tốc độ trái ngược với vóc dáng của mình, chị bước lên xóa nhòa khoảng cách giữa họ và ôm anh trong đôi tay, nhấc bổng anh lên khỏi mặt đất và xoay anh vòng quanh như một đứa bé. Và miệng kêu vang tên anh - “Mackenzie Allen Phillips” - với một sự nồng nhiệt của những ai gặp lại họ hàng thân thiết mà lưu lạc lâu năm. Cuối cùng, chị ta đặt anh xuống đất trở lại và đặt tay lên vai anh, đẩy anh lùi lại như thể để nhìn cho kỹ.

“Mack, xem nào!” chị thốt lên. “Anh đây rồi, trưởng thành quá. Tôi cứ mong đợi suốt để được gặp anh tận mặt. Thật là tuyệt, anh đã đến đây với mọi người. Ối cha cha, tôi yêu anh biết bao!” Nói đoạn, chị lại ôm choàng lấy anh.

Mack không nói nên lời. Trong mấy giây đồng hồ, người phụ nữ này đã phá tan hầu như mọi ngăn cách xã hội mà anh vẫn an bình nấp mình trong đó. Nhưng có điều gì đó trong cách chị nhìn anh và kêu vang tên anh làm anh cũng vui sướng không kém được gặp chị, cho dù anh chẳng mảy may biết chị ta là ai.

Đột nhiên, anh thấy choáng ngợp bởi hương thơm tỏa ra từ chị, và nó làm anh run rẩy. Đó là hương hoa dành dành và hoa nhài, nước hoa của mẹ anh không thể lẫn vào đâu được, thứ nước hoa mà anh giấu trong chiếc hộp thiếc nhỏ. Trước đó anh đã bị xô đến bên vách đá chênh vênh của cảm xúc rồi, và giờ đây mùi hương ngào ngạt và ký ức đeo đẳng làm anh chao đảo. Anh đã có thể cảm nhận được cái ấm của nước mắt bắt đầu ngấn trong mắt, như thể chúng đang gõ cửa trái tim anh. Dường như chị cũng thấy.

“Được rồi, anh cứ khóc đi... Tôi biết anh đau khổ, và tôi biết anh tức giận và hoang mang. Cứ khóc đi. Đôi lúc hãy để nước mắt tuôn rơi cho tâm hồn được thư thái - nước mắt ấy sẽ chữa lành.”

Nhưng mặc dù Mack không kìm được những giọt nước mắt ngấn đầy trong mắt, anh vẫn không sẵn sàng khóc được - chưa thể, đối với người phụ nữ này. Với tất cả cố gắng, anh giữ cho mình không rơi trở lại chiếc hố đen cảm xúc. Trong khi ấy, người phụ nữ đứng đó giang rộng đôi tay như vòng tay người mẹ. Anh cảm thấy sự hiện hữu của tình yêu. Ấm áp, mời gọi và tan chảy.

“Chưa phải lúc?” chị lên tiếng. “Thôi được rồi, chúng ta sẽ làm mọi việc theo ý anh và thời gian của anh. Nào, vào nhà đi. Tôi cầm áo khoác cho anh nhé? Và súng nữa. Anh đâu cần đến nó phải không? Chúng ta đâu có muốn bị hại phải không nào?”

Mack không biết chắc phải làm gì hay nói gì. Chị ta là ai? Làm sao chị ta biết? Anh đứng chôn chân một chỗ, nhưng từ từ cởi áo khoác ra một cách máy móc.

Người phụ nữ da đen to lớn cầm lấy áo và anh đưa súng cho chị mà chị đón lấy bằng hai ngón tay như thể nó ô uế. Ngay khi chị xoay người để bước vào nhà, một người phụ nữ nhỏ nhắn, rõ ràng gốc Á xuất hiện đằng sau chị. “Đây, để đó cho tôi,” giọng chị véo von. Rõ ràng chị ta không nói về chiếc áo khoác hay khẩu súng, mà là một điều gì khác, và trong nháy mắt đã đứng ngay trước mặt anh. Không hề nhúc nhích, anh nhìn xuống và thấy chị đang cầm một cái chai pha lê mỏng manh và một chiếc cọ nhỏ, như mấy chiếc cọ mà Nan và Kate thường dùng để trang điểm, rồi nhẹ nhàng quét gì đó trên mặt anh.

