← Quay lại trang sách

Chương 11 NGƯỜI PHÁN XÉT

Kẻ nào rắp tâm muốn làm người phán xét của Chân lý và Tri thức sẽ phá sản bởi tiếng cười của thần thánh.

— Albert Einstein

Ôi tâm hồn tôi... xin hãy sẵn sàng với những kẻ nào biết đặt câu hỏi.

— T.S.Eliot

⚝ ⚝ ⚝

Mack đi theo lối mòn vòng qua thác nước, rời xa hồ, và xuyên qua một khoảnh tuyết tùng rậm rạp. Mất chưa đến năm phút thì cùng đường. Lối mòn dẫn anh đến thẳng một vách đá, đường viền của một khung cửa không dễ nhận ra trên bề mặt đá. Rõ ràng là anh phải bước vào, nên anh ngần ngừ chạm vào và đẩy thử. Bàn tay anh cứ xuyên vào tường như chốn thinh không. Mack tiếp tục di chuyển một cách cẩn trọng về phía trước cho đến khi toàn thân anh đi qua một thứ trông như là lớp vỏ đá bên ngoài của ngọn núi. Bên trong đen đặc và anh chẳng nhìn thấy gì.

Hít một hơi sâu và duỗi tay mò mẫm phía trước, anh liều thử một vài bước ngắn vào khoảng bóng tối như hũ nút rồi dừng lại. Nỗi sợ hãi siết lấy trong lúc anh cố thở, không biết chắn có nên tiếp tục hay không. Trong lúc bụng thót lại, anh lại cảm thấy chuyện đó một lần nữa, nỗi đau đã hạ xuống trên đôi vai anh với trọn vẹn sức nặng của nó suýt làm anh ngạt thở. Anh tuyệt vọng muốn trở lại với ánh sáng bên ngoài, nhưng rốt cục anh tin rằng Jesus sẽ không bảo anh vào đây nếu không có dụng ý tốt. Anh dấn vào sâu hơn.

Từ từ mắt anh hồi phục sau cú sốc do chuyển từ ánh sáng ban ngày sang bóng tối mịt mùng, rồi một phút sau, mắt anh trở nên quen đến độ nhìn ra một lối đi lượn vòng phía bên trái. Anh đi theo đó, phần sáng ở lối vào phía sau anh mờ dần rồi thay bằng một thứ áng sáng yếu ớt phản chiếu từ các mảng tường đâu đó phía trước.

Chưa đến một trăm bộ, đường hầm đột ngột ngoặt sang trái và Mack thấy mình đang đứng trước ngay mép của một cái mà anh cho là hang động lớn, mặc dù ban đầu trông chỉ có vẻ là một khoảng không gian rộng lớn trống rỗng. Ảo giác ấy được khuếch đại bởi thứ ánh sáng duy nhất tồn tại, một thứ ánh sáng hào quang mờ mờ bao phủ lấy anh, nhưng chỉ tỏa ra đến mười bộ thì lịm đi. Xa hơn khoảng đó thì anh không thể thấy gì, chỉ có một màu đen đặc. Không khí ở nơi này nặng nề và ngột ngạt, kèm với cái lạnh buốt đến độ nín thở. Anh nhìn xuống dưới và nhẹ người khi thấy ánh phản chiếu mờ mờ trên bề mặt - không phải đất hay đá của đường hầm mà là một mặt sàn nhẵn nhụi và sẫm như mica đánh bóng.

Can đảm dấn một bước, anh nhận ra vòng ánh sáng di chuyển theo mình, soi sáng thêm một chút về phía trước. Cảm thấy an tâm hơn, anh bắt đầu di chuyển chậm và bước mạnh về phía đối diện, chú tâm vào sàn nhà vì sợ nó có thể sụt xuống bất cứ lúc nào dưới chân mình. Quá chú tâm vào các bước chân nên Mack va vào một thứ trước mặt và suýt ngất.

Đó là một cái ghế, một cái ghế gỗ đặt chơi vơi ngay giữa. Mack nhanh chóng quyết định ngồi xuống chờ đợi. Trong khi đó, quầng ánh sáng đã giúp anh tiếp tục di chuyển về phía trước như thể anh vẫn đang đi. Ngay trước mặt anh, giờ đây anh có thể nhìn thấy một chiếc bàn giấy gỗ mun kích thước khá lớn, hoàn toàn trống không. Rồi anh giật bắn người khi quầng sáng tụ lại tại một chỗ, và cuối cùng anh nhìn thấy cô ta . Ngồi sau chiếc bàn giấy là một phụ nữ cao lớn, xinh đẹp, nước da ôliu với đường nét của người Tây Ban Nha, vận một chiếc váy rủ dài màu tối. Cô ta ngồi thẳng và uy nghi như một quan tòa tối cao. Hình ảnh cô ta choáng ngợp đến nín thở.

“Cô ấy đẹp thật,” anh nghĩ bụng. “Tất cả những gì mà sự gợi cảm có thể mang lại, nhưng vượt trên cả điều đó.” Trong ánh sáng mờ thật khó nhìn thấy khuôn mặt cô ta, vì tóc và váy áo đã lẫn vào dung nhan của cô. Ánh mắt cô sáng long lanh như thể đó là cổng vào trong bao la của bầu trời sao đêm, phản ánh một thứ nguồn sáng bí hiểm từ bên trong.

Anh không dám lên tiếng, e rằng giọng mình sẽ bị nuốt mất trong bầu không khí mãnh liệt của căn phòng đang chú mục vào cô. Anh nghĩ bụng: “Mình là chú chuột Mickey sắp sửa nói chuyện với Pavarotti.” Ý nghĩ ấy làm anh mỉm cười. Như thể chia sẻ chút thú vị bởi nét kệch cỡm của hình ảnh đó, cô ta cười với anh, và khung cảnh chợt sáng bừng lên. Chỉ cần có thế để Mack hiểu rằng anh được mong chờ và chào đón tại đây. Cô ấy trông quen thuộc một cách lạ kỳ, như thể anh đã từng biết hay thoáng nhìn thấy đâu đó trong quá khứ, chỉ có điều anh biết mình chưa bao giờ thật sự gặp gỡ hay nhìn thấy cô.

