Chương 6 MỘT CHÚT CỦA HẰNG SỐ PI
Cho dù quyền năng của Chúa ra sao, diện mạo đầu tiên của Chúa không bao giờ mang dáng vẻ một Bậc thống lĩnh tuyệt đối, Đấng Toàn năng. Chúa luôn đặt mình vào tầm vóc con người và giới hạn chính mình.
— JACQUES ELLUL, Tình trạng Vô chính phủ và Cơ đốc giáo
⚝ ⚝ ⚝
Này, Mackenzie, đừng có đứng đực ra đó trợn mắt nhìn như thế, người phụ nữ da đen to lớn nói luôn miệng trong khi xoay người đi băng qua gian phòng. “Vào đây nói chuyện với ta trong khi ta nấu bữa tối. Hoặc nếu không muốn thì anh cứ làm gì tùy thích. Đằng sau nhà,” chị ta chỉ tay qua mái nhà mà không thèm nhìn hay chùng bước, “anh sẽ thấy có cần câu cạnh chỗ đậu xuồng, có thể dùng để câu cá hồi trong hồ.”
Chị dừng ở cửa để hôn Jesus. “Có điều phải nhớ,” chị quay lại nhìn Mack, “anh phải rửa sạch những thứ anh bắt được.” Rồi nhoẻn cười, chị mất hút vào trong nhà, trên tay khoác chiếc áo của Mack và vẫn còn xách khẩu súng bằng hai ngón tay, giang cánh tay ra xa hết cỡ.
Mack đứng đó với cái miệng há hốc và cảm xúc hoang mang tràn ngập trên gương mặt. Anh suýt không nhận ra Jesus bước đến khoác vai anh. Sarayu dường như vừa mới bốc hơi.
“Chị ta tuyệt không nào!” Jesus thốt lên, cười với Mack.
Mack quay lại đối diện với người đàn ông, lắc đầu. “Tôi có đang điên không? Liệu tôi có nên tin Chúa là một phụ nữ da đen to lớn và có khiếu hài hước đến vậy không?”
Jesus cười. “Chị ta là một kẻ nổi loạn! Lúc nào chị ta cũng sẵn sàng cho anh một vố bất ngờ. Chị ta thích những điều bất ngờ, và thậm chí anh không nghĩ ra, chị ta luôn chọn thời điểm hoàn hảo.”
“Thế à?” Mack nói, vẫn còn đang lắc đầu, và không chắc mình có thật sự tin điều đó. “Vậy bây giờ tôi phải làm gì?”
“Anh chẳng phải làm gì cả. Anh muốn làm gì thì làm.” Jesus dừng rồi nói tiếp, cố giúp bằng cách đưa cho Mack vài gợi ý. “Ta đang làm đồ gỗ trong xưởng; Sarayu đang ở trong vườn; anh có thể đi câu, bơi xuồng hoặc vào nói chuyện với Papa.”
“Tôi cũng cảm thấy phải vào nói chuyện với Ngài, ừm... chị ấy.”
“Ồ,” giờ thì Jesus nghiêm giọng. “Đừng vào nếu anh cảm thấy bị ép buộc. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì ở đây cả. Hãy vào vì anh muốn.”
Mack nghĩ một lúc rồi nhận thấy việc đi vào trong nhà thật ra chính là điều anh muốn. Anh cảm ơn Jesus, người mỉm cười với anh rồi quay bước đi về xưởng, còn Mack băng qua sàn để bước đến bên cửa. Một lần nữa, anh đơn độc, nhưng thoáng nhìn xung quanh, anh cẩn thận mở cửa ra. Anh thò đầu vào, ngập ngừng, rồi quyết định đánh liều.
“Chúa ơi?” anh gọi, khá rụt rè và cảm thấy hơi ngốc nghếch.
“Ta đang ở trong bếp, Mackenzie. Hãy đi theo giọng nói của ta.”
Anh bước vào và lướt mắt quanh phòng. Liệu nơi này có thể chính là nơi ấy? Anh rùng mình khi những ý nghĩ tăm tối thoáng qua và xua chúng đi. Bên kia phòng hành lang chạy khuất vào góc. Liếc qua góc phòng về phía phòng khách, mắt anh dò tìm vị trí gần lò sưởi, nhưng chẳng có dấu vết gì trên bề mặt gỗ. Anh nhận ra căn phòng được trang trí tinh tế, có treo tranh như được vẽ hoặc làm bằng tay bởi trẻ con. Anh thắc mắc có phải người phụ nữ này đã nâng niu từng bức tranh này, như bất kỳ bậc cha mẹ yêu con nào cũng làm. Có lẽ đó là cách Ngài ấy trân trọng bất kỳ thứ gì được trao cho mình từ đáy lòng, một điều mà trẻ con dường như làm rất dễ dàng.
Mack bước theo giọng ngâm nga nhè nhẹ của người vào một hành lang ngắn rồi đến một khu vực bếp rộng mở, có một chiếc bàn nhỏ với bốn ghế và mấy chiếc ghế mây. Bên trong căn nhà rộng rãi hơn anh hình dung. Papa đang làm gì đó và đứng xoay lưng lại phía anh, bột bay lên trong khi Ngài lắc lư theo tiếng nhạc nào đó đang lắng nghe. Bài hát ắt đã đến đoạn kết, được ghi dấu bằng vài cú lắc hông và lắc vai sau cùng. Quay lại nhìn anh, Ngài tháo tai nghe ra.
Đột nhiên Mack muốn hỏi một ngàn câu hỏi, hay nói một ngàn điều mà có những câu không thể nói ra được và thật khủng khiếp. Anh biết chắc gương mặt mình đã phản bội lại những cảm xúc mà anh vất vả kiềm chế, và rồi trong nhấp nháy anh dồn tất cả chúng vào trong ngăn buồng tơi tả tận đáy lòng, khóa chặt cửa rồi quay ra. Giá mà Ngài biết được mâu thuẫn nội tâm của anh, Ngài chẳng bộc lộ điều gì ra nét mặt - vẫn cởi mở, đầy sức sống và mời gọi.
Anh thắc mắc: “Cho phép tôi hỏi, Ngài đang nghe gì vậy?”
“Anh muốn biết thật à?
“Thật!” Giờ đây, Mack tò mò.
“West Coast Juice. Nhóm tên là Diatribe và một album chưa phát hành tên là Hành trình con tim . Thật ra mà nói,” Ngài nháy mắt với anh, “mấy đứa nhỏ này thậm chí chưa ra đời.”
“Rồi,” Mack đáp, khá hoài nghi. “West Coast Juice à? Nghe không có vẻ tôn giáo lắm.”
“Ồ, tin ta đi, không phải đâu. Giống nhạc funk Eurasian và blue hơn, nhịp điệu hay hơn.” Ngài bước sang một bên về phía Mack như đang diễn một động tác múa rồi vỗ tay. Mack lùi lại.
“Vậy là Chúa nghe nhạc funk à?” Mack chưa bao giờ nghe từ “funk”được nói đến trong bất kỳ trường hợp nào như một ngữ vựng nghiêm chỉnh. “Tôi tưởng Ngài nghe George Beverly Shea hoặc là ca đoàn Mormon Tabernacle chứ - một thứ nhạc gì đó đạo giáo hơn.”
“Này Mackenzie. Anh không cần phải lo lắng cho ta. Ta nghe mọi thứ - và không chỉ nghe nhạc, mà nghe những cõi lòng đằng sau nhạc. Anh không nhớ những lớp thần học sao? Những đứa nhỏ này chẳng nói điều gì mà ta chưa từng nghe; toàn là những lời chanh chua và ồn ào. Đầy bực tức và cả lý sự nữa. Chúng cũng là con của ta, đang bày tỏ và bộc bạch. Ta rất yêu mến những đứa con trai này. Ừ, ta sẽ để mắt đến chúng.”
Mack cố gắng bắt kịp Ngài, cố hiểu chuyện gì đang diễn ra. Chẳng có tri thức nào ở trường dòng cũ có thể giúp chút gì cho anh. Anh chợt mất hết ngôn từ và hàng triệu câu hỏi dường như đã bỏ anh ra đi. Thế là anh đành nói lên điều hiển nhiên nhất.
“Ngài phải biết là,” anh mở lời, “gọi Ngài là Cha thì hơi gượng ép.”
“Thế à?” Ngài nhìn anh với vẻ ngạc nhiên một cách đùa cợt. “Dĩ nhiên ta biết chứ. Lúc nào ta cũng biết.” Ngài cười. “Nhưng nói ta nghe xem, tại sao anh nghĩ là khó gọi? Có phải tại vì nó quá thân thuộc với anh, hay tại vì ta đang xuất hiện như một người phụ nữ, một người mẹ, hay là...”
“Không phải chuyện nhỏ đâu,” Mack ngắt lời với một tiếng cười gượng gạo.
“Hay là vì những thiếu sót của chính người cha của anh?”
Mack thở hắt ra một cách không tự chủ. Anh không quen với những điều bí mật thăm thẳm bị phơi bày nhanh chóng và cởi mở như thế. Ngay lập tức tội lỗi và thịnh nộ trào dâng và anh muốn đáp trả ngay bằng những lời mai mỉa. Mack cảm thấy mình như đang lơ lửng trên một vực thẳm không đáy và lo rằng nếu bộc lộ ra bất kỳ điều gì, mình sẽ mất kiểm soát với mọi chuyện. Anh cố tìm một vị thế an toàn, nhưng chỉ được phần nào, cuối cùng đáp lại qua kẽ răng: “Có lẽ, đó là vì tôi chưa bao giờ biết bất kỳ ai tôi có thể thật sự gọi là Cha.”
Sau khi đặt tô bột trộn đang ôm trên tay xuống, và mặc kệ chiếc muỗng gỗ đang nằm trong đó, Ngài xoay qua nhìn Mack dịu dàng. Ngài không cần nói; anh biết Ngài hiểu những gì đang diễn ra trong lòng anh và bằng cách nào đó anh biết Ngài quan tâm đến anh hơn ai hết. “Nếu anh cho phép, Mack, ta sẽ là người Cha mà anh chưa bao giờ có.”
