Chương 8 BỮA ĐIỂM TÂM CỦA NHỮNG KÌ THỊ
Trưởng thành nghĩa là đổi thay và đổi thay bao hàm sự mạo hiểm, dấn bước từ nơi đã biết về miền chưa biết.
— KHUYẾT DANH
⚝ ⚝ ⚝
Khi về đến phòng, Mack phát hiện ra quần áo của mình, vốn bỏ lại trên xe, đã được xếp lại đặt trên tủ nhỏ hoặc treo trong tủ áo. Anh ngạc nhiên nhìn thấy một cuốn Kinh Thánh của Gideon trên tủ kệ đầu giường. Anh mở rộng cửa sổ để không khí đêm tràn vào, một hành vi mà Nan chẳng bao giờ đồng ý ở nhà vì nàng sợ nhện và bất kể con gì ngọ nguậy. Cuộn mình như một chú bé vùi trong chăn lông, anh chỉ đọc được vài đoạn thì cuốn kinh đã rời khỏi tay, đèn đã tắt và ai đó đã hôn lên má anh, và anh nhẹ nhàng nhấc mình lên cao trong một giấc mơ bay bổng.
Những ai chưa bao giờ bay như thế có lẽ sẽ nghĩ rằng những kẻ tin vào điều đó là gàn dở, nhưng thực tâm có lẽ ít nhất họ có chút gì ghen tị. Đã nhiều năm rồi, anh không nằm mơ bay bổng, kể từ khi nỗi đau giáng xuống, nhưng đêm nay, Mack đã bay cao trong bầu trời đầy sao, trong không gian trong lành và mát lạnh mà không khó chịu. Anh bay liệng qua những chiếc hồ và dòng sông, vượt qua một bờ biển và nhiều hòn đảo vách đá san hô.
Nói ra nghe thật lạ, Mack đã học trong những giấc mơ cách bay như thế này; cách nhấc mình lên không trung một cách chơi vơi - không có cánh, không có máy bay gì cả, chỉ có chính mình. Những chuyến bay đầu tiên thường chỉ giới hạn có vài tấc, hầu như do sợ hãi, hoặc chính xác hơn là do sợ rơi. Nâng tầm bay lên một vài bộ rồi cuối cùng cao hơn nữa khiến anh thêm an tâm, cũng như khi anh phát hiện ra việc rơi không hề đau đớn mà chỉ là một cú tâng nhẹ nhàng. Rồi dần dà, anh học được cách bay lên mây, bay đi xa và đáp xuống nhẹ nhàng.
Khi bay vút qua những rặng núi hiểm trở và những bờ biển trắng xóa lấp lánh, nỗi kỳ thú của những chuyến bay trong mơ chợt bộc lộ, đột nhiên một cái gì đó chộp lấy cổ chân anh và lôi tuột anh ra khỏi bầu trời. Trong nháy mắt, anh bị lôi xuống từ trên cao và quẳng một cách thô bạo xuống một con đường hết sức lầy lội. Sấm vang rền mặt đất và mưa đột nhiên như trút nước. Và rồi điều đó lại đến, ánh chớp chiếu sáng gương mặt con gái anh trong lúc nó thét lên tắt nghẹn “ Bố ơi! ” rồi xoay người chạy biến vào trong bóng tối, chiếc váy đỏ chỉ thấp thoáng trong vài ánh chớp rồi biến mất. Anh cố hết sức chống chọi để thoát ra khỏi bùn lầy và nước, nhưng rồi càng bị lún sâu hơn. Và ngay khi bị hút xuống thì anh choàng tỉnh trong hơi thở hổn hển.
Tim đập dồn và trí tưởng tượng còn đang dính chặt với những hình ảnh của cơn ác mộng, Mack mất một lúc để nhận ra đó chỉ là một giấc mơ. Nhưng mặc dù cơn mơ đã tan, những cảm xúc vẫn còn đó. Giấc mơ đã khuấy động nỗi đau và trước khi bước xuống giường, anh lại một lần nữa chống chọi với nỗi tuyệt vọng đã tàn phá bao tháng ngày của mình.