Trước khi anh kịp lên tiếng hỏi, chị mỉm cười rồi thì thầm, “Mackenzie, tất cả chúng ta đều có những thứ mình thấy quý giá để sưu tập đúng không nào?” Chiếc hộp thiếc nhỏ thoáng hiện trong tâm trí anh. “Tôi sưu tập nước mắt.”

Khi chị lùi lại, Mack thấy mình nheo mắt nhìn chị một cách không chủ đích, như thể làm thế anh sẽ nhìn chị rõ hơn. Nhưng lạ thay, anh vẫn thấy khó khăn để chú tâm vào chị; chị ấy dường như lung linh ánh sáng và tóc tung bay mọi hướng cho dù chẳng hề có chút gió. Dường như nhìn chị qua khóe mắt còn dễ dàng hơn nhìn thẳng trực diện.

Rồi anh liếc ra sau chị và nhận ra một người thứ ba đã xuất hiện trong nhà, người này là nam giới. Anh ta diện mạo như người Trung Đông và ăn vận như một công nhân, có cả thắt lưng đeo dụng cụ và găng tay. Người đó đứng thong dong, khoanh tay dựa vào khung cửa ngay trước mặt anh. Người đó vận một chiếc quần jean phủ đầy bụi gỗ và một chiếc sơ mi choàng xắn tay quá khuỷu, để lộ đôi cánh tay cơ bắp. Dáng vẻ anh ta thật dễ nhìn nhưng không hẳn đẹp trai - không phải là một người đàn ông nổi bật trong đám đông. Nhưng ánh mắt anh ta và nụ cười làm sáng bừng gương mặt và Mack cảm thấy khó mà quay đi.

Mack lại bước lùi lại, cảm giác hơi choáng ngợp. “Còn ai nữa không?” giọng anh hơi khàn.

Cả ba người nhìn nhau rồi cười phá. Mack cũng không cưỡng lại được nụ cười. “Không, Mackenzie,” người phụ nữ da đen cười rồi nó. “Chúng tôi chỉ có bấy nhiêu anh thấy rồi, quá đủ rồi.”

Mack cố gắng nhìn lại người phụ nữ châu Á. Theo diện mạo anh có thể nói con người rắn rỏi này có lẽ gốc Bắc Trung Quốc hoặc Nepal hay thậm chí người thiểu số Mông Cổ. Khó mà nói vì mắt anh phải tập trung mới nhìn được chị. Theo trang phục của chị, Mack phỏng đoán chị ta là một người quản vườn hoặc làm vườn. Chị có đôi găng dắt trong thắt lưng, không phải loại bằng da nặng nề như của người đàn ông, mà loại bằng vải nhẹ và cao su mà chính Mack cũng dùng để làm vườn ở nhà. Chị mặc đồ jean thô có thêu các họa tiết ở diềm - đầu gối lấm đất do quỳ xuống - một chiếc áo sơmi màu sáng có mảng vàng, đỏ và xanh dương. Nhưng anh biết tất cả những điều này do ấn tượng về chị hơn là do thực tế thị giác, vì dường như chị ẩn hiện trong tầm nhìn của anh.

Người đàn ông bước đến, chạm vào vai Mack, hôn lên hai má anh, rồi ôm chặt anh. Mack biết ngay mình thích anh ấy. Khi họ rời ra, người đàn ông lùi lại, còn người phụ nữ châu Á lại tiến về phía anh, lần ôm lấy gương mặt anh trong đôi bàn tay mình. Từ từ và cố ý, chị đưa mặt mình đến gần rồi ngay lúc anh hình dung chị sẽ hôn mình thì chị dừng lại và nhìn sâu vào mắt anh. Mack tưởng như có thể nhìn xuyên qua chị. Rồi chị mỉm cười và hương thơm của chị phủ trùm lấy anh rồi nhấc lấy một trọng lượng khổng lồ ra khỏi vai anh, như thể lâu nay anh vẫn thồ đồ đạc trong một chiếc balô.

Mack đột nhiên cảm thấy nhẹ hơn không khí, gần như thể anh không còn chạm đất nữa. Chị ta ôm lấy anh mà như không, hay thật sự như không chạm vào anh. Chỉ khi chị lùi lại, mấy giây sau thì anh mới nhận ra mình vẫn đang đứng trên đôi bàn chân và chúng vẫn còn chạm vào sàn.

“Ồ, đừng màng đến chị ta,” người phụ nữ da đen to lớn cười. “Chị ta gây cảm giác đó cho tất cả mọi người.”

“Tôi thích đấy,” anh lẩm bẩm, và cả ba người phá lên cười tiếp, và giờ đây Mack thấy mình cũng đang cười cùng với họ, không hiểu vì sao và cũng chẳng quan tâm lắm.

Khi mọi người dứt tiếng cười, người phụ nữ to lớn khoác vai Mack, kéo anh lại gần rồi nói, “Được rồi, chúng tôi biết anh là ai, nhưng chắc chúng tôi phải tự giới thiệu với anh. Tôi,” chị nhiệt tình vung vẫy tay, “là quản gia và nấu bếp. Anh có thể gọi tôi là Elousia.”

“Elousia?” Mack hỏi, không hiểu gì cả.

“Được rồi, anh không cần gọi tôi là Elousia; đó chỉ là tên gọi thôi. Cho nên,” chị khoanh tay lại và một tay tì cằm như đang suy nghĩ rất lung, “anh có thể gọi tôi như Nan vẫn gọi.”

“Cái gì? Chị không định nói...” Bây giờ, Mack ngạc nhiên và thậm chí hoang mang hơn nữa. Chắc chắn đây không phải là vị Papa đã gửi thư? “Ý tôi là, định nói là Papa?”

“Đúng,” chị đáp rồi cười, chờ cho anh nói như thể anh sắp nói điều gì nhưng anh không nói.

“Còn ta,” người đàn ông ngắt lời, trông anh ở tuổi ngoài ba mươi và hơi thấp hơn Mack một chút. “Ta lo bảo dưỡng đồ đạc quanh đây. Ta thích làm công việc chân tay mặc dù hai người này sẽ nói cho anh biết, ta cũng thích nấu nướng và làm vườn hệt như họ.”

“Trông anh như người gốc Trung Đông, chắc Ả rập?” Mack đoán.

“Thật ra, ta là con kế trong một đại gia đình. Ta là người Do Thái, nói chính xác là dòng dõi Judah.”

“Vậy thì...” Mack đột nhiên chao đảo khi nhận ra. “Vậy ra, người là...”

“Jesus! Đúng. Anh có thể gọi ta như thế nếu anh muốn. Dù sao thì nó cũng đã trở thành tên gọi quen thuộc của ta. Mẹ ta gọi ta là Yeshua, nhưng ta cũng quen nghe gọi là Joshua hay thậm chí cả Jesse.”

Mack đứng chết điếng và câm lặng. Những gì anh đang nhìn thấy và lắng nghe đơn giản không thể nào lường được. Hoàn toàn thật không tưởng... nhưng anh đang ở đây rồi, hay là anh có thật sự đang ở đây không? Anh chợt thấy chóng mặt. Cảm xúc tràn qua anh trong khi tâm trí anh cố gắng một cách vật vã để nhận thức tất cả thông tin. Vừa lúc anh sắp khuỵu xuống thì người phụ nữ châu Á bước đến gần và lôi anh ra khỏi luồng tập trung.

“Còn tôi là Sarayu,” chị vừa nói vừa nghiêng đầu cúi chào và mỉm cười. “Quản vườn và làm nhiều việc khác.”

Ý tưởng xô lấn lên nhau trong khi Mack vất vả hình dung phải làm gì. Có phải một trong những người này là Chúa? Nếu họ là ảo giác hay thiên thần thì sao, hay là Chúa lát nữa mới đến? Như thế thì hơi rối. Tại vì có ba người, đây có thể là Ba ngôi. Nhưng sao lại là hai phụ nữ và một đàn ông mà chẳng có ai da trắng? Thế nhưng mà tại sao anh lại tự nhiên giả định Chúa là người da trắng? Anh biết đầu óc mình đang hỗn độn nên anh tập trung vào câu hỏi mà anh muốn được trả lời nhất.

“Vậy thì,” Mack đánh liều hỏi, “người nào trong các vị là Chúa?”

“Ta đây,” cả ba đồng thanh lên tiếng. Mack nhìn từng người, và mặc dù anh chẳng biết bám víu vào đâu từ thị giác và thính giác của mình, không hiểu vì sao, anh đã tin.