Lời đề nghị vừa mời mọc lại vừa gây phẫn uất. Lúc nào anh cũng muốn tìm một người Cha có thể tin cậy, nhưng anh không chắc sẽ tìm được nơi đây, nhất là nếu người này thậm chí không che chở được cho Missy. Một quãng yên lặng dài giữa họ. Mack không chắc nên nói gì, và Ngài chẳng gấp gáp cứ để những khoảnh khắc trôi qua thoải mái.
“Nếu Ngài không lo được cho Missy, làm sao tôi tin Ngài lo cho tôi?” Đó, anh đã thốt ra - câu hỏi dày vò anh từng ngày trong nỗi đau lớn . Mack cảm thấy gương mặt mình đỏ lựng vì tức giận trong khi nhìn chằm chằm vào cái mà giờ đây anh cho là một sự hiện thân kỳ dị của Chúa, và anh nhận ra hai bàn tay mình đã siết chặt thành những nắm đấm.
“Mack, ta rất tiếc.” Nước mắt bắt đầu lăn trên má Ngài. “Ta biết chuyện này đã gây ra một vực thẳm lớn dường nào giữa chúng ta. Ta biết anh chưa hiểu chuyện này, nhưng ta hết sức yêu mến Missy, và anh cũng vậy.”
Anh thích cái giọng Ngài nhắc đến tên Missy nhưng cũng ghét nó phát ra từ miệng Ngài. Nó bật ra từ lưỡi Ngài như loại rượu ngọt nhất và cho dù bao cuồng nộ đang sôi sục trong trí não anh vẫn biết người nói thật lòng. Anh muốn tin và từ từ cơn thịnh nộ của anh bắt đầu tháo lui.
“Đó là lý do tại sao anh có mặt ở đây, Mack,” Ngài tiếp lời. “Ta muốn chữa lành vết thương đã lớn lên trong anh, và giữa chúng ta.”
Để lấy chút tự chủ, anh đưa mắt nhìn ra cửa. Mới một phút trước đây anh có bao điều để thì thầm mà chẳng cần ngước lên. “Tôi cũng muốn điều đó,” anh thú nhận, “nhưng không biết làm sao...”
“Anh bạn yêu dấu, chẳng có một câu trả lời đơn giản nào có thể cất được nỗi đau của anh. Tin ta đi, nếu ta mà có thì bây giờ ta sẽ dùng. Ta không có gậy thần để vung lên cho anh để rồi mọi chuyện đều tốt đẹp hơn. Cuộc đời là một chút thời gian và thật nhiều các quan hệ.”
Mack mừng là họ đã tránh xa được lời cáo buộc thù địch của anh. Nó làm anh hoảng sợ vì đã có lúc anh gần như hoàn toàn bị nó lấn át. “Tôi nghĩ cuộc nói chuyện này sẽ dễ dàng hơn nếu Ngài không mặc váy đầm,” anh đề nghị và cố cười một nụ cười thật là yếu ớt.
“Nếu chuyện dễ dàng hơn thì ta đã không làm thế,” Ngài nói với trong tiếng cười nhẹ khúc khích. “Ta không cố gây khó khăn hơn cho ai trong chúng ta về chuyện này. Nhưng đây là chỗ tốt để khởi đầu. Ta thường thấy rằng giải tỏa những vấn đề chính yếu trước thì sau đó các vấn đề tình cảm dễ dàng thu xếp hơn... khi tâm tư đã sẵn sàng.”
Ngài lại nhặt lên chiếc muỗng gỗ đang nhễu một loại bột gì đó. “Mackenzie, ta chẳng phải là nam hay nữ, cho dù cả hai giới đều phát sinh từ ta. Nếu ta chọn xuất hiện trước mặt anh như một người đàn ông hay một người phụ nữ, đó là vì ta yêu thương anh. Đối với ta, việc xuất hiện như một người phụ nữ và gợi ý cho anh gọi ta là Cha chỉ đơn giản là để trộn lẫn các thứ ẩn dụ, để giúp anh không dễ rơi vào những khuôn khổ tôn giáo.”
Ngài chồm tới như để chia sẻ một điều bí mật. “Hiện ra trước anh trong hình hài một ông lão rất to lớn, da trắng và râu dài, như Gandalf, chỉ tổ củng cố những hình tượng tôn giáo có sẵn trong anh, và kỳ cuối tuần này không nhằm để củng cố các hình tượng tôn giáo của anh.”
Mack suýt cười phá lên để nói: “Ngài biết không? Tôi đến đây chắc mẩm mình là kẻ điên rồ!” Thay vì nói thế, anh chú tâm vào lời người phụ nữ vừa nói và trấn tĩnh lại. Anh tin rằng, ít nhất trong đầu mình, Chúa là một linh hồn, chẳng phải nam hay nữ, nhưng mặc dù vậy, anh thấy xấu hổ phải thú nhận với chính mình rằng mọi hình dung của anh về Chúa đều hoàn toàn là một nhân vật da trắng và nam giới.
Ngài ngừng nói, chỉ trong giây lát để cất gia vị vào kệ trên mép cửa sổ rồi lại xoay sang nhìn anh. Ngài nhìn Mack chăm chú. “Có phải lúc nào anh cũng gặp vấn đề khi nhìn nhận ta là Papa của con? Và sau bao nhiêu chuyện đã trải qua, giờ đây con khó có thể chấp nhận một người cha đúng không?”
Anh biết Ngài nói đúng, và anh nhận ra sự ân cần và tình thương trong việc Ngài đang làm. Nhưng bằng cách nào đó, cách mà Ngài tiếp cận anh đã dấy lên trong anh sự phản kháng đối với tình yêu ấy. Thật kỳ lạ, và đau đớn, và có lẽ một chút tuyệt vời nữa.
“Nhưng vậy thì,” anh ngưng lại, vẫn chú tâm giữ vững lý trí, “tại sao lại có sự nhấn mạnh việc Ngài làm Papa? Dường như đó là cách Ngài tự thể hiện mình phổ biến nhất.”
“Ừ,” Papa đáp, xoay lưng đi vì bận tay với bếp núc, “có nhiều lý do cho việc đó, và một số lý do rất thâm sâu. Giờ đây ta phải nói rằng kể từ ngày Sáng thế, vai trò người cha rất thiếu thốn so với vai trò người mẹ. Đừng hiểu sai ta, cả hai đều cần - nhưng cần phải nhấn mạnh vai trò người cha vì sự thiếu hụt lớn lao của nó.”
Mack quay đi hơi bối rối, cảm thấy chuyện đã vượt ngoài sức mình. Trong khi suy tư, anh nhìn qua cửa sổ ngắm khu vườn trông hoang dã.
“Ngài biết con sẽ đến, có đúng không?” Rốt cục, Mack thốt lên lặng lẽ.
“Dĩ nhiên ta biết.” Người lại bận rộn, quay lưng về phía anh.
“Vậy thì con có được tự do không đến chăng? Con không có sự lựa chọn nào trong việc này ư?”
Cha quay lại nhìn anh, hai bàn tay dính đầy bột nhào. “Câu hỏi hay - con muốn mổ xẻ vấn đề sâu đến đâu?” Ngài không chờ câu trả lời, biết rằng Mack chẳng có câu nào. Thay vào đó, Ngài hỏi: “Con có tin rằng con tự do ra đi không?”
“Con nghĩ thế. Có phải không?”
“Dĩ nhiên rồi! Ta không quan tâm đến những tù nhân. Con có quyền tự do bước ra khỏi cửa ngay lúc này và quay trở về ngôi nhà vắng của mình. Hoặc, con có thể xuống chỗ Cối Xay chơi với Willie. Nhưng ta biết rằng con rất tò mò muốn đến, liệu điều đó có hạn chế quyền tự do bỏ đi của con không?”
Ngài dừng lại rồi quay sang làm việc tiếp, nói ngoái lại với anh. “Hay là nếu con muốn đi sâu, ta có thể trò chuyện về bản chất của tự do. Liệu tự do có phải là mình được phép làm mọi điều mình muốn? Hay là ta có thể nói chuyện về những ảnh hưởng có tính kiềm chế trong cuộc sống và đi ngược lại tự do của con. Di sản di truyền của con, DNA của con, cơ chế sinh hóa riêng biệt của con, thế giới lượng tử đang diễn ra ở cấp độ hạ nguyên tử mà chỉ có ta là người quan sát mọi lúc. Hay là sự xâm nhập của căn bệnh trong tâm hồn con để kiềm chế và trói buộc con, hay là các ảnh hưởng xã hội xung quanh, hay là các thói quen đã tạo ra những mối liên kết và đường dẫn tiếp hợp trong não con. Rồi còn vấn đề quảng cáo, tuyên truyền và khuôn mẫu. Giữa một hợp lưu của những yếu tố khống chế đa diện ấy,” Ngài thở dài, “tự do thật sự nghĩa là gì?”
Mack chỉ đứng đó không biết nói gì.
“Chỉ riêng ta có thể giải thoát cho con, Mackenzie, nhưng tự do không thể ép buộc.”
“Con không hiểu,” Mack đáp. “Thậm chí con còn chưa hiểu những gì Ngài vừa nói.”
Ngài quay lại mỉm cười. “Ta biết. Ta nói không phải để con hiểu ngay bây giờ. Ta nói cho con về sau. Vào lúc này, con thậm chí còn không hiểu rằng tự do là một quá trình dần dà.” Từ từ đưa tay ra, Ngài nắm lấy bàn tay Mack, với đầy bột, rồi nhìn thẳng vào mắt anh Ngài nói tiếp: “Mackenzie, chân lý sẽ giải thoát cho con và chân lý có một cái tên; hắn đang ở trong xưởng ngay bây giờ và dính đầu mùn cưa. Mọi thứ đều liên quan đến hắn . Và tự do là một qui trình xảy ra bên trong mối quan hệ với hắn. Thế rồi tất cả mọi thứ con thấy khuấy tung bên trong sẽ bắt đầu chuyển biến ra ngoài.
“Làm sao Chúa biết thật sự con có cảm giác thế nào?” Mack hỏi, nhìn ngược lại vào mắt Ngài.
Cha không trả lời, chỉ nhìn xuống đôi bàn tay. Anh dõi mắt nhìn theo và lần đầu tiên Mack nhận ra vết sẹo trên cổ tay Ngài, giống như những vết sẹo anh đang giả định là Jesus cũng mang trên người. Ngài để cho anh âu yếm chạm vào mấy vết sẹo, dấu tích của một vết đâm sâu, và cuối cùng anh ngước lên nhìn Ngài. Nước mắt bắt đầu lăn trên gương mặt Ngài thành những con đường nhỏ trên lớp bột dính trên má Ngài.
“Cũng đừng nghĩ những gì con trai ta lựa chọn thì chúng ta không phải trả giá đắt. Tình yêu luôn để lại một dấu ấn quan trọng,” Ngài nói giọng êm ái và dịu dàng. “Chúng ta đã ở bên nhau lúc ấy.”
Mack ngạc nhiên. “Ở thập tự giá? Khoan đã, con nghĩ Ngài đã bỏ Chúa - ‘Chúa ơi, Chúa ơi, sao người lại bỏ rơi con?’” Đó là một đoạn Kinh thánh đã ám ảnh Mack trong nỗi đau lớn.
“Con đã hiểu sai mầu nhiệm ở đó. Bất chấp, Người cảm thấy thế nào vào lúc ấy, ta không bao giờ bỏ Người.”
“Sao Ngài lại có thể nói thế? Ngài đã bỏ mặc Chúa cũng hệt như Ngài đã bỏ mặc con!”
“Mackenzie, ta chưa bao giờ bỏ Người, và ta chưa bao giờ bỏ con.”
“Con không thấy có lý,” anh quật lại.
“Ta biết không có lý, ít nhất cũng chưa. Con hãy xem lại điều này: Khi con chỉ thấy toàn nỗi đau, có lẽ con không còn thấy ta nữa phải không?”
Khi Mack không đáp, Ngài quay lại tiếp tục nấu nướng để anh có chút không gian cần thiết. Ngài dường như nấu nhiều món một lúc, thêm thắt đủ thứ gia vị và nguyên liệu. Ngâm nga một giai điệu ngắn ám ảnh, Ngài hoàn tất chiếc bánh đang làm để cho vào lò nướng.
“Đừng quên, câu chuyện không kết thúc khi con người ý thức bị ruồng bỏ. Người đã vượt qua để đến trọn vẹn trong vòng tay. Thật là một giây phút thánh linh!”
Mack dựa người vào quầy bếp trong tâm trạng bối rối. Cảm xúc và tư duy của anh đang rối tung. Một phần trong con người anh muốn tin vào mọi điều Cha đang nói. Thật là hay ho! Nhưng phần kia lại đang lớn tiếng phản đối: “Không thể nào có chuyện này được!”
Cha với tay lấy chiếc đồng hồ bếp, vặn một vòng rồi đặt lên bàn trước mặt họ. “Ta không phải là nhân vật con nghĩ đâu, Mackenzie.” Giọng Ngài không giận dữ hay biện bạch.
Mack nhìn Ngài, nhìn chiếc đồng hồ rồi thở dài: “Con cảm thấy hoàn toàn mất mát.”
“Vậy thử xem ta có tìm ra con giữa cuộc hỗn độn này không.”
Như thể được ra hiệu, một con chim giẻ cùi màu xanh đậu xuống bậu cửa sổ bếp rồi bắt đầu đi lui tới vênh váo. Cha thò tay vào trong một chiếc hộp trên quầy rồi lùa mở cửa sổ, xòe cho chú chim một nắm hạt mà ắt là Cha cất giữ để cho chúng ăn. Không chút ngần ngại, và với một chút dáng vẻ khiêm nhường và biết ơn, chú chim bước thẳng đến tay người để ăn.
“Hãy xem người bạn nhỏ của chúng ta đây,” Ngài mở lời. “Hầu hết chim chóc đều được sinh ra để bay. Bị nhốt là một giới hạn trong khả năng bay của chúng, chứ không phải là ngược lại.” Người dừng lại để Mack suy ngẫm về câu nói. “Con, ngược lại, được tạo ra để thương yêu. Cho nên con sống như thể không được yêu là một sự giới hạn, chứ không phải ngược lại.”
Mack gật đầu, không hoàn toàn đồng ý hẳn, mà để ra hiệu rằng anh hiểu và đang theo dõi thì đúng hơn. Chỉ đơn giản vậy thôi.
“Sống mà không được yêu thì giống như cắt lìa đôi cánh của chim để truất khả năng bay của nó. Một điều ta không muốn đối với con.”
Vấn đề là ở đó. Anh không cảm thấy được yêu thương gì lắm trong lúc này.