Anh nhăn nhó nhìn quanh phòng trong cái xám xịt của bình minh ló dạng còn lẫn trong màn sáo cửa. Đây không phải phòng ngủ của anh; chẳng có thứ gì trông hoặc cảm thấy thân thuộc. Anh đang ở đâu? Suy nghĩ đi, Mack, suy nghĩ đi! Rồi anh nhớ ra. Anh vẫn còn đang ở căn chòi với ba nhân vật thú vị ấy, cả ba người đều nghĩ họ là Thiên Chúa.
“Không thể như thế này được,” Mack vừa càu nhàu vừa lồm cồm ra khỏi giường và ngồi trên mép giường ôm đầu. Anh suy nghĩ lại ngày hôm trước và một lần nữa có cảm giác sợ rằng mình sắp mất trí. Vì anh không phải là một người đầy cảm tính, Papa - hay bất kỳ ai trong vai đó - đã làm anh lo âu và anh không hiểu về Sarayu. Anh phải tự thú nhận rằng mình rất thích Jesus, nhưng Ngài là người ít giống Chúa nhất trong ba người.
Anh thở ra một tiếng dài sượt. Mà nếu có Chúa ở đây thật, sao Ngài không dẹp cơn ác mộng cho anh?
Anh thấy ngồi bối rối như thế chẳng lợi lộc gì nên lần mò vào buồng tắm và ngạc nhiên thấy mọi thứ cần dùng để tắm đã được cẩn thận bày sẵn cho anh. Anh nhẩn nha trong làn nước nóng, rồi cạo râu và quay trở vào phòng ngủ để thong thả thay quần áo.
Mùi thơm táo tợn và cuốn hút của cà phê khiến mắt anh chú mục vào chiếc tách đang bốc khói chờ sẵn ở đầu bàn cạnh cửa ra vào. Nhấp một ngụm, anh mở rèm sáo và đứng bên khung cửa sổ nhìn ra hồ, chiếc hồ mà đêm qua chỉ thấp thoáng như một vệt sẫm.
Thật hoàn mỹ, mặt hồ phẳng như gương, ngoại trừ thỉnh thoảng cá hồi phóng lên khỏi mặt nước sau bữa điểm tâm, làm cho sóng lăn tăn trên mặt hồ xanh thẳm cho đến khi tắt lịm trên mặt nước rộng lớn. Anh ước tính bờ hồ bên kia cách chừng nửa dặm. Sương lấp lánh khắp nơi, những giọt sương sớm như kim cương phản chiếu tình yêu của mặt trời.
Ba chiếc xuồng nằm cách nhau bình lặng dọc theo cầu tàu trông rất mời gọi, nhưng Mack dẹp ngay ý nghĩ ấy. Xuồng chẳng phải đồ chơi nữa rồi. Quá nhiều ký ức đau buồn.
Cầu tàu gợi cho anh nhớ lại đêm trước. Có thật là anh đã nằm đó với Đấng tạo dựng vũ trụ? Mack lắc đầu, người lặng đi. Chuyện gì đang diễn ra ở đây? Họ thật sự là ai và muốn gì ở anh? Dù họ muốn gì thì anh cũng biết chắc là mình chẳng có.
Mùi trứng và thịt muối trộn với thức ăn luồn vào phòng, làm anh gián đoạn ý nghĩ. Mack quyết định đã đến lúc bước ra và lên tiếng. Khi bước vào gian phòng chính, anh nghe âm thanh một giai điệu quen thuộc của Bruce Cockburn vang trong bếp và giọng nữ cao của người phụ nữ da đen hát theo khá hay: “Ôi tình yêu đã hun đúc mặt trời, hãy giữ cho ta nồng cháy.” Papa hiện ra mỗi tay cầm một chiếc chảo đựng bánh rán và khoai tây chiên với rau. Ngài đang vận một bộ trang phục thướt tha của châu Phi, đầu buộc dải băng nhiều màu sinh động. Trông Ngài rực rỡ - gần như đang tỏa sáng.