“Cho phép tôi, tôi xin phép hỏi... cô là ai?” Mack ấp úng, anh thấy giọng mình vang lên từng chút như Mickey, hầu như chẳng để lại chút ấn tượng nào trong cái tĩnh lặng của căn phòng, nhưng rồi cứ lảng vảng như chiếc bóng của tiếng dội.

Cô không màng đến câu hỏi của anh. “Anh có biết vì sao anh có mặt ở đây không?” Như một ngọn gió quét sạch bụi bặm, giọng cô nhẹ nhàng lùa câu hỏi của anh ra khỏi phòng. Mack như cảm nhận được từng lời của cô như mưa rơi xuống đầu mình rồi tan chảy vào sống lưng, truyền đi cảm giác râm ran dễ chịu khắp người. Anh chỉ muốn cô nói chuyện, nói chuyện với anh hay với bất cứ ai, chừng nào anh còn hiện diện. Nhưng cô chờ đợi.

“Cô biết không,” anh nói một cách trầm lặng, giọng anh đột nhiên ấm và vang đến độ Mack suýt ngoái nhìn phía sau lưng mình xem ai đã nói. Rồi anh hiểu rằng những gì anh nói là sự thật... nó sẽ vang lên như thế. “Tôi không biết nữa,” anh nói tiếp, lại ấp úng và chuyển ánh mắt xuống sàn. “Chẳng ai nói cho tôi biết.”

“Mackenzie Allen Phillips,” cô cười, khiến anh ngẩng phắt lên. “Tôi ở đây để giúp anh mà.” Nếu cầu vồng có âm thanh, và hoa lá cũng vậy thì đó là âm thanh tiếng cười của cô. Một cơn mưa ánh sáng, một lời mời trò chuyện, và Mack cười cùng cô, thậm chí cũng chẳng biết hay chẳng màng đến lý do.

Rồi lại đến một khoảng im lặng và gương mặt cô, mặc dù vẫn dịu dàng, bỗng rực lên mạnh mẽ, như thể cô có thể nhìn thấu nội tâm của anh, vượt qua vẻ bề ngoài và diện mạo, đến chạm xuống đến những vùng hiếm khi, nếu có, được nói đến.

“Hôm nay là một ngày rất hệ trọng với những hệ quả hệ trọng.” Cô ngưng lại, như thể để tiếp thêm sức nặng cho những lời nói vốn đã nghiêm trang. “Mackenzie, anh đến đây một phần vì các con anh, nhưng anh cũng đến đây vì...”

“Các con tôi?” Mack ngắt lời. “Cô nói sao, tôi đến đây vì các con tôi?”

“Mackenzie, anh thương yêu các con anh theo một cách mà chính cha anh cũng chưa bao giờ có được với anh và các em gái của anh.”

“Dĩ nhiên tôi yêu các con tôi. Cha mẹ nào cũng yêu con,” Mack quả quyết. “Nhưng điều đó thì có liên quan gì đến lý do tôi đến đây?”

“Về một nghĩa nào đó cha mẹ nào cũng yêu con cái,” cô đáp, không màng đến câu hỏi thứ hai của anh. “Nhưng một số cha mẹ quá đau khổ nên không thể thương yêu con cái một cách tử tế và những bố mẹ khác thì gần như không thể thương yêu con cái được, anh phải hiểu điều đó. Nhưng anh, anh thì yêu các con một cách tử tế - rất tử tế.”

“Tôi đã học phần nhiều từ Nan.”

“Chúng tôi biết. Nhưng anh đã học hỏi được, đúng không?”

“Tôi nghĩ là vậy.”

“Trong số các bí ẩn của một nhân tính đau khổ, đó cũng là điều khá đặc biệt; học hỏi, cho phép thay đổi.” Cô trầm tĩnh như biển cả lặng gió. “Vậy thì, Mackenzie, tôi muốn hỏi, anh yêu đứa nào nhất trong các con của anh?”

Mack mỉm cười trong lòng. Khi bọn trẻ ra đời, anh đã từng vắt óc để trả lời chính câu hỏi này. “Tôi không yêu bất kỳ đứa nào hơn những đứa khác cả. Tôi yêu mỗi đứa chúng nó một cách khác nhau,” anh nói, chọn lựa ngôn từ một cách cẩn trọng.

“Hãy giải thích điều đó cho tôi, Mackenzie,” cô hỏi một cách quan tâm.

“Mỗi đứa con của tôi là độc nhất vô nhị. Và sự độc nhất và nhân vị đặc biệt ấy khơi gợi một hồi ức độc nhất vô nhị từ tôi.” Mack dựa người vào ghế. “Tôi còn nhớ sau khi Jon, con đầu lòng của tôi, ra đời. Tôi say sưa tự hỏi không biết nhân sinh bé nhỏ ấy thực chất là ai đến độ tôi thật sự lo lắng không biết có còn lại chút tình yêu nào dành cho đứa con thứ hai hay không. Nhưng rồi Tyler ra đời, cứ như thể nó đến và mang theo một tặng ân đặc biệt cho tôi, trọn vẹn một năng lực mới để thương yêu nó một cách đặc biệt. Nghĩ đến điều đó lại nhớ đến Papa nói Ngài đặc biệt yêu thích một ai đó. Khi nghĩ đến từng đứa con của mình, tôi thấy mình yêu mến đặc biệt từng đứa một.”

“Hay lắm, Mackenzie!” Lời của cô lộ rõ sự cảm kích nhưng rồi cô hơi chồm người về phía trước, giọng vẫn dịu dàng nhưng nghiêm trang. “Nhưng rồi chuyện gì xảy ra khi chúng hành xử, hoặc có những sự lựa chọn nằm ngoài những gì anh muốn ở chúng, hay chúng trở nên đối chọi và ngỗ nghịch? Nếu chúng làm anh bẽ mặt trước mặt người ngoài thì sao? Điều đó ảnh hưởng thế nào đến tình yêu của anh dành cho chúng?”

Mack đáp chậm rãi và thận trọng. “Chẳng hề, thật sự đấy.” Anh biết rằng điều mình đang nói là thật, cho dù Katie đôi lúc không tin. “Tôi công nhận là điều đó có tác động đến tôi và đôi khi tôi cũng khó xử và tức giận, nhưng ngay cả lúc hành xử tệ thì chúng vẫn là con trai, con gái tôi, chúng vẫn là Josh hay Kate, và chúng vẫn sẽ là như thế mãi mãi. Hành động của chúng có thể tác động đến lòng tự tôn của tôi nhưng với tình yêu của tôi dành cho chúng thì không.”

Cô dựa người và tươi cười. “Anh thật thấu hiểu về tình yêu đích thực, Mackenzie. Cho nên nhiều người tin rằng chính tình yêu nảy nở, nhưng chính sự hiểu biết mới nảy nở và tình yêu chỉ lớn dậy để hàm chứa nó. Tình yêu chỉ là cái vỏ của sự hiểu biết. Mackenzie, anh yêu các con anh, những đứa con mà anh hiểu rất rõ, với một tình yêu tuyệt vời và chân thực.”

Hơi chút ngượng ngịu trước lời khen của cô, Mack cúi xuống. “Cám ơn, nhưng tôi như thế với rất nhiều người khác đâu. Tình yêu của tôi hầu hết mọi lúc thường mang tính điều kiện khá rõ.”

“Nhưng đó là một sự khởi đầu, đúng không, Mackenzie? Và anh đã không một thân một mình vượt qua sự bất lực của cha anh, chính Chúa và anh đã cùng nhau thay đổi anh để anh yêu thương như thế này. Và bây giờ anh yêu thương các con rất nhiều theo cách Cha yêu thương con mình.”

Mack cảm nhận được hàm của mình tự dưng nghiến chặt trong lúc lắng nghe, và anh cảm nhận được cơn tức giận một lần nữa bắt đầu trỗi dậy. Ngôn từ của một lời tán tụng động viên lại trở nên dường như giống một viên thuốc đắng mà anh giờ đây không muốn nuốt. Anh cố thư giãn để trấn tĩnh cảm xúc, nhưng nhìn vào ánh mắt của cô, anh biết đã quá trễ.

“Ưm...,” cô đăm chiêu. “Có điều gì tôi nói đã làm anh phiền lòng, Mackenzie?” Ánh mắt của cô giờ đây làm anh khó chịu. Anh cảm thấy bị phanh phui.

“Mackenzie?” cô động viên. “Anh có điều gì muốn nói không?”

Sự im lặng sau câu hỏi của cô giờ đây lắng đọng trong không trung. Mack tranh đấu để lấy lại sự điềm tĩnh. Anh nghe được cả tiếng mẹ mình khuyên bảo trong tai: “Nếu con không có điều gì hay ho để nói thì tốt hơn đừng nói gì cả.”

“Ờ... không! Không có gì.”

“Mackenzie,” cô khơi gợi, “đây không phải là lúc để nói theo lời mẹ. Đây là thời điểm của sự thành thật, của chân lý. Anh không tin là người Cha thương yêu các con mình rất mực phải không? Anh không thật lòng tin Chúa nhân lành, đúng không?”

“Missy có phải con Ngài không?” Mack bật lại.

“Dĩ nhiên!” cô trả lời.

“Vậy thì, không!” anh buột miệng, đứng phắt dậy. “Tôi không tin rằng Chúa yêu thương tất cả con cái của Ngài rất mực.”

Anh đã nói ra điều đó, và giờ đây lời cáo buộc của anh vang vọng khắp các bức tường quanh căn phòng. Trong khi Mack đứng đó, tức giận và chực bùng nổ, người phụ nữ vẫn trầm tĩnh và không thay đổi thái độ. Cô từ từ đứng dậy khỏi chiếc ghế lưng cao, di chuyển một cách lặng lẽ ra phía sau và ra hiệu cho anh tiến về phía ghế. “Anh ngồi đây đi.”

“Sự chân thành đem lại cho cô cảm giác đó à, chiếc ghế điện?” anh lẩm bẩm một cách mỉa mai, nhưng không nhúc nhích, chỉ nhìn đáp lại cô.

“Mackenzie.” Cô vẫn đứng sau chiếc ghế. “Lúc nãy, tôi đã bắt đầu nói với anh lý do tại sao anh đến đây ngày hôm nay. Anh đến đây không chỉ vì các con anh, mà anh đến đây vì sự phán xét.”

Khi ngôn từ ấy vang dội trong căn phòng, sự hoảng loạn bắt đầu trỗi dậy trong Mack như một cơn sóng dâng và từ từ anh chìm vào trong chiếc ghế của mình. Ngay lập tức anh cảm thấy tội lỗi, khi ký ức tràn khỏi tâm trí như lũ chuột chạy trốn nước lụt. Anh bám chắc tay vịn chiếc ghế, cố tìm sự thăng bằng trong những hình ảnh và cảm xúc đang công kích mãnh liệt. Những sự thất bại của anh trong địa vị một con người đột nhiên hiển hiện to lớn, và trong tâm trí anh như nghe thấy được cả một giọng nói kể lể hàng loạt tội trạng của anh, nỗi khiếp sợ càng choáng ngợp khi danh sách ấy cứ dài ra mãi. Anh vô phương tự vệ. Anh thất bại và anh biết điều đó.

“Mackenzie?” cô mở lời, nhưng bị anh cắt ngang.

“Giờ thì tôi hiểu. Tôi chết rồi, đúng không? Đó là lý do tôi có thể nhìn thấy Jesus và Papa, tôi đã chết rồi.” Anh ngồi dựa người và nhìn lên khoảng tối, cảm thấy nôn nao trong bụng. “Tôi không ngờ. Tôi thậm chí chẳng cảm nhận được điều gì cả.” Anh nhìn người phụ nữ đang kiên nhẫn theo dõi mình. “Tôi chết bao lâu rồi?” anh hỏi.

“Mackenzie,” cô bắt đầu nói, “Tôi xin lỗi đã làm anh thất vọng, nhưng anh chưa nằm xuống trong thế giới của anh đâu, và tôi tin rằng anh đã...” Một lần nữa, Mack lại ngắt lời cô.

“Tôi chưa chết à?” Giờ thì anh hoài nghi và lại đứng dậy. “Ý cô là tất cả khung cảnh này đều thật và tôi còn sống? Nhưng tôi tưởng cô nói tôi đến đây để được phán xét?”

“Tôi có nói,” cô khẳng định lại, một nét thích thú trên gương mặt. “Nhưng, Macken...”

“Phán xét? Mà tôi thì chưa chết?” Lần thứ ba anh ngắt lời cô, bám lấy những gì nghe được, cơn tức giận đã thay cho nỗi sợ hãi. “Thế này thật chẳng công bằng!” Anh biết cảm xúc của mình chẳng giúp gì được. “Chuyện này có xảy đến với người khác không - ý tôi là chưa chết mà đã bị phán xét? Nếu tôi thay đổi thì sao? Nếu tôi sống cuộc đời còn lại tốt đẹp hơn thì sao? Nếu tôi ăn năn? Thì sao?”

“Có điều gì anh muốn ăn năn không, Mackenzie?” cô hỏi, không hề bối rối trước cơn bộc phát của anh.

Mack từ từ ngồi xuống. Anh nhìn xuống sàn nhà nhẵn nhụi rồi lắc đầu trước khi trả lời. “Tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu,” anh ấp úng. “Tôi làm rối quá, phải không?”

“Đúng vậy.” Mack nhìn lên và cô mỉm cười đáp lại. “Anh là một sự rối rắm ngỗ nghịch đầy thú vị, Mackenzie, nhưng anh đến đây không phải đến ăn năn, ít nhất là theo cách hiểu của anh. Mackenzie, anh đến đây không phải để bị phán xét.”

“Nhưng,” anh lại ngắt lời. “Tôi tưởng cô nói rằng tôi...”

“...đến đây để bị phán xét?” Cô vẫn giữ sự điềm nhiên và trầm tĩnh như một ngọn gió mùa hè khi nói nốt câu hỏi của anh. “Tôi đã nói. Nhưng anh không bị phán xử tại đây.”

Mack hít một hơi sâu, nhẹ người nghe những lời của cô.

“Anh sẽ là Người phán xét!”

Cơn nôn nao trong bụng anh quay trở lại khi anh nhận ra những lời cô nói. Rốt cục, anh hạ ánh mắt xuống chiếc ghế vẫn chờ đợi anh. “Cái gì? Tôi? Tôi chẳng muốn,” anh dừng lại. “Tôi không có khả năng gì để phán xét cả.”

“Ồ, đúng vậy,” câu đáp bật lại thật nhanh, pha lẫn chút châm biếm. “Anh đã chứng tỏ bản thân mình rất có năng lực, thậm chí trong khoảng thời gian ngắn ngủi chúng ta gặp nhau. Vả lại, anh đã từng phán xét nhiều người trong suốt cuộc đời mình. Anh đã từng phán xét hành vi và thậm chí cả động cơ của người khác, như thể anh có cách biết được cái gì thuộc về chân lý. Anh đã phán xét màu da, cử chỉ và mùi của cơ thể. Anh đã phán xét quá trình và các mối quan hệ. Anh thậm chí đã phát xét cả giá trị cuộc sống của một con người bằng chất lượng của sự nhận thức của anh về cái đẹp. Nói tóm lại, anh hoàn toàn rất thành thạo về hành vi này.”

Mack cảm thấy ngượng đỏ mặt. Anh phải công nhận rằng mình đã từng vô số lần phán xét trong đời. Nhưng anh có khác gì hơn bất kỳ ai khác đâu? Ai mà không vội kết luận về người khác từ ấn tượng họ mang lại cho mình. Rồi cũng trở lại chuyện đó - nhãn quan duy kỷ của anh về thế giới quanh mình. Anh nhìn lên và thấy cô đang nhìn anh chăm chú và anh lại nhìn xuống.

“Nói tôi nghe đi,” cô yêu cầu, “tôi muốn hỏi, anh dựa trên những tiêu chí gì để đưa ra các phán xét của mình?”

Mack nhìn lên và cố gắng nhìn đáp lại ánh mắt của cô, nhưng cảm thấy rằng mỗi khi anh nhìn trực diện vào cô thì ý nghĩa của anh lại nao núng. Vừa nhìn vào mắt cô vừa giữ được luồng tư tưởng mạch lạc và hợp lý dường như là điều bất khả. Anh phải tránh đi và nhìn vào khoảng tối của góc phòng, hy vọng trấn tĩnh được mình.

“Lúc này dường như chẳng có điều gì mang ý nghĩa cho lắm,” rốt cục anh thú nhận, giọng ngập ngừng. “Tôi phải thú nhận rằng mỗi khi đi đến những phán xét như vậy tôi cảm thấy hoàn toàn chính đáng, nhưng giờ đây...”

“Dĩ nhiên rồi.” Cô nói điều đó như một lời khẳng định, như một chuyện thường tình; chứ không hề mảy may đùa cợt với sự ngượng nghịu và buồn rầu hiển hiện của anh. “Sự phán xét đòi hỏi ta nghĩ về mình cao hơn kẻ mà ta phán xét. Hôm nay anh sẽ được trao cho cơ hội tận dụng mọi khả năng của mình. Nào,” cô nói, vỗ lên lưng chiếc ghế, “tôi muốn anh ngồi đây. Ngay lúc này.”

Dè dặt nhưng tuân phục, anh bước về phía cô và chiếc ghế đang chờ đợi. Mỗi bước đi anh dường như thấy mình nhỏ lại hay cả hai đều lớn lên, anh chẳng biết được. Anh lê người ghế và cảm thấy mình thật trẻ con với chiếc mặt bàn khổng lồ trước mặt và đôi bàn chân anh thì chẳng chạm đất. “Thế... tôi sẽ phán xét cái gì đây?” anh hỏi, xoay sang ngước nhìn cô.

“Không phải là cái gì.” Cô ngừng lại và nhích sang đứng cạnh chiếc bàn. “Mà là ai.”

Sự bất ổn trong anh bùng lên ngồn ngộn, và cảm giác ngồi trong chiếc ghế vương giả kềnh càng này lại càng làm anh khó chịu. Anh có quyền gì mà phán xét một ai? Chắc chắn, trong giới hạn nào đó hẳn là anh đã tội lỗi trong việc phán xét hầu hết những ai anh đã gặp và nhiều người mà anh chưa gặp. Mack biết anh hoàn toàn tội lỗi về việc duy kỷ. Làm sao anh dám phán xét một ai? Mọi lời phán xét của anh đều thiển cận, dựa trên hình thức và hành vi, những thứ dễ dàng diễn giải bởi bất kỳ thái độ hay thành kiến nào phục vụ cho mục đích tự đề cao, hay để cảm thấy an tâm hay lệ thuộc. Anh cũng biết rằng mình bắt đầu hoảng sợ.

“Trí tưởng tượng của anh,” cô ngắt dòng suy nghĩ của anh, “không giúp được đắc lực cho anh trong lúc này.”

“Đừng đùa, Sherlock,” là ý nghĩ trong đầu anh, nhưng anh chỉ thốt ra khỏi miệng một cách yếu ớt, “tôi thật không làm được việc này đâu.”

“Việc anh làm được hay không được chưa thể xác định được,” cô vừa nói vừa cười. “Và tên tôi cũng không phải là Sherlock.”

Mack biết ơn căn phòng tăm tối đã che giấu sự ngượng ngùng của anh. Anh như bị cầm tù trong khoảng im lặng tiếp theo sau đó mà thực chất chỉ kéo dài mấy giây để anh thốt lên được câu hỏi:

“Vậy là tôi phải phán xét ai đây?”

“Chúa,” cô dừng lại, “và nhân loại.” Cô nói ra điều đó như thể chẳng có gì quan trọng. Ngôn từ cứ tuôn ra từ miệng cô, như thể đó là chuyện hằng ngày.

Mack lặng người. “Chắc cô đùa!” anh thốt lên.

“Tại sao không? Chắc chắn có nhiều người trong thế giới của mình mà anh nghĩ là đáng để phán xét. Chắc chắn có ít nhất một vài kẻ phải chịu trách nhiệm với quá nhiều đau đớn và khổ sở như vậy? Những kẻ tham lam bóc lột người nghèo trên thế giới? Những kẻ hy sinh con em mình cho chiến tranh? Còn những gã đàn ông bạo hành với vợ thì sao, Mackenzie? Lại còn những người cha đánh đập con trai mình vô cớ để khuây khỏa những khổ sở phải gánh chịu? Họ không đáng bị phán xét sao, Mackenzie?”

Mack cảm nhận được những tầng sâu của cơn thịnh nộ đầy khúc mắc đang dâng lên như thác lũ cuồng điên. Anh chìm sâu vào chiếc ghế cố trấn tĩnh trước bao hình ảnh ập đến dồn dập, nhưng thấy sự tự chủ của mình trôi xa. Bụng anh cồn lên trong khi tay nắm chặt, hơi thở dồn dập và hổn hển.

“Rồi còn kẻ rình rập những bé gái thơ ngây thì sao? Còn hắn thì sao, Mackenzie? Kẻ đó có tội không? Hắn có đáng bị phán xét không?”

“Có!” Mack thét lên. “Cho nó xuống địa ngục đi!”

“Hắn có phải chịu trách nhiệm về mất mát của anh không?”

“Có!”

“Rồi còn bố hắn, người đã gây ra cho hắn một nỗi khiếp sợ, ông ta thì sao?”

“Có, cả lão nữa!”

“Rồi chúng ta truy nguyên đến khi nào, Mackenzie? Di sản khổ đau này bắt nguồn từ thời Adam, còn ông ấy thì sao? Nhưng tại sao lại dừng tại đó? Còn Chúa thì sao? Chúa đã khởi đầu mọi chuyện. Chúa có đáng trách không?”

Mack đang quay cuồng. Anh chẳng thấy mình giống một vị quan tòa chút nào cả, mà giống đang bị xét xử hơn.

Người phụ nữ không nương nhẹ. “Lẽ nào anh lại bế tắc tại đây, Mackenzie? Lẽ nào đây là sự hun đúc nỗi đau ? Chúa có thể trông cậy được không? Chắc chắn, một người cha như anh có quyền phán xét Chúa Cha!”

Một lần nữa cơn giận của anh lại bùng lên như lửa ngọn. Anh muốn quật lại nhưng cô nói đúng và không có lý lẽ nào để bác bỏ.

Cô nói tiếp: “Chẳng phải đó là lời than trách chính đáng của anh sao, Mackenzie? Rằng Chúa đã phụ bạc anh, rằng ngài đã phụ Missy? Rằng trước cả Sáng thế, Chúa biết một ngày kia Missy sẽ bị hãm hại, thế mà Ngài vẫn tạo dựng? Rồi Ngài cho phép sinh linh bệnh hoạn ấy cướp đoạt đứa bé từ vòng yêu thương của anh trong khi Ngài có quyền năng để ngăn chặn hắn. Chúa không đáng trách sao Mackenzie?”

Mack vẫn nhìn xuống sàn nhà, cơn giông tố của hình ảnh giằng lôi cảm xúc của anh đi tứ phía. Rốt cục, anh nói ra, lớn giọng hơn anh dự định, và chỉ thẳng ngón tay về phía cô.

“Đúng! Chúa đáng trách!” Lời cáo buộc cheo leo trong căn phòng trong chiếc búa tạ giáng xuống tim anh.

“Thế thì,” cô nói một cách dứt khoát, “nếu anh có thể phán xét Chúa một cách dễ dàng như thế, thì rõ ràng anh có thể phán xét thế giới.” Một lần nữa cô nói không chút cảm xúc. “Anh phải chọn hai đứa trong số các con anh để hưởng sự sống đời đời ở thiên đàng mới và địa cầu mới của Chúa, nhưng chỉ hai đứa thôi.”

“Cái gì?” anh thốt lên, xoay nhìn cô trong sự hoài nghi.

“Và anh phải chọn ba đứa con anh để sống đời đời trong hỏa ngục.”

Mack không tin được những gì mình đang nghe và bắt đầu hoảng sợ.

“Mackenzie.” Giọng cô giờ đây trầm tĩnh và thú vị như lúc đầu anh nghe thấy. “Tôi chỉ yêu cầu anh làm một việc mà anh tin rằng Chúa làm. Ngài biết mỗi con người sinh ra, và Ngài biết họ sâu xa và tỏ tường hơn nhiều so với anh biết về con cái mình. Ngài yêu mỗi con người theo sự hiểu biết về bản thể của đứa con trai hay con gái đó. Anh tin rằng ngài sẽ xử phạt hầu hết bọn họ một sự sống đời đời khổ đau, rời xa khỏi sự hiện hữu của Ngài và tách biệt khỏi tình yêu của Ngài. Có đúng vậy không?”

“Chắc là như vậy. Tôi chưa bao giờ suy nghĩ về điều đó theo cách này.” Ngôn từ của anh loạng choạng trong cơn choáng sốc. “Tôi chỉ đinh ninh rằng thế nào Chúa cũng làm được điều đó. Nói đến địa ngục thì thật ra lúc nào cũng là nói một cách trừu tượng chứ không phải nói đến một ai đó mà tôi thật sự...” Mack ngập ngừng, nhận ra rằng điều mình sắp nói thật là tệ, “không phải một ai đó mà tôi thật sự quan tâm.”

“Vậy là anh cho rằng Chúa làm chuyện này một cách dễ dàng còn anh thì không thể? Nào, Mackenzie. Ba đứa con nào của anh sẽ phải bị kết án xuống địa ngục? Kate đang đối nghịch lại với anh nhiều nhất hiện nay. Con bé cư xử tệ với anh và nói với anh những lời gây tổn thương. Có lẽ con bé là sự lựa chọn đầu tiên và hợp lý nhất. Đúng không nào? Anh là quan tòa, Mackenzie và anh phải lựa chọn.”

“Tôi không muốn làm quan tòa,” anh nói và đứng dậy. Tâm trí Mack đang nháo nhào. Không thể nào thật sự có chuyện này. Làm sao Chúa lại bắt anh chọn lựa trong số các con của mình? Không có cách gì anh lại kết tội Katie, hay bất kỳ đứa con nào khác của mình, phải sống đời đời trong hỏa ngục bởi vì nó đã phạm tội với mình. Cho dù Katie hay Josh hay Jon hay Tyler phạm tội tày đình, anh cũng sẽ không làm thế. Anh không thể! Với anh, không phải là chuyện hành vi của chúng, mà là tình yêu của anh dành cho chúng.

“Tôi không làm được việc này đâu,” anh nói nhẹ giọng.

“Anh phải làm,” cô đáp.

“Tôi không làm được việc này đâu,” anh nói lớn hơn và cả quyết hơn.

“Anh phải làm,” cô nhắc lại, giọng dịu dàng hơn.

“Tôi... sẽ... không... làm... việc... này!” Mack hét lên, máu nóng sôi lên trong người anh.

“Anh phải làm,” cô thì thầm.

“Không được. Không được mà. Tôi không làm đâu!” Anh thét lên, và giờ đây ngôn từ cùng cảm xúc nhào tuôn ra ngoài. Người phụ nữ chỉ đứng nhìn và chờ đợi. Rốt cục anh nhìn cô, ánh mắt khẩn khoản. “Tôi đi được không? Nếu cô cần một ai đó để đày đọa đời đời thì tôi sẽ thế chỗ họ. Có được không? Vậy có được không?” Anh sụp xuống dưới chân cô, giờ thì khóc lóc và nài nỉ. “Làm ơn cho tôi về với các con tôi, làm ơn, tôi sẽ rất vui mừng... Làm ơn, tôi năn nỉ mà. Làm ơn đi... làm ơn.”

“Mackenzie, Mackenzie,” cô thì thầm, và lời cô vang lên như một làn nước mát trong một ngày nóng bỏng. Đôi bàn tay cô dịu dàng chạm lên má anh và nâng anh đứng dậy. Nhìn cô qua làn nước mắt, anh thấy nụ cười của cô rạng rỡ. “Giờ thì anh nói giống Jesus rồi đó. Anh đã phán xét tuyệt vời, Mackenzie. Tôi rất hãnh diện về anh!”

“Nhưng tôi chưa phán xét gì cả,” Mack bối rối chống chế.

“Ồ, anh đã làm rồi. Anh đã phán xét rằng chúng xứng đáng được yêu thương, cho dù anh phải trả bất kỳ giá nào. Đó là cách Jesus yêu thương.” Khi nghe thấy những từ ấy anh nghĩ đến người bạn mới của mình đang chờ bên bờ hồ. “Còn bây giờ thì anh hiểu lòng của Papa,” cô nói thêm, “người yêu thương tất cả con cái mình vẹn toàn.”

Ngay lập tức hình ảnh của Missy lóe lên trong tâm trí anh và anh thấy mình bừng giận. Không chút suy nghĩ, anh ngồi lại vào ghế.

“Điều gì vừa xảy ra, Mackenzie?” cô hỏi.

Anh thấy giấu giếm chẳng có lợi gì. “Tôi hiểu tình yêu của Jesus, nhưng Chúa là một chuyện khác. Tôi thấy không hề giống nhau.”

“Anh không thích khoảng thời gian bên Papa sao?” cô hỏi đầy ngạc nhiên.

“Không, tôi yêu Papa, dù Ngài là ai. Ngài tuyệt vời, nhưng Ngài chẳng giống chút nào với Chúa mà tôi đã biết.

“Có lẽ sự hiểu biết của anh về Chúa là sai.”

“Có lẽ. Có điều tôi không thấy Chúa yêu thương Missy vẹn toàn ra sao.”

“Vậy là lại phán xét tiếp?” cô nói bằng giọng có pha âm sắc buồn.

Điều đó làm Mack khựng lại, nhưng chỉ trong giây lát. “Tôi phải suy nghĩ điều gì đây? Tôi chỉ không hiểu được làm sao Chúa có thể yêu thương Missy mà lại để nó phải đi qua nỗi kinh hoàng đó. Nó vô tội. Nó chẳng làm điều gì để đáng phải gánh chịu điều đó.”

“Tôi biết.”

Mack cứ nói tiếp: “Có phải Chúa đã dùng con bé để trừng phạt tôi về những điều tôi đã làm với cha tôi? Như vậy là không công bằng. Nó không đáng phải chịu chuyện này. Nan không đáng phải chịu chuyện này.” Nước mắt tuôn trào. “Tôi thì có thể, nhưng mẹ con nó thì không.”

“Có phải đó là Chúa của anh không, Mackenzie? Thảo nào anh chìm đắm trong nỗi trầm thống. Papa không phải như thế, Mackenzie. Ngài không trừng phạt anh, hay Missy, hay Nan. Đây không phải là việc ngài làm.”

“Nhưng Ngài đã không ngăn chặn nó.”

“Không, Ngài đã không làm. Ngài không ngăn chặn rất nhiều chuyện đem đến cho Ngài đau khổ. Thế giới của con người đang khổ đau cùng cực. Con người đòi hỏi được độc lập, và giờ đây con người lại tức giận với người đã thương yêu mình đến độ trao nó cho mình. Chẳng có điều gì được như nguyện, được như Papa mong muốn, và được như tự thân nó trong tương lai. Ngay bây giờ thế giới của con người đã lạc lối trong tăm tối và hỗn mang, và những chuyện khủng khiếp đang xảy đến với những con người mà Ngài rất mực yêu mến.”

“Vậy thì tại sao ngài không làm gì đi?”

“Ngài đã làm...”

“Cô nói rằng Jesus đã làm?”

“Anh không thấy những vết thương trên người Papa sao?”

“Tôi không hiểu những vết đó. Làm sao Ngài...”

“Vì tình yêu. Ngài đã chọn phương cách của thập tự giá nơi lòng nhân từ chiến thắng công lý bởi vì tình yêu. Anh có muốn Ngài chọn công lý cho mọi người không? Anh có muốn công lý không, ‘Ngài Chánh án’?” và cô vừa nói vừa mỉm cười.

“Không, tôi không muốn,” anh nói và cúi đầu xuống. “Tôi thì không, các con tôi thì không.”

Cô chờ đợi.

“Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao Missy phải chết.”

“Cô bé không bắt buộc như thế, Mackenzie. Đây không phải là dự định của Papa. Papa chẳng bao giờ cần đến cái ác để hoàn thành những mục đích tốt đẹp của mình. Chính con người mới theo đuổi cái ác và Papa đã đáp lại bằng nhân lành. Chuyện đã xảy đến cho Missy là hành vi xấu xa và không ai trong thế giới con người được miễn nhiễm với nó.”

“Nhưng nỗi đau quá lớn. Phải có một cách nào khác chứ.”

“Có. Có điều bây giờ anh không thể nhìn thấy. Hãy lìa bỏ sự độc lập để quay về, Mackenzie. Hãy thôi làm kẻ phán xét để hiểu biết bởi chính bản thể của Ngài. Khi ấy anh sẽ có được tình yêu của Ngài ngay trong nỗi đau, thay vì xua đuổi Ngài bằng nhận thức duy kỷ của mình về quy luật của vũ trụ. Papa đã phải quị lụy trong thế giới của anh để được ở bên cạnh anh, bên cạnh Missy.”

Mack đứng dậy. “Tôi không muốn làm một kẻ phán xét nữa. Tôi thật lòng muốn tin cậy Papa.” Mack không nhận thấy, căn phòng lại sáng lên khi anh đi quanh bàn để đến bên chiếc ghế nơi mọi chuyện bắt đầu. “Nhưng tôi sẽ cần đến sự trợ giúp.”

Cô giang tay ôm lấy Mack. “Giờ thì nghe như bắt đầu một cuộc trở về rồi đó, Mackenzie. Chắc chắn rồi.”

Sự yên ắng của hang động chợt bị phá tan bởi tiếng trẻ con cười. Hình như nó phát ra từ một trong các bức tường, mà giờ đây Mack có thể nhìn thấy rõ khi căn phòng tiếp tục sáng lên. Khi anh nhìn về hướng ấy, bề mặt đá ngày càng trở nên trong suốt và ánh sáng ban ngày xuyên vào trong hang. Giật mình, Mack nhìn xuyên qua màn sương mờ và rốt cục nhận ra bóng dáng lờ mờ của trẻ em đang vui chơi đằng xa.

“Nghe tiếng như mấy đứa nhỏ của tôi!” Mack thốt lên, miệng há hốc vì ngạc nhiên. Anh tiến về phía bức tường, màn sương tách ra như thể ai đó kéo một bức màn và anh bất ngờ nhìn ra một cánh đồng cỏ, hướng về phía hồ. Trước mặt anh là lờ mờ những ngọn núi cao tuyết phủ, rất mực uy nghi, phủ dày những cánh rừng. Và nép mình dưới chân những ngọn núi, anh nhìn thấy rõ căn chòi, nơi anh biết Papa và Sarayu đang chờ anh. Một dòng suối lớn từ đâu đó đang tuôn trào, ngay trước mặt anh, và chảy xuống hồ dọc theo những cánh đồng hoa cỏ miền cao. Tiếng chim hót khắp nơi và hương ngọt mùa hè thơm nồng trong không trung.

Toàn bộ cảnh vật này Mack nhìn thấy, nghe thấy và ngửi thấy trong một khoảnh khắc, nhưng rồi ánh mắt anh bị hút vào sự chuyển động, vào nhóm trẻ đang chơi dọc một xoáy nước cách nơi dòng suối chảy vào hồ chưa đầy năm mươi bộ. Anh thấy các con mình ở đó - Jon, Tyler, Josh và Kate. Nhưng kìa! Còn một đứa nữa!

Anh kinh ngạc há hốc, cố chú mục hơn nữa. Tiến về phía chúng, anh đẩy vào một lực vô hình như thể một bức tường đá vẫn còn đang tàng hình trước mặt mình. Rồi hình ảnh trở nên rõ rệt. “Missy!” Cô bé đang ở đó, chân trần đá nước tung tóe. Như thể nghe thấy anh, Missy tách khỏi nhóm và lao xuống lối mòn dẫn thẳng đến trước mặt anh.

“Ôi Chúa ơi! Missy!” anh hét lên và cố gắng tiến lên, vượt qua bức màn ngăn cách họ. Trong sự kinh ngạc, anh va phải một lực không cho phép anh tiến đến gần hơn, như thể một lực từ tính gia tăng theo hướng ngược lại với nỗ lực của anh, làm anh chệch trở lại căn phòng.

“Cô bé không nghe thấy anh được đâu.”

Mack không quan tâm. “Missy!” anh thét lên. Cô bé quá gần. Ký ức mà bấy lâu nay anh cố gắng biết bao để không đánh mất nhưng cứ từ từ trôi đi thì giờ đây lại hiện về. Anh tìm một thứ gì đó để níu, như thể anh có thể bật tung bất kỳ một thứ gì đó để tìm lối xông đến chỗ con gái mình. Nhưng chẳng có thứ gì cả.

Trong khi ấy, Missy đã đến và đứng ngay trước mặt anh. Ánh mắt cô bé rõ ràng không nhìn họ, mà nhìn vào một thứ gì đó giữa họ, lớn hơn và rõ ràng hiển hiện với mình nhưng anh không nhìn thấy.

Cuối cùng Mack đành thôi cưỡng lại trường lực ấy và xoay nghiêng về phía người phụ nữ. “Nó có thể thấy tôi không? Nó có biết tôi đang ở đây không?” anh hỏi một cách tuyệt vọng.

“Nó biết anh đang ở đây, nhưng nó không thể thấy anh. Từ phía ấy, nó đang nhìn vào thác nước tươi đẹp và không còn gì khác. Nhưng nó biết anh đang ở đằng sau đó.”

“Thác nước!” Mack thốt lên, cười một mình. “Nó chẳng bao giờ biết chán thác nước!” Giờ thì Mack chú tâm vào cô bé, cố gắng nhớ lại từng chi tiết của nét mặt với tóc và đôi bàn tay. Trong lúc ấy, gương mặt Missy nở tung một nụ cười rạng rỡ, lộ rõ các lúm đồng tiền. Cử động thật chậm, cô khuếch đại những cử chỉ, anh nhìn thấy miệng cô bé với những từ: “Ổn mà, con...” và giờ thì cô bé ra dấu những từ... “yêu bố.”

Thật là quá sức và Mack khóc vì sung sướng. Nhưng anh vẫn không thể thôi nhìn cô bé, nhìn xuyên qua thác nước của anh. Thật là đau đớn khi đứng gần đến thế này, nhìn thấy cô bé đứng kiểu của Missy, một chân đằng trước, một tay chống hông, cườm tay úp vào người. “Con bé ổn thật phải không?”

“Còn hơn những gì anh biết. Cuộc sống này chỉ là buổi trưa của một thực tại kỳ vĩ hơn sắp đến. Chẳng ai đạt được tiềm năng của mình trong thế giới con người. Chỉ là một sự chuẩn bị cho kế hoạch từ đầu của Papa.”

“Tôi đến chỗ con bé được không? Chỉ ôm một cái thôi, hôn một cái thôi?” anh khẩn nài.

“Không. Con bé muốn như thế này.”

“Nó muốn như thế này?” Mack khó hiểu.

“Đúng. Nó là một đứa trẻ rất khôn ngoan, Missy của chúng ta. Tôi rất yêu mến nó.”

“Cô có chắc là nó biết tôi ở đây không?”

“Có, tôi biết chắc,” cô trấn an Mack. “Con bé rất hào hứng với cái ngày này, để chơi đùa với các anh chị, và được ở gần anh. Nó cũng rất muốn có mẹ ở đây nữa, nhưng chắc là phải chờ dịp khác.”

Mack xoay về phía người phụ nữ. “Mấy đứa con tôi cũng ở đây thật à?”

“Chúng đang ở đây, nhưng không phải. Chỉ có Missy thật sự ở đây thôi. Những đứa kia đang mơ và mỗi đứa đều có một ký ức mờ ảo về việc này - đứa này chi tiết hơn đứa khác nhưng không có đứa nào trọn vẹn hoặc hoàn toàn. Đây là một lúc rất thư thái trong giấc ngủ của mỗi đứa, trừ Kate. Giấc mơ này sẽ không dễ dàng với nó đâu. Nhưng Missy thì hoàn toàn tỉnh táo.”

Mack quan sát từng cử chỉ của Missy yêu dấu của anh. “Nó đã tha thứ cho tôi chưa?” anh hỏi.

“Tha thứ cho anh về việc gì?”

“Tôi đã phụ lòng nó,” anh thì thầm.

“Bản chất của nó là tha thứ, nếu có một điều gì đó để tha thứ, nhưng đâu có gì.”

“Nhưng tôi đã không ngăn chặn được hắn bắt nó đi. Hắn bắt con bé trong lúc tôi không chú ý...” anh lạc giọng.

“Anh còn nhớ chứ, anh đang cứu con trai mà. Chỉ có anh, trong toàn thể vũ trụ này, mới tin rằng mình đáng trách theo cách nào đó. Missy không tin điều đó, Nan cũng không, Papa cũng không. Có lẽ đã đến lúc cất đi điều đó - điều dối trá ấy. Mà Mackenzie này, cho dù anh có đáng trách thì tình yêu của con bé còn mạnh mẽ hơn nhiều so với lỗi lầm của anh nếu có.”

Vừa lúc ấy ai đó gọi tên Missy và Mack nhận ra giọng nói ấy. Cô bé rú lên vui mừng rồi chạy trở lại với những đứa kia. Bất ngờ cô dừng rồi chạy ngược lại đến bố. Cô bé choàng tay ôm như thể đang ôm anh và, với đôi mắt khép, làm điệu bộ một nụ hôn. Đằng sau bức ngăn cách anh cũng ôm lại. Trong chốc lát, cô bé đứng hoàn toàn bất động, như thể biết rằng mình đang trao cho bố một tặng phẩm ký ức, rồi vẫy chào, xoay lưng và chạy biến về phía bọn trẻ.

Và giờ đây Mack có thể nhìn thấy rõ giọng nói đã gọi Missy của anh. Chính Jesus đang chơi giữa bọn trẻ. Không chút rụt rè Missy nhảy vào vòng tay của Ngài. Ngài cho cô bé đánh đu hai lần rồi đặt xuống đất, và rồi, mọi người cười đùa trước khi săn tìm những viên sỏi để lia trên mặt hồ. Âm thanh vui đùa ấy là một bản giao hưởng bên tai Mack, và trong lúc ngắm nhìn, nước mắt anh tuôn ròng.

Đột nhiên, không hề báo trước, tiếng nước rống lên từ bên trên, ngay phía trước anh, và lấn át hết mọi cảnh tượng và âm thanh của các con anh. Theo bản năng, anh nhảy lùi lại. Giờ đây anh nhận ra các bức tường hang động đã biến mất quanh anh, và anh đang đứng trong một cái hang ở phía sau thác nước.

Mack cảm thấy đôi bàn tay của người phụ nữ đặt lên vai anh.

“Kết thúc rồi à?” anh hