← Quay lại trang sách

Chương 9 NGÀY XỬA NGÀY XƯA TRONG MỘT KHU VƯỜN XA XĂM

Cho dù có tìm được một vườn địa đàng khác, chúng ta cũng chẳng xứng đáng để tận hưởng nó một cách mỹ mãn hay là lưu trú nơi ấy mãi mãi.

— HENRY VAN DYKE

⚝ ⚝ ⚝

Mack đi theo Sarayu ra cửa sau rồi đi dọc theo lối đi qua hàng cây linh sam. Đi đằng sau một linh thể như vậy cũng như dò theo ánh sáng mặt trời. Ánh sáng dường như tỏa ra từ Ngài và rồi phản chiếu sự hiện diện của Ngài ở nhiều nơi cùng lúc. Trạng thái của Ngài khá siêu trần, đầy những hình thái và sắc màu lay động. “Thảo nào biết bao người không diễn tả được Ngài,” Mack nghĩ. “Rõ ràng Ngài không phải là người mà ta có thể tiên định.”

Mack chuyển sang chú mục vào việc đi theo con đường. Khi đi vòng qua hàng cây, lần đầu tiên anh nhìn thấy một khu vườn cây trái rực rỡ nằm trong một mảnh đất không lớn hơn một mẫu. Vì một lý do gì đó, Mack đã hình dung một khu vườn kiểu Anh được cắt tỉa chăm chút và gọn gàng. Cái này thì không!

Một sự hỗn độn về màu sắc. Mắt anh cố gắng một cách thất bại để tìm kiếm một sự ngăn nắp trong khung cảnh um tùm lộn xộn này. Những khóm hoa rực rỡ nở trên những vạt cây cỏ trồng ngẫu nhiên, những loài thực vật mà Mack chưa bao giờ thấy. Thật là rối rắm, choáng ngợp và vô cùng tươi đẹp.

“Nhìn từ trên cao như một bức tranh phân hợp ,” Sarayu ngoái đầu nói một cách hài lòng.

“Một gì?” Mack hỏi một cách lơ đãng, tâm trí anh vẫn còn đang cố níu giữ lấy hình bóng và chuyển động của màu sắc. Mỗi bước anh đi lại làm thay đổi những gì mà anh tưởng đã nhìn thấy, và mỗi thứ lại mỗi khác.

“Một bức phân hợp ... là một thứ được xem là đơn giản và trật tự nhưng thật ra được tập hợp bởi những mô hình lặp lại cho dù chúng có được phóng lớn đến đâu. Một sự phân hợp là một phức hợp hầu như vô tận. Ta thích sự phân hợp, nên ta bày ra khắp nơi.”

“Con thì trông thấy chúng như một sự hỗn độn,” Mack thì thầm qua hơi thở.

Sarayu dừng lại quay sang Mack, khuôn mặt Ngài sáng ngời. “Mack! Cám ơn con! Thật là một lời khen tuyệt vời!” Ngài nhìn quanh khu vườn. “Nó chính là như vậy - một sự hỗn độn. Nhưng...” Ngài nhìn lại Mack rồi nói: “Nhưng nó vẫn là một sự phân hợp.”

Sarayu đi thẳng đến một khóm cây, ngắt vài đọt rồi xoay lại Mack.

“Đây,” Ngài nói, giọng nghe giống như âm nhạc hơn cả. “Papa không nói đùa trong lúc điểm tâm đâu. Con cứ nhai mấy đọt này một lúc đi. Nó sẽ hóa giải “hành động” tự nhiên của những con người mà con quá nương phục trước đây, chắc con hiểu ý ta.”

Mack cười thầm khi đón nhận và cẩn thận bắt đầu nhai. “Vâng, nhưng mấy cọng rau ấy ngon thật!” Bụng anh bắt đầu quặn một chút, và sự choáng ngợp trước khung cảnh hoang dã xanh tươi này chẳng giúp ích gì. Hương vị của loài thảo mộc ấy không khó chịu: một chút của bạc hà và một chút của những gia vị khác mà anh có lẽ đã từng nếm trước đó nhưng không nhận ra được. Trong lúc đi quanh, cơn sôi trong bụng anh từ từ dịu đi, rồi anh chợt nới lỏng nắm tay không biết đã siết chặt từ lúc nào.

Không nói một lời, anh cố đi theo Sarayu khắp nơi trong khu vườn, nhưng vẫn thấy mình dễ dàng bị xao lãng bởi những hòa quyện sắc màu; màu đỏ nho với màu thần sa, màu quả quýt với màu lục nhạt ngăn cách bởi màu bạch kim và màu hoa vân anh, cũng như vô số sắc độ của lục và nâu. Tất cả là một sự choáng ngợp và ngất ngây đến kỳ diệu.

Sarayu đường như đang chú tâm rất mực vào một việc nào đó. Nhưng giống như tên của Ngài, Ngài lướt vòng quanh như một cơn gió lốc và anh chẳng lúc nào biết được Ngài đang thổi về hướng nào. Anh cảm thấy khá vất vả để theo kịp Ngài. Anh chợt nhớ đến những lúc cố gắng đi theo Nan trong siêu thị.

Ngài di chuyển trong khu vườn để cắt tỉa hoa cỏ rồi trao cho Mack. Lẵng hoa ngẫu hứng càng lúc càng lớn dần, một khối mùi hương sực nức. Những hương thơm pha trộn với nhau chẳng giống một thứ gì anh đã từng ngửi, và mùi hương đậm đà đến mức anh tưởng chừng có thể nếm được.

Họ đặt lẵng hoa cuối cùng vào trong khung cửa của một lán nhỏ trong vườn mà nãy giờ Mack không chú ý. Túp lán giấu mình trong tàn cây cỏ hoang vu rậm rạp đầy dây leo mà Mack tưởng là cỏ dại.

“Xong một việc,” Sarayu tuyên bố, “còn một việc nữa.” Ngài trao cho Mack một cái xẻng, một cái cào, một lưỡi hái và một đôi găng rồi lướt về phía con đường rậm rịt dường như chạy về phía cuối khu vườn. Trên đường đi, thỉnh thoảng Ngài chậm bước để chạm vào cây này hoặc hoa kia, miệng ngâm nga suốt một giai điệu ám ảnh mà Mack đã bị mê hoặc buổi tối hôm trước. Anh ngoan ngoãn bước theo, tay cầm mớ dụng cụ được trao và cố gắng dõi theo hình bóng Ngài trong lúc không ngớt ngạc nhiên với khung cảnh xung quanh.

Khi Ngài dừng lại, Mack suýt đâm sầm vào vì mải lơ đãng ngắm nhìn xung quanh. Bằng cách nào đó Ngài đã thay trang phục, giờ đây là một bộ quần áo lao động: quần jean và chiếc áo sơmi làm việc, với găng tay. Họ đang ở một khu vực có thể là vùng cây ăn quả, nhưng không hẳn. Dù gì thì nơi họ đứng cũng là một khu vực quang đãng được vây quanh ba phía bởi những cây đào và anh đào, còn ở giữa là một dòng thác những bụi hoa tím xen vàng làm anh suýt nghẹt thở.

“Mackenzie,” Ngài chỉ thẳng vào phía mảng hoa tím vàng kỳ sắc. “Ta muốn con giúp dọn sạch toàn bộ vạt này. Có một thứ quan trọng mà ta muốn trồng vào ngày mai, và ta cần chuẩn bị sẵn sàng.” Ngài nhìn Mack và với tay lấy chiếc lưỡi hái.

“Ngài nói nghiêm túc chứ? Vạt này đẹp quá và lại nằm ở chỗ khuất nẻo.” Nhưng Sarayu dường như không chú tâm. Không giải thích gì thêm, Ngài quay người bắt đầu tàn phá bức tranh hoa nghệ thuật. Ngài cắt gọn, và bắt đầu cào mớ tàn tích lại thành đống. Anh cố gắng theo kịp. Có lẽ đối với Ngài chẳng phải là quá sức nhưng đối với anh quả là một kỳ công. Hai mươi phút sau, cây cối đã được cắt gọn sạch tận gốc, và mảnh đất trông như một vết thương trong khu rừng. Cẳng tay Mack đầy vết cứa bởi những cành cây anh gom lại thành đống. Anh thấy hụt hơi và vã mồ hôi, mừng vì đã xong việc. Sarayu đứng nhìn mảnh đất, xem xét thành quả công việc.

“Phấn khích chứ?” Ngài hỏi.

“Con thì phấn khích theo những cách ho hay hơn,” Mack đáp lại một cách châm biếm.

“Ồ, Mackenzie, giá mà con biết được. Không phải là công việc, mà chính mục đích đã làm cho việc này trở nên đặc biệt. Và,” Ngài mỉm cười với anh, “đó là thứ duy nhất ta làm.”

Mack tựa người vào chiếc cào và nhìn quanh khu vườn rồi nhìn những vết đỏ trên cánh tay. “Sarayu, con biết Ngài là Đấng Tạo hóa, nhưng Ngài cũng tạo ra những loài cây độc, những bụi gai và muỗi nữa, đúng không?”

“Mackenzie,” Sarayu đáp, dường như chuyển động cùng với gió, “một tạo vật chỉ có thể dựa trên những gì đã có để từ đó tạo nên một thứ khác.”

“Vậy ý Ngài đang nói là Ngài...”

“...tạo ra mọi thứ thật sự hiện hữu, kể cả những gì con xem là xấu xa,” Sarayu nói dứt câu. “Nhưng khi ta đã tạo ra nó, chỉ có Tốt lành thôi, vì ta là như thế.” Ngài dường như khẽ nhún người trước khi tiếp tục công việc.

“Nhưng,” Mack nói tiếp, chưa thỏa mãn, “vậy thì tại sao quá nhiều thứ ‘tốt’ lại trở nên ‘xấu’?”

Giờ thì Sarayu dừng lại trước khi trả lời. “Con người các con, thật nhỏ nhoi trong ánh mắt. Các con thật sự mù quáng với nơi chốn của mình trong Sáng thế. Chọn lấy con đường độc lập một cách hủy hoại, các con không hiểu rằng chính mình đang kéo theo cả Sáng thế cùng với mình.” Ngài lắc đầu và gió thở dài qua những thân cây gần đó. “Thật rất đáng buồn, nhưng mọi chuyện sẽ không như thế này mãi.”

Họ lặng im chốc lát trong khi Mack nhìn lại bao nhiêu cây cối từ nơi họ đang đứng. “Vậy thì, có cây cối nào trong khu vườn này là độc không?” anh hỏi.

“Ồ, có chứ,” Sarayu thốt lên. “Đó là một trong những thứ ta thích nhất. Một số nguy hiểm cả khi chạm vào, như cây này.” Ngài chìa tay chạm vào một khóm cây gần kề rồi ngắt lấy một đoạn trông như cành khô có vài chiếc lá tí hon đang nảy lộc. Ngài trao cho Mack, trong khi giơ hai tay lên để tránh chạm vào.

Sarayu cười. “Có ta đây mà, Mack. Có những lúc chạm vào an toàn, và có lúc phải cẩn trọng. Đó là sự kỳ thú và phiêu lưu của khám phá, một phần của cái mà con gọi là khoa học - để nhận thức và khám phá những gì chúng ta cất giấu để cho con tìm hiểu.”

“Thế tại sao Ngài lại cất giấu?” Mack tò mò.

“Tại sao trẻ con thích chơi trốn tìm? Hãy hỏi bất kỳ ai có nỗi đam mê tìm tòi để khám phá và sáng tạo. Chọn lựa che giấu với các con quá nhiều điều kỳ thú chính là một hành vi thương yêu vốn là một tặng vật trong tiến trình sự sống.”

Mack hào hứng chìa tay ra cầm lấy nhánh cây. “Nếu Ngài không bảo con rằng nhánh cây chạm vào an toàn, thì nó có đầu độc con không?”

“Có chứ! Nhưng nếu ta bảo con cầm thì lại khác. Đối với bất kỳ một tạo vật nào, tự trị là điên rồ. Tự do bao gồm sự tin cậy và tuân phục trong một mối quan hệ yêu thương. Cho nên, nếu con không nghe thấy giọng của ta, nếu khôn ngoan thì phải mất thời gian để tìm hiểu về bản chất của cây ấy.”

“Vậy thì tại sao lại tạo ra cây độc làm gì?” Mack chất vấn, trả lại nhánh cây.

“Câu hỏi của con giả định rằng chất độc là xấu; rằng sự sáng tạo ấy chẳng có mục đích gì. Nhiều cây bị gọi là độc, như cây này chẳng hạn, chứa đựng những thuộc tính để chữa trị hoặc cần thiết để tạo nên những điều kỳ thú tuyệt diệu nhất khi kết hợp với yếu tố khác. Con người có đầy tư cách trong việc tuyên bố một sự vật là tốt hay là xấu, mà thật sự chẳng hiểu biết.”

Phút giải lao ngắn ngủi dành cho Mack đã kết thúc và Sarayu ném một chiếc xẻng cho Mack, và nhặt lấy chiếc cào. “Để chuẩn bị mảnh đất này, chúng ta phải đào rễ của tất cả cây cối ở đây. Một công việc nặng nhọc đấy, nhưng rất đáng làm. Nếu rễ được nhổ sạch, chúng sẽ không mọc tự nhiên được và làm hại hạt giống ta sẽ gieo trồng.”

“Ok,” Mack lẩm bẩm trong lúc cả hai quỳ xuống dọc theo vạt đất vừa dọn sạch. Sarayu có cách để thọc sâu vào lòng đất để tìm trọn bộ rễ, rồi nhổ lên khỏi mặt đất không chút khó khăn. Ngài dành những cây thấp hơn cho Mack, mà anh phải dùng xẻng để đào rồi nhổ lên. Rồi họ giũ sạch đất ra khỏi rễ rồi quẳng vào đống cây mà Mack đã cào lại trước đó.

“Lát nữa ta sẽ đốt chúng,” Ngài nói.

“Lúc nãy Ngài đang nói là con người tuyên bố tốt xấu mà thật sự không hiểu biết?” Mack vừa hỏi vừa giũ đất ra khỏi một cái rễ cây.

“Đúng. Ta đang nói đích xác về cái cây tri thức đối với cái tốt và cái xấu.”

“Cái cây tri thức đối với cái tốt và cái xấu?” Mack hỏi.

“Chính xác!” Ngài khẳng định, giọng cởi mở và nhấn mạnh vào vấn đề trong lúc vẫn làm việc. “Còn giờ đây, Mackenzie, con sắp sửa hiểu tại sao ăn quả của cái cây chết người đó lại tàn phá giống nòi như thế.”

“Con thật sự chưa bao giờ nghĩ nhiều về chuyện đó,” Mack nói, bị kích thích với chiều hướng của cuộc đối thoại. “Vậy là có một khu vườn thật à? Ý con là vườn Địa đàng gì đó?”

“Có chứ. Ta đã bảo con là ta thích những khu vườn mà.”

“Vậy thì nhiều người sẽ phiền muộn đấy. Có nhiều người nghĩ rằng đó chỉ là một huyền thoại.”

“Sai lầm của họ chẳng có gì ghê gớm. Những lời đồn hào nhoáng thường ẩn nấp trong những thứ mà nhiều người xem là huyền thoại hay truyền thuyết.”

“Ồ, con có nhiều người bạn sẽ không thích chuyện này,” Mack nhận xét trong lúc đánh vật với một đám rễ bướng bỉnh.

“Không có vấn đề gì. Bản thân ta rất thích họ.”

“Con rất ngạc nhiên,” Mack nói một cách hơi châm biếm, và mỉm cười về phía Ngài. “Thôi được rồi.” Anh xắn xẻng vào đám đất, một tay nắm lấy phía trên rễ. “Vậy Ngài nói cho con nghe về cây tri thức của cái tốt và cái xấu đi.”

“Đây là chuyện chúng ta đã bàn trong lúc điểm tâm,” Ngài đáp. “Trước tiên để ta hỏi con một câu. Khi một chuyện gì đó xảy đến với con, con làm thế nào để xác định nó tốt hay xấu?”

Mack nghĩ một chốc trước khi trả lời. “À, thật sự con chưa nghĩ về chuyện đó. Có lẽ con sẽ nói nó là tốt khi con thích - khi nó làm con cảm thấy tốt đẹp hay cho con cảm giác bình an. Ngược lại, con sẽ gọi nó là xấu nếu nó khiến con đau đớn hay lấy mất của con thứ mà con muốn.”

“Vậy là khá thụ động đúng không?”

“Có lẽ là vậy.”

“Và con tự tin đến mức nào về khả năng của mình trong việc nhận định cái gì tốt, cái gì xấu đối với mình?”

“Thật lòng mà nói,” Mack đáp, “con thường tỏ ra tức giận khi ai đó đe dọa đến cái tốt lành của ‘con’, những gì mà con nghĩ mình xứng đáng. Nhưng thật sự con không chắc mình có được nền tảng hợp lý để định đoạt cái gì thật sự tốt hay xấu, ngoại trừ một điều gì đó hay ai đó tác động đến con như thế nào.” Anh dừng lại để nghỉ và lấy hơi. “Mọi chuyện đều hoàn toàn tự phát và vị kỷ, con nghĩ vậy. Mà tiến trình quan điểm của con cũng chẳng khá gì hơn. Một số thứ ban đầu con tưởng là tốt hóa ra hết sức nguy hại, và một số thứ con tưởng là xấu xa lại hóa ra...”

Anh ngập ngừng trước khi nói hết ý nghĩ, nhưng Sarayu đã ngắt lời. “Vậy thì chính con đã định đoạt cái tốt và xấu. Con trở thành người phán xét. Mà rắc rối hơn nữa là những gì con xác định là tốt lại thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Rồi chưa hết và còn tệ hơn nữa, có hàng tỉ người trong các con mỗi người lại tự định đoạt cái gì tốt và cái gì xấu. Cho nên, khi cái tốt và xấu của con xung đột với khái niệm của người láng giềng, tranh cãi và đụng độ diễn ra và thậm chí chiến tranh bùng nổ.”

Sắc màu chuyển động trong Sarayu ngã màu sẫm hơn trong khi Ngài nói, những sắc đen và xám pha trộn và làm ngả màu những sắc cầu vồng. “Và nếu không có thực tại về một cái tốt tuyệt đối, thì con sẽ lạc lối và mất cơ sở để phán xét. Chỉ là ngôn ngữ mà thôi, và người ta có thể thay đổi cái từ tốt, lấy cái từ xấu.”

“Con hiểu đó là nguy cơ phát sinh vấn đề,” Mack đồng tình.

“Vấn đề?” Sarayu đứng bật dậy đối mặt với anh. Ngài bận tâm, nhưng phải là do anh. “Thế đấy! Sự lựa chọn ăn quả ấy đã xé tan vũ trụ và ly gián tinh thần với thể xác. Họ đã chết, trút ra những hơi thở cũng chính là hơi thở của Chúa trời. Ta nói đó mới là một vấn đề!”

Trong cao trào của lời nói, Sarayu đã từ từ nhấc lên khỏi mặt đất, nhưng giờ đây nguôi lại, giọng Ngài trầm đi nhưng dứt khoát. “Đó là một ngày thật đau buồn.”

Cả hai đều không nói gì gần mười phút trong khi làm việc. Trong lúc không ngơi đào rễ và quẳng lại thành đống, tâm trí Mack bận rộn hoạt động để giải mã ý nghĩa của những gì Ngài đã nói. Rốt cục anh phá tan sự im lặng.

“Giờ thì con hiểu,” Mach thú nhận, “rằng con đã dành hầu hết thời gian và sức lực để cố đạt được những gì con định đoạt là tốt lành, dù là sự ổn định về tài chính hay sức khỏe hay việc nghỉ hưu hay bất cứ điều gì khác. Và con dành rất nhiều công sức và bận lòng lo sợ về những gì con định đoạt là xấu,” Mack thở dài sõng sượt.

“Sự thật là thế,” Sarayu nói dịu dàng. “Hãy nhớ điều này. Nó cho phép các con đóng vai Thượng đế trong sự tự hữu. Đó là lý do một số người trong các con không thích gặp ta. Và con không cần đến ta chút nào để đặt ra cho con danh sách những gì tốt và xấu. Nhưng con lại cần ta nếu con muốn ngăn chặn một ham muốn điên loạn dẫn đến sự tự hữu.”

“Vậy có cách nào để sửa chữa điều đó không?” Mack hỏi.

“Con phải từ bỏ quyền hạn của mình trong việc định đoạt cái gì tốt và cái gì xấu theo giới hạn của con. Đó là một viên thuốc khó nuốt; chọn lựa chỉ sống trong ta. Để làm được điều đó con phải biết đủ về ta để tin ta và học cách an nhiên trong tốt lành cố hữu của ta.”

Sarayu xoay sang Mack; ít ra đó là ấn tượng của anh. “Mackenzie, cái “xấu” là một từ mà chúng ta dùng để miêu tả sự thiếu vắng của cái “tốt”, cũng như chúng ta dùng từ “tối tăm” để miêu tả sự thiếu vắng “ánh sáng” hay “chết chóc” để miêu tả sự thiếu vắng “sự sống”. Cả cái xấu xa và cái tối tăm đều chỉ có thể hiểu được trong tương quan với “ánh sáng” và “tốt lành”; chúng không có bất kỳ một sự hiện hữu thật sự nào. Ta là ánh sáng và ta là tốt lành. Ta là tình yêu và không có bóng tối trong ta. Ánh sáng và tốt lành thật sự hiện hữu. Vì vậy, sự tách rời con ra khỏi ta sẽ đẩy con vào bóng tối. Tuyên xưng sự tự hữu sẽ dẫn đến cái xấu vì tách rời khỏi ta, con chỉ có thể tận diệt chính mình. Đó là cái chết vì con đã tách rời khỏi ta: Sự sống.”

“Chao ơi,” Mack thốt lên, ngồi lại một lúc. “Thật là thấm thía. Nhưng, con cũng thấy rằng từ bỏ quyền tự hữu của mình là một tiến trình không đơn giản. Nó có nghĩa là...”

Sarayu lại ngắt lời: “...là đồng thời, sự tốt lành có thể hiện diện như căn bệnh ung thư hay mất mát thu nhập - hay thậm chí mất cả sinh mạng.”

“Vâng, nhưng hãy nói điều ấy với một người bị ung thư hay người cha có đứa con gái thiệt mạng,” Mack thay đổi tư thế, hơi mỉa mai hơn ý định.

“Ồ, Mackenzie,” Sarayu trấn an. “Con nghĩ là chúng ta không nghĩ đến họ sao? Mỗi người đều là cốt lõi của một câu chuyện chưa kể.”

“Nhưng,” Mack cảm thấy mất dần tự chủ khi vung xẻng, “Missy không có quyền được bảo vệ hay sao?”

“Không, Mack. Một đứa bé được bảo vệ vì nó được yêu thương, chứ không vì nó có quyền được bảo vệ.”

Câu đó chặn đứng anh. Dù gì thì điều Sarayu vừa nói dường như đã làm đảo lộn cả thế giới, và anh đang vật vã tìm một chỗ bám víu. Chắc chắn có những thứ quyền gì đó mà anh có thể bám lấy một cách hợp lý.

“Nhưng thế còn...”

“Quyền là kết cục của những kẻ sống sót, để họ không phải thực hành những mối quan hệ,” Ngài chen vào.

“Nhưng, nếu con từ bỏ...”

“Thì con sẽ bắt đầu biết được sự kỳ thú và phiêu lưu của việc sống trong ta,” Ngài lại ngắt lời anh.

Mack bắt đầu ức chế. Anh nói lớn hơn, “Nhưng, con không có quyền...”

“Nói hết câu mà không bị ngắt lời? Không, con không có quyền. Không có trong thực tế. Nhưng khi nào con nghĩ con có quyền, chắc chắn con sẽ ức chế khi ai đó ngắt lời, thậm chí nếu đó là Chúa.”

Anh choáng và đứng dậy, nhìn Ngài, không biết nên nổi giận hay cười phá. Sarayu mỉm cười với anh. “Mackenzie, Jesus chẳng có một quyền hạn nào cả; Ngài sẵn lòng làm một tôi tớ và sống trọn mối quan hệ với Papa. Ngài từ bỏ mọi thứ, để rồi bằng cuộc sống phụ thuộc của mình Ngài đã mở cánh cửa cho phép các con sống tự do đủ để từ bỏ những quyền hạn của mình.”

Vào lúc đó, Papa xuất hiện trên lối đi và xách hai bao giấy. Ngài vừa tiến đến vừa mỉm cười.

“Ta đoán hai người có một cuộc đối thoại thú vị phải không?” Ngài nháy mắt với Mack.

“Tuyệt nhất!” Sarayu thốt lên. “Biết sao không? Anh ta gọi khu vườn của chúng ta là một đống lộn xộn - tuyệt chưa?”

Cả hai đều cười với Mack trong khi anh vẫn chưa chắc là mình không bị trêu đùa. Cơn giận của anh lui dần và anh vẫn còn cảm thấy nóng trên má. Hai vị kia dường như không để ý.

Sarayu tiến đến hôn lên má Papa. “Như thường lệ, Ngài canh thật đúng lúc. Mọi thứ ta cần Mackenzie làm ngoài này đều đã xong.” Ngài xoay sang anh. “Mackenzie, con đúng là một niềm hân hoan! Cám ơn con đã làm việc vất vả.”

“Thật ra con đâu có làm gì nhiều,” anh tạ lỗi. “Cứ nhìn cái mớ lộn xộn này đi.” Ánh mắt anh lướt khắp khu vườn đang vây quanh họ. “Nhưng khu vườn rất đẹp và đầy ắp Ngài trong đó, Sarayu. Thậm chí hình như còn rất nhiều việc cần phải làm, nhưng con lại cảm thấy thoải mái và dễ chịu một cách kỳ lạ tại đây.”

Hai người nhìn nhau và mỉm cười.

Sarayu bước về phía anh cho đến lúc gần kề. “Như thế là đúng, Mackenzie, vì khu vườn này là linh hồn của con. Cảnh hỗn độn này là con ! Cùng nhau, con và ta, chúng ta đã làm việc với một mục đích trong thâm tâm. Mọi chuyện thật sinh động và đẹp đẽ và diễn ra một cách mỹ mãn. Đối với con thì như một mớ hỗn độn nhưng đối với ta, ta thấy một hình mẫu hoàn hảo đang hiện ra, lớn dậy và sống động - một bức tranh phân hợp sống!”

Lời nói của Ngài có làm vỡ vụn mọi dè dặt của Mack. Anh nhìn lại khu vườn của họ - khu vườn của anh - và quả đúng là một cảnh hỗn độn, nhưng đồng thời cũng lạ kỳ và tuyệt diệu. Và hơn nữa, Papa đã đến và Sarayu yêu cái hỗn độn ấy. Thật quá nhiều thứ để thấu hiểu và một lần nữa những cảm xúc được canh gác cẩn mật của anh lại chực sôi trào.

“Mackenzie, Jesus muốn đưa con đi dạo, nếu con muốn đi. Ta đã đóng gói cho con bữa trưa dã ngoại phòng khi con đói. Nó sẽ giúp con cầm cự được đến giờ uống trà.”

Khi Mack xoay người để nhận túi đồ ăn trưa, anh cảm thấy Sarayu lướt qua, hôn lên má anh, nhưng anh không thấy Ngài đi. Anh nghĩ đến đường đi của Ngài như một cơn gió, cỏ cây lần lượt cúi mình như đang thờ phụng. Khi anh quay lại, Papa cũng đã đi nên anh đi về phía lán thử tìm Jesus. Dường như họ đã có hẹn.