“Con biết đó,” Ngài thốt lên, “Ta thích bản nhạc trẻ con ấy! Ta đặc biệt thích Bruce, con biết đấy.” Ngài nhìn Mack đang ngồi tại bàn.
Mack gật đầu, càng lúc anh càng muốn ăn.
“Ừ,” Ngài tiếp lời, “ta biết con cũng thích anh ta.”
Mack mỉm cười. Đúng vậy. Cả nhà đều say mê Cockburn bao nhiêu năm nay, trước tiên là anh, rồi đến Nan, rồi đến mấy đứa nhỏ không nhiều thì ít.
“Sao, con?” Ngài hỏi, tiếp tục bận rộn với công việc đang làm. “Giấc mơ đêm qua của con thế nào? Những giấc mơ đôi khi quan trọng, con biết đó. Cũng giống như mở tung cửa sổ để tống gió độc ra ngoài.”
Mack biết đây là lời mời để mở khóa cánh cửa bước vào những nỗi kinh hoàng của anh, nhưng ngay lúc này anh chưa sẵn sàng mời Ngài bước vào đó với mình. “Con ngủ ngon, tạ ơn Ngài,” anh đáp rồi lảng nhanh sang đề tài khác. “Ngài say mê anh ta à? Bruce ấy?”
Ngài dừng lại nhìn anh. “Mackenzie, ta chẳng say mê ai cả; ta chỉ đặc biệt thích anh ta thôi.”
“Dường như Ngài đặc biệt thích rất nhiều người,” Mack quan sát một cách ngờ vực. “Có ai đó mà Ngài không đặc biệt thích không?”
Ngài ngẩng đầu lên rồi đảo mắt như thể trong tâm trí đang dò danh sách mọi sinh linh đã từng được tạo ra. “Không, ta chẳng tìm được ai. Có lẽ cách của ta là như thế.”
Mack quan tâm. “Ngài có bao giờ nổi giận với ai trong số họ không?”
“Ối chà! Bố mẹ nào mà không chứ? Có rất nhiều thứ để nổi giận về những gì con cái ta gây ra và những gì chúng đang chìm ngập trong đó. Ta không thích rất nhiều sự lựa chọn của chúng, nhưng cơn giận dữ đó - nhất là đối với ta - đều là một sự thể hiện tình thương như nhau thôi. Ta yêu thương như nhau những kẻ làm ta cảm thấy tức giận hay không.”
“Nhưng,” Mack dừng lại. “Còn cơn thịnh nộ của Ngài thì sao? Con thấy rằng hình như nếu Ngài muốn đóng vai Chúa toàn năng thì cần phải giận dữ hơn nữa.”
“Giờ đây thì không à?
“Con nghĩ vậy. Ngài đâu có tiêu diệt mọi người mọi lúc như trong Kinh Thánh. Trông Ngài chẳng giống vậy.”
“Ta hiểu con cảm thấy mọi thứ rối rắm như thế nào, Mack. Nhưng kẻ duy nhất đóng vai ở đây là con. Ta là ta. Ta không cố để giống ai cả.”
“Nhưng Ngài đòi con phải tin Ngài là Chúa, mà con thì không thấy...” Mack không biết làm sao để nói cho trọn câu nên bỏ lửng.
“Ta không đòi con phải tin điều gì cả, nhưng ta nói cho con biết rằng, con sẽ thấy mọi chuyện dễ dàng hơn nếu đơn giản chấp nhận thay vì cố gắng áp đặt vào những khái niệm định kiến của con.”
“Nhưng nếu Ngài là Chúa, thì cũng chính Ngài đang làm đổ tung cái thố thịnh nộ và đẩy mọi người vào biển lửa còn gì?” Mack cảm nhận cơn tức giận sâu thẳm trong chính mình lại trào dâng, làm bật ra những câu chất vấn, và anh hơi thất vọng với sự mất tự chủ của mình. Nhưng dù sao thì anh cũng đã hỏi: “Con hỏi thật lòng nhé, Ngài không thích thú trừng phạt những kẻ làm Ngài thất vọng sao?”