“Mack, nỗi đau sẽ cắt lìa đôi cánh của chúng ta và khiến chúng ta không thể bay được.” Ngài chờ một khoảnh khắc để lời mình đọng lại. “Và mọi chuyện đã không được giải quyết từ rất lâu, con hầu như đã quên mất mình được tạo ra ngày đầu để bay.”
Mack im lặng. Lạ thay, sự im lặng không mấy khó chịu. Mack nhìn con chim nhỏ. Con chim nhìn lại Mack. Anh thắc mắc không biết con chim có cười được không. Ít nhất, con chim trông cũng chẳng khác gì với tâm trạng chính anh, về mặt đồng cảm.
“Ta không giống con, Mack.”
Đó không phải là lời kẻ cả; chỉ đơn thuần là một lời trần thuật thực tế. Nhưng đối với Mack, lời nói đó giống như một gáo nước lạnh.
“Ta là Chúa. Ta là ta. Và khác với con, đôi cánh của ta không thể cắt lìa được.”
“Vậy thì tuyệt vời với Ngài, nhưng rồi điều đó sẽ đưa con đến đâu?” Mack thốt ra, âm sắc nghe cáu kỉnh hơn mức độ mà anh tưởng.
Cha bắt đầu vuốt ve con chim nhỏ, nâng nó lên sát mặt rồi nói: “Ngay tâm điểm tình yêu thương của ta!” khi Ngài và con chim nhỏ kề mũi và mỏ.
“Con đang nghĩ chắc con chim đó hiểu điều đó rõ hơn con,” Mack không nghĩ được gì hay hơn để nói.
“Ta biết, con yêu dấu. Đó là lý do chúng ta đang ở đây. Con nghĩ tại sao ta nói ‘Ta không giống con?’”
“Thật sự con không biết. Thì Ngài là Chúa còn con thì không.” Anh không giấu được vẻ mỉa mai trong giọng nói, nhưng Ngài hoàn toàn không màng.
“Đúng, nhưng không hẳn. Ít nhất không phải theo cách con đang nghĩ. Mackenzie, ta là một Đấng mà một số người nói ‘rất thánh, và trọn vẹn khác với con.’ Vấn đề là nhiều người muốn nhận thức ta là ai theo cách hay ho nhất đối với họ, đẩy khái niệm lên đến những cấp độ tột bực, bao hàm mọi điều tinh túy nhất mà họ cảm nhận được, mà thường chẳng là bao, rồi họ gọi đó là Chúa. Và mặc dù điều đó dường như là một nỗ lực đáng quý, sự thật là nó khác xa với sự thật ta là ai. Ta không phải là phiên bản hay ho nhất của con mà con có thể nghĩ ra. Ta hơn thế nhiều, vượt trên và vượt ngoài mọi điều con có thể hỏi đến hay nghĩ ra.”
“Con xin lỗi, nhưng những lời đó chỉ là ngôn từ đối với con. Chẳng mấy ý nghĩa.” Mack nhún vai.
“Cho dù con không thể hiểu được ta, con biết gì không? Ta vẫn muốn được biết đến.”
“Ngài đang nói đến Jesus phải không? Đây có phải là câu chuyện ta-cùng-nhau-tìm-hiểu-Ba-Ngôi không?”
Ngài cười. “Đại loại vậy, nhưng đây không phải là lớp giáo lý ngày chủ nhật. Đây là một bài tập bay. Mackenzie, như con cũng tưởng tượng được, làm Chúa trời có một số ưu thế. Về bản chất, ta hoàn toàn không bị giới hạn, không bị trói buộc. Ta luôn biết đến sự trọn vẹn. Ta tồn tại trong một trạng thái toại mãn vĩnh hằng,” Ngài nói, hoàn toàn hài lòng. “Chỉ có ta là chính ta.”
Điều đó làm Mack mỉm cười. Con người này hoàn toàn vui hưởng, một mình, và không có chút ngạo mạn nào trong đó.
“Thiên Chúa đã tạo ra con để chia sẻ điều đó. Nhưng rồi Adam đã chọn con đường riêng cho mình, như chúng ta đã biết, rồi mọi chuyện rối lên. Nhưng thay vì loại bỏ Sáng thế, Thiên Chúa đã xắn tay áo để lao vào mớ hỗn độn ấy - đó là điều Thiên Chúa đã làm với Jesus.”
Mack đứng đó, anh cố hết sức để theo kịp luồng tư duy của Ngài.
“Khi ba chúng ta hiện diện trong thế giới loài người trong vai Con của Thiên Chúa, chúng ta đã trở nên con người hoàn toàn. Chúng ta cũng đã chọn lựa gánh chịu tất cả những hạn hẹp của kiếp người. Cho dù chúng ta vẫn hằng hữu trong sáng thế này, giờ đây chúng ta đã trở nên xác phàm. Cũng như con chim này, vốn sinh ra để bay lượn, lại chọn lựa chỉ đi lại và ở dưới đất. Thiên Chúa không ngăn nó làm kiếp chim, nhưng hoàn cảnh đã làm thay đổi cảm nghiệm sống của nó một cách hệ trọng.”
Ngài dừng lại để Mack theo kịp. Mặc dù cảm nhận được một sự căng thẳng đang hình thành trong trí não, anh thốt lên, “Vâng...?” để mời Ngài nói tiếp.
“Mặc dù về bản chất Ngài hoàn toàn là Chúa, Jesus là một con người trọn vẹn và đã sống như thế. Mặc dù chưa bao giờ mất đi khả năng bay, Ngài đã chọn lựa suốt từng khoảnh khắc để sống dưới đất. Đó là lý do tên Ngài là Immanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, hay Thiên Chúa ở cùng anh em, nói chính xác hơn.”
“Nhưng còn bao nhiêu phép màu thì sao? Phép chữa lành? Làm người chết sống lại? Điều đó không chứng minh Jesus là Chúa sao - hơn người phàm rồi?”
“Không, điều đó mới chứng minh rằng Jesus thật sự là con người.”
“Sao ạ?”
“Mackenzie, ta có thể bay, nhưng con người không thể. Jesus hoàn toàn là con người. Mặc dù hoàn toàn là Thiên Chúa, Ngài chưa bao giờ viện đến bản thể Thiên Chúa để làm một điều gì. Ngài chỉ sống bằng quan hệ với ta, sống theo đúng cách ta muốn sống với từng con người. Ngài chỉ là người đầu tiên sống đến cực điểm - người đầu tiên tuyệt đối tin tưởng vào đời sống của ta trong Ngài, người đầu tiên tin tưởng ở tình yêu và sự ân cần của ta mà không quan tâm đến hình thức và kết quả.”
“Vậy, khi Ngài chữa người mù thì sao?”
“Ngài đã làm thế như một con người bị lệ thuộc, bị giới hạn nhưng tin cậy vào đời sống của ta và sức mạnh của ta đến với Ngài và thông qua Ngài. Jesus, như một con người, chẳng có quyền năng gì trong chính mình để chữa lành cho ai.”
Đó là một cú sốc đối với hệ thống tín ngưỡng của Mack.
“Chỉ khi Ngài an nghỉ trong quan hệ với ta, và trong mối đồng cảm với ta - sự đồng hợp nhất của chúng ta - Ngài có thể bộc lộ tâm tư và ý chí trong mọi hoàn cảnh. Cho nên, khi con nhìn Jesus và thấy hình như Ngài đang bay, đúng là Ngài đang... bay đấy. Nhưng cái mà con thật sự nhìn thấy là ta; cuộc sống của ta trong Ngài. Đó là lối sống và hành động của Ngài như một con người thực thụ, cách mỗi con người được định đoạt để sống - từ đời sống của ta.
“Một con chim không được vạch định để ở dưới đất mà bởi khả năng bay của nó. Hãy nhớ điều này, con người không được vạch định bởi các giới hạn của mình, mà bởi những ý nguyện ta dành cho họ; không phải bởi những gì bản thể họ dường như đang hiện diện, mà bởi mọi điều có thể tạo dựng trong hình tượng của ta.”
Mack cảm thấy lượng thông tin ập đến quá tải. Anh bèn kéo ghế và ngồi xuống. Điều này phải mất chút thời gian để hiểu. “Vậy điều này có nghĩa là Ngài bị giới hạn khi Jesus hiện diện trên trái đất? Tức là, Ngài đã giới hạn mình vào chỉ Jesus?”
“Không đâu! Mặc dù ta chỉ bị giới hạn vào Jesus, ta không hề bị giới hạn nào trong chính ta.”
“Toàn bộ vấn đề Thiên Chúa Ba ngôi là điều mà con hình như không hiểu.”
Cha cười phá một tràng dài làm Mack cũng muốn cười theo. Ngài đặt con chim nhỏ xuống bàn cạnh Mack, xoay sang mở lò nướng để liếc nhìn ổ bánh đang nướng. Hài lòng với mọi chuyện, Cha kéo ghế ngồi cạnh. Mack nhìn con chim nhỏ đang vui vẻ ngồi đó với họ một cách lạ thường. Sự vô lý ấy làm Mack bật cười.
“Trước tiên, việc con không thấu hiểu được huyền nhiệm từ bản chất của ta là một điều tốt thôi. Ai muốn thờ phụng một Thiên Chúa mà mình hoàn toàn thấu hiểu? Chẳng còn mấy bí ẩn nữa.”
“Nhưng có khác gì khi Thiên Chúa có ba ngôi, và tất cả đều là một Thiên Chúa. Con nói thế đúng không?”
“Đúng đấy.” Ngài mỉm cười. “Mackenzie, đó là toàn bộ sự khác biệt!” Có vẻ Ngài thích thú điều này. “Chúng ta không phải là ba Chúa, và ta cũng không nói là một Chúa với ba thánh trạng, như một người đàn ông vừa là chồng, là cha và là thợ. Ta là một Thiên Chúa và ta là ba người, và mỗi một trong ba người đều là trọn vẹn và toàn thể của nhất thể.”
Tiếng “Hả?” mà Mack vẫn kìm nén cuối cùng bật tung ra.
“Đừng quan tâm điều đó,” Ngài tiếp. “Điều quan trọng là đây: Nếu ta đơn thuần là Một Chúa và chỉ là Một Người, thì các con sẽ thấy mình ở trong Sáng thế này không có gì lý thú, thậm chí không có gì thiết yếu nữa. Và ta dứt khoát sẽ khác đi.”
“Và chúng con sẽ không có...?” Mack không biết làm sao để kết câu hỏi.
“Tình yêu và mối liên hệ. Tất cả tình yêu và những mối liên hệ đến được với con chỉ vì nó đã tồn tại sẵn trong Ta, trong chính ta là Thiên Chúa. Tình yêu không phải là giới hạn; tình yêu là sự tung cánh. Ta là tình yêu.”
Như thể đáp lại lời tuyên xưng ấy, chiếc đồng hồ rung chuông và con chim nhỏ vỗ cánh bay ra ngoài khung cửa. Ngắm nhìn chim bay trong niềm hân hoan khó tả, anh xoay sang Cha, và nhìn chằm chằm đầy kinh ngạc. Một vẻ rạng rỡ lạ lùng bừng lên trên gương mặt Ngài, và cho dù vẫn đang cảm thấy một chút mất mát và cho dù nỗi đau lớn vẫn còn đeo đẳng mình, anh cảm thấy mình đã có phần an vị trong bình an của sự kề cận bên Ngài.
“Con hãy hiểu,” Ngài tiếp, “rằng trừ phi ta có một đối thể để thương yêu - hay, nói chính xác hơn, một ai đó để thương yêu - nếu ta không có một quan hệ như thế trong bản thân ta, thì ta sẽ có thể yêu thương được không? Con sẽ có một đức Chúa không thể thương yêu. Hay là tệ hơn nữa, con sẽ có một đức Chúa mà, khi lựa chọn, chỉ có thể yêu được như một sự giới hạn của bản chất. Chúa như thế có thể hành động không vì tình yêu, và đó sẽ là một tai họa. Và đó chắc chắn không phải là ta.”
Nói đoạn, Cha đứng dậy đến bên lò nước, kéo chiếc bánh mới nướng ra, đặt lên quầy và xoay người như đang trình diễn, nói tiếp: “Thiên Chúa bản thể - như chính ta là ta - không thể hành động tách rời tình yêu!”
Mack biết rằng những gì anh đang nghe, dù thật khó hiểu, là đầy kinh ngạc và không thể tin được. Cứ như những lời Ngài nói đang cuốn quanh anh, quyện lấy anh và nói với anh bằng những phương cách ngoài những gì anh có thể nghe. Nhưng thông phải anh thật lòng tin vào bất cứ điều gì. Giá mà được như vậy. Trải nghiệm cuộc đời đang nói với anh khác.
“Kỳ cuối tuần này dành cho tình yêu và những mối liên hệ. Giờ đây, ta biết con có nhiều điều muốn nói với ta, nhưng bây giờ con đi tắm gội thì hơn. Hai người kia đang vào để ăn tối.” Ngài bắt đầu bước đi, nhưng dừng bước và quay lại.
“Mackenzie, ta biết lòng con tràn ngập đớn đau và thịnh nộ cũng như hoang mang. Cùng nhau, con và ta, chúng ta sẽ đi vào vấn đề đó trong khi con ở đây. Nhưng ta cũng muốn con biết rằng có nhiều điều đang diễn ra hơn con có thể hình dung hay thấu hiểu, cho dù ta có nói với con. Con hãy cố hết mức để an nhiên trong niềm tin con có nơi ta, cho dù nhỏ nhoi, có được không?”
Mack vẫn cúi đầu nhìn xuống sàn. “Ngài biết,” anh nghĩ bụng. Niềm tin nhỏ nhoi của anh chắc gần như chẳng còn gì. Gật đầu ưng thuận, anh ngước lên và chú ý lần nữa đến vết sẹo trên cổ tay Ngài.
“Papa?” Rốt cục Mack thốt lên một cách khá vụng về theo cảm nhận của anh, nhưng anh đang cố gắng.
“Gì, con?”
Mack đánh vật để tìm từ nói diễn đạt với Ngài những gì trong tim mình. “Con rất tiếc rằng Ngài, rằng Jesus, phải chết.”
Ngài bước vòng qua bàn và ôm choàng lấy Mack. “Ta biết con, cám ơn con. Nhưng con cần biết rằng chúng ta không hối tiếc gì cả. Điều đó xứng đáng. Có đúng không con trai?”
Ngài xoay người khi hỏi về Jesus, người vừa bước vào nhà. “Đúng vậy!” Người đàn ông dừng lại rồi nhìn Mack. “Ta có thể làm như thế cho dù chỉ vì mỗi mình con, nhưng chuyện đã không phải như thế!” người nói với một nụ cười mời gọi.
Mack xin phép đi ra nhà tắm, rửa tay và rửa mặt rồi cố định thần.