Lúc ấy, Papa dừng tay và xoay về phía Mack. Anh nhìn thấy được một nỗi buồn sâu thẳm trong mắt Ngài. “Ta không phải như con nghĩ đâu, Mackenzie. Ta không cần trừng phạt con người vì tội lỗi. Bản thân tội lỗi là một sự trừng phạt rồi, tàn phá chính các con từ bên trong. Mục đích của ta không phải là trừng phạt; niềm vui của ta là hóa giải nó.”
“Con không hiểu...”
“Con nói đúng. Con không hiểu,” Ngài nói với một nụ cười đượm nét buồn. “Nhưng vấn đề là chúng ta chưa bàn xong mà.”
Vừa khi ấy, Jesus và Sarayu cười vang và bước vào từ cửa sau, góp vào câu chuyện. Jesus ăn vận cũng gần giống như hôm trước, chỉ có quần jean và một chiếc áo sơmi xanh làm nổi bật đôi mắt nâu sẫm. Sarayu, ngược lại, lại ăn vận diêm dúa và điệu đàng đến độ trang phục như thể dập dờn trước một làn gió nhẹ hay ngôn từ phát ra. Mỗi cử chỉ của Ngài đều lung linh ánh cầu vồng. Mack thắc mắc liệu Ngài bao giờ thôi lay động hoàn toàn không. Anh khá hoài nghi điều đó.
Papa hạ người xuống ngang tầm mắt với Mack. “Con đã nêu lên một số câu hỏi quan trọng và chúng ta sẽ bàn, ta hứa. Nhưng bây giờ chúng ta ăn sáng trước đã.”
Mack gật đầu, một lần nữa hơi bối rối khi hướng sự chú ý vào thức ăn. Dù gì anh cũng đói và có nhiều thứ để ăn.
“Tạ ơn Ngài về bữa điểm tâm,” anh nói với Papa trong khi Jesus và Sarayu ngồi vào bàn.
“Cái gì?” Ngài nói trong sự sửng sốt một cách giễu nhại. “Con không cúi đầu và nhắm mắt nữa à?” Ngài bắt đầu đi về phía bếp, vừa đi vừa càu nhàu: “Chậc, chậc, chậc. Thế giới này đang đi về đâu nhỉ? Không có chi đâu, con,” Ngài ngoái đầu nói với. Chốc sau, Ngài lại xuất hiện với một chiếc thố nữa nghi ngút một món bốc mùi thật thơm ngon và mời mọc.
Mọi người chuyền nhau thức ăn và Mack mê hoặc ngắm nhìn và lắng nghe khi Papa tham gia câu chuyện với Jesus và Sarayu. Chuyện bàn về hòa hợp một gia đình ly gián, nhưng Mack bị cuốn hút không phải bởi nội dung câu chuyện, mà là cách thức mọi người đề cập. Anh chưa bao giờ thấy ba người nói chuyện một cách đơn giản và sinh động như thế. Mỗi người dường như hiểu biết về người khác còn hơn cả chính mình.
“Thế, con nghĩ thế nào, Mack?” Jesus hỏi, hướng ánh nhìn về phía anh.
“Con không biết các Ngài đang nói gì,” Mack nói trong lúc miệng ngậm đầy rau rất ngon lành. “Nhưng con thích cách các Ngài nói chuyện.”
“Chao ơi,” tiếng thốt của Papa, người vừa vào bếp mang ra một món nữa. “Cứ ăn thong thả, anh bạn trẻ. Món này ăn không cẩn thận thì phiền đấy.”
“Được rồi,” Mack đáp. “Con nhớ mà,” anh vừa nói vừa với lấy món ăn trong tay Ngài. Rồi xoay người về phía Jesus, anh nói tiếp: “Con thích cái cách các Ngài đối xử với nhau. Rõ ràng không phải cách con hình dung về Chúa.”
“Con nói sao?”
“Con nói là các Ngài là một và là tất cả, và các Ngài có ba người. Nhưng các Ngài đối đáp với nhau thật khoan dung. Không một ai có địa vị cao hơn hai người kia sao?”
Ba người nhìn nhau như thể họ chưa bao giờ nghĩ đến một câu hỏi như vậy.
“Ý con là,” Mack vội tiếp lời, “Lúc nào con cũng nghĩ rằng Chúa Cha là đấng chỉ huy và Jesus là người thừa hành mệnh lệnh, tức là tuân thủ. Con không biết chắc Đức Thánh Linh thể hiện ra sao. Ngài... ý con là...” Mack cố không nhìn vào Sarayu trong lúc lắp bắp tìm từ. “...Dù gì đi nữa - Linh thể bao giờ cũng có vẻ là một...”
“Một linh thể tự do?” Papa gợi ý.
“Chính xác - một linh thể tự do, nhưng vẫn theo sự dẫn dắt của Đức Cha. Như thế có lý không?”
Jesus nhìn sang Papa, rõ ràng đang cố gắng để giữ lấy cảnh huống rất trang trọng này. “Điều đó có hợp lý với Ngài không, Abba? Thật tình, ta không biết người này đang nói về điều gì.”
Papa cau mặt lại như thể đang rất tập trung. “Không, ta vẫn đang cố gắng để theo dõi câu chuyện, nhưng xin lỗi, ta không nắm được ý của anh ta.”
“Các Ngài biết con đang nói chuyện gì mà.” Mack hơi bị ức chế. “Con đang nói về chuyện người nắm quyền. Các Ngài không có một chuỗi cấp bậc à?”
“Cấp bậc? Nghe thật là sợ!” Jesus lên tiếng.
“Ít ra để ràng buộc,” Papa thêm vào và cả hai cùng bật cười, rồi Papa quay sang Mack cất tiếng hát: “Dù chuỗi ấy bằng vàng, cũng là chuỗi như nhau mà thôi.”
“Đừng bận tâm với hai vị ấy,” Sarayu ngắt ngang, với tay sang động viên và trấn an anh. “Các vị ấy đùa với anh thôi. Đây đúng là một chủ đề chúng ta quan tâm.”
Mack gật đầu, nhẹ người và hơi thất vọng khi thấy mình lại một lần nữa đánh mất sự kiềm chế. “Mackenzie, chúng ta không có khái niệm quyền uy tối thượng trong chúng ta, chỉ có sự hợp nhất. Chúng ta là một chu trình quan hệ, chứ không phải là một chuỗi cấp bậc hay ‘một chuỗi tôn vị’ như tổ tiên của con đã gọi. Những gì con nhìn thấy ở đây là một mối quan hệ không chồng lấp quyền uy. Chúng ta không cần quyền hành đối với nhau vì chúng ta luôn hướng đến sự mỹ mãn. Cấp bậc không có nghĩa gì với chúng ta. Thật sự, đây là vấn đề của các con chứ không phải của chúng ta.”
“Thật vậy sao? Như thế nào?”
“Con người thật lạc lối và tha hóa đến mức đối với các con thì hầu như không thể hiểu được con người có thể làm việc và sinh sống với nhau mà không có ai đó nắm quyền.”
“Nhưng mọi định chế của con người mà con hình dung được, từ chính trị đến kinh doanh, thậm chí đến hôn nhân, đều được vận hành theo tư duy đó; nó là cái mạng của cơ cấu xã hội,” Mack quả quyết.
“Thật là lãng phí!” Papa nói, cầm lấy chiếc đĩa trống không đi vào bếp.
“Đó là một lý do tại sao các con khó đạt được một mối quan hệ thật sự,” Jesus nói thêm. “Một khi có thứ bậc, các con cần quy tắc để bảo vệ và quản trị, rồi các con cần luật pháp và hành pháp cho điều luật, rồi sau cùng các con đi đến một chuỗi cấp bậc hoặc hệ thống thứ bậc làm hủy hoại mối quan hệ thay vì củng cố nó. Các con hiếm khi nào chứng kiến hoặc trải nghiệm mối quan hệ tách rời khỏi quyền lực. Thứ bậc sẽ áp đặt luật lệ và các con sẽ bỏ mất điều kỳ diệu của quan hệ mà chúng ta đã định ra cho các con.”
Mack dựa người vào ghế, đáp một cách châm biếm: “Chắc chắn chúng con dường như đã cải biến nó một cách khá là ổn thỏa.”
Sarayu đáp ngay: “Đừng lầm lẫn sự biến cải với mục đích, hay là sự cám dỗ với thực tại.”
“Vậy thì... à, Ngài cho con xin thêm chút rau kia nữa nhé. Vậy thì, chúng con đã bị cám dỗ bởi định kiến về quyền lực?”
“Đúng, về một nghĩa nào đó!” Papa đáp, đưa đĩa rau cho Mack nhưng tay không rời, chờ cho anh lấy hai lần. “Ta quan tâm đến các con.”
Sarayu tiếp lời: “Khi chọn sự độc lập thay vì quan hệ, các con đã trở nên một mối hiểm họa của nhau. Những người khác trở nên đối tượng bị thao túng hoặc điều khiển để các con tìm lấy hạnh phúc cho chính mình. Quyền lực, như con vẫn nghĩ, chỉ là cái cớ để kẻ mạnh dùng mà buộc kẻ khác làm theo ý họ.”
“Nhưng ngăn chặn mọi người xung đột không ngừng với nhau và bị tổn thương không phải là điều tốt sao?”
“Đến khi. Nhưng trong một thế giới ích kỷ thì nó cũng được dùng để gieo rắc nguy cơ lớn hơn.”
“Nhưng các Ngài không dùng nó để khắc chế cái xấu sao?”
“Chúng ta chăm chút tôn trọng sự lựa chọn của các con nên chúng ta hành động trong khuôn khổ của các con kể cả trong lúc tìm cách giải thoát các con khỏi điều đó,” Papa tiếp. “Sự sáng tạo đã diễn ra theo một con đường rất khác với điều chúng ta mong muốn. Trong thế giới của các con, giá trị của cá nhân luôn được cân nhắc so sánh với sự tồn tại của hệ thống, dù là về chính trị, kinh tế, xã hội hay tôn giáo - bất kể hệ thống nào. Trước tiên là một con người, rồi sau đó là một vài người, rồi cuối cùng là thêm nhiều người nữa dễ dàng bị hy sinh cho lợi ích và sự tồn tại tiếp nối của hệ thống ấy. Dưới hình thức này hay khác, điều này tồn tại đằng sau mọi cuộc tranh đấu vì quyền lực, mọi thành kiến, mọi cuộc chiến tranh, và mọi sự lạm dụng mối quan hệ. Ý chí mưu cầu quyền lực và sự độc lập đã trở nên phổ quát đến độ giờ đây được xem như bình thường .”
“Không phải như thế à?”
“Đó là một khuôn mẫu theo kiểu của con người,” Papa góp lời khi mang thức ăn trở lại. “Giống như nước đối với cá, quá bình thường đến mức nước không còn được nhìn thấy nữa và không còn bị tranh cãi nữa. Đó là một cái ma trận; một mưu đồ ác nghiệt mà các con bị mắc vào một cách tuyệt vọng trong khi thậm chí không hề biết đến sự tồn tại của nó.”
Jesus góp vào cuộc đối thoại. “Như vinh hiển của Đấng Tạo hóa, các con được tạo dựng trong hình hài của chúng ta, không bị trói buộc bởi cấu trúc và tự do hiện diện trong mối quan hệ với ta và với nhau. Nếu các con thật sự biết xem trọng những mối quan tâm của nhau như của chính mình, sẽ chẳng cần đến thứ bậc.”
Mack ngồi dựa trên ghế, chao đảo bởi ý nghĩa của những gì đang nghe thấy. “Vậy là Ngài đang nói rằng mỗi khi con người chúng con tự bảo vệ mình bằng quyền lực...”
“Thì các con đã lùi bước trước cái ma trận ấy, chứ không phải trước chúng ta,” Jesus kết lời.
“Bây giờ thế này,” Sarayu thốt lên, “chúng ta đã đi trọn một vòng, quay trở lại với định đề lúc ban đầu của ta: Con người thật lạc lối và tha hóa đến mức đối với các con thì hầu như không thể hiểu được mối quan hệ có thể tồn tại tách rời khỏi quyền lực. Cho nên con nghĩ rằng Thiên Chúa cũng có thứ bậc bên trong như các con. Nhưng chúng tôi không hề có.”
“Nhưng làm sao chúng con có thể thay đổi điều đó? Con người sẽ lợi dụng chúng con.”
“Hẳn là như thế. Nhưng chúng ta không yêu cầu con làm thế với mọi người. Chúng ta đang yêu cầu con làm thế với chúng ta. Đó là nơi duy nhất có thể khởi đầu. Chúng ta sẽ không lợi dụng con.”
“Mack,” Papa lên tiếng một cách mạnh mẽ đến độ khiến anh phải lắng nghe một cách chăm chú, “chúng ta muốn chia sẻ với con tình yêu và sự hân hoan và tự do và ánh sáng mà chúng ta đã biết đến trong chúng ta. Chúng ta đã tạo ra con, con người, để trực diện quan hệ với chúng ta, để hòa nhập với chúng ta trong quỹ đạo của tình thương yêu. Nói ra điều này rất khó hiểu đối với con, nhưng vạn sự đã xảy ra đều đang diễn biến đúng theo mục đích này, mà không hề trái với sự lựa chọn hay ý chí.”
“Làm sao Ngài có thể nói như vậy khi thế giới này đầy khổ đau, đầy chiến tranh và thảm họa hủy hoại hàng ngàn con người?” Giọng của Mack dịu xuống như một lời thì thào. “Thế thì giá trị là đâu khi một đứa bé gái bị sát hại bởi một kẻ bệnh hoạn quái gở?” Lại động đến nữa rồi, câu hỏi luôn thiêu đốt trong tâm hồn anh. “Các Ngài có thể không gây ra những chuyện này, nhưng rõ ràng các Ngài không ngăn chặn.”
“Mackenzie,” Papa trả lời dịu dàng, dường như chẳng phật ý chút nào bởi lời cáo buộc của anh, “có hàng triệu lý do để chấp nhận sự đau đớn và khổ sở cũng như đọa đày thay vì trừ diệt chúng, nhưng hầu hết các lý do đều chỉ có thể hiểu được trong câu chuyện của mỗi người. Ta không xấu xa. Các con là những người mang lấy sự sợ hãi, đau khổ, quyền lực và quyền hạn vào trong các mối quan hệ. Nhưng sự lựa chọn của các con cũng không mạnh mẽ hơn mục đích của ta, và ta sẽ tận dụng mọi sự lựa chọn của các con cho lợi ích tối thượng và kết quả tràn đầy yêu thương nhất.”
“Con thấy đó,” Sarayu thốt lên, “con người tha hóa đã đặt trọng tâm cuộc sống của họ vào những yếu tố dường như tốt đẹp với họ, nhưng điều đó cũng chẳng khỏa lấp hay giải thoát cho họ. Họ nghiện quyền lực, hay là cái ảo giác của sự an lành mà quyền lực mang đến. Khi xảy ra thảm họa, chính những con người ấy sẽ quay mặt lại với thứ quyền lực giả mà họ đã tin cậy. Trong cơn thất vọng, hoặc họ trở nên mềm yếu đối với ta hoặc họ sẽ trở nên mạnh mẽ hơn trong sự độc lập. Giá mà con thấy được mọi chuyện như thế sẽ kết thúc ra sao và chúng ta sẽ đạt được những gì mà không trái với ý chí con người - thì con sẽ hiểu. Một ngày kia con sẽ hiểu.”
“Nhưng cái giá phải trả!” Mack chao đảo. “Hãy nhìn cái giá - bao nhiêu đau đớn, bao nhiêu khổ sở, mọi thứ thật quá kinh khủng và xấu xa.” Anh dừng lại rồi nhìn xuống bàn. “Hãy nhìn cái giá các Ngài phải trả. Có đáng không?”
“Có!” cả ba người đồng thanh đáp lại trong hân hoan.
“Làm sao có thể nói vậy được?” Mack buột miệng. “Tất cả giống như mục đích biện minh cho phương pháp, rằng để đạt được mục đích các Ngài sẽ làm mọi cách, thậm chí nếu phải trả giá bằng hàng tỉ sinh mạng con người.”
“Mackenzie.” Lại giọng của Papa, thật nhẹ nhàng và dịu dàng. “Con thật sự chưa hiểu đâu. Con cố gắng để hiểu thế giới mà con đang sống dựa trên một bức tranh rất nhỏ và không hoàn hảo về thực tại. Giống như quan sát một cuộc diễu hành qua một chiếc lỗ khóa tí xíu của khổ sở, đau đớn, vị kỷ và quyền lực, và nhủ lòng tin rằng mình đang đơn độc và vô nghĩa. Tất cả những điều này đều chứa đựng sự dối trá ghê gớm. Con nhìn thấy nỗi đau và chết chóc như những điều xấu xa tột bực và Thiên Chúa là kẻ phản bội tột cùng, hoặc có lẽ, nhẹ nhất, thì về căn bản cũng không đáng tin cậy.
Sai lầm thật sự trong cuộc đời con, Mackenzie, là con không nghĩ rằng ta tốt đẹp. Nếu con biết rằng ta tốt và mọi thứ - mọi phương tiện, mục đích, và mọi chu trình của những đời sống cá nhân - đều được bao trùm trong phép lành của ta, thì mặc dù có thể không hiểu ta đang làm gì, con vẫn sẽ tin ta. Nhưng con đã không tin.
“Con không tin?” Mack chất vấn, nhưng đó chẳng phải là một câu hỏi thật sự. Đó là câu khẳng định một sự việc mà anh đã biết. Những vị kia dường như cũng biết và cả bàn yên lặng.
Sarayu lên tiếng: “Mackenzie, con không thể tạo ra lòng tin cũng như con không thể ‘làm ra’ sự khiêm nhường. Hoặc là có hoặc là không. Tin cậy là kết quả của một mối quan hệ mà trong đó con biết mình được yêu thương. Vì con không biết rằng ta yêu con, con không thể tin cậy ta.”
Lại một sự im lặng, rồi sau cùng Mack nhìn lên Papa và nói. “Con không biết làm thế nào để thay đổi điều đó.”
“Con không thể, nhất là tự mình. Nhưng cùng nhau chúng ta sẽ chứng kiến đổi thay ấy sẽ diễn ra. Còn bây giờ, ta chỉ muốn con ở cùng với ta để khám phá rằng quan hệ của chúng ta không phải là câu chuyện về hành vi hay con phải làm đẹp lòng ta. Ta không phải kẻ ép buộc, cũng không phải thần thánh ích kỷ và yêu sách nhất định đòi phải theo ý mình. Ta nhân lành và ta mong muốn chỉ những gì tốt nhất cho con. Không thể tìm thấy điều đó trong sự sai trái hay luận phạt hay áp bức, chỉ có thể tìm thấy trong một tương quan của tình yêu. Và ta yêu con.”
Sarayu đứng dậy và nhìn thẳng vào Mack. “Mackenzie,” Ngài ngỏ lời, “nếu con quan tâm, ta muốn con đi phụ ta ngoài vườn. Có những việc ta phải làm ngoài đó trước buổi lễ ngày mai. Ta có thể nói tiếp câu chuyện này ở ngoài ấy, được không?”
“Được chứ,” Mack đáp và xin phép đứng dậy.
“Một câu cuối cùng,” anh nói thêm, xoay người lại. “Có điều con không hình dung được một kết cục nào để biện minh cho mọi chuyện này.”
“Mackenzie.” Papa đứng dậy rồi đi vòng qua bàn đến siết lấy anh. “Chúng ta không biện minh. Chúng ta đang cứu chuộc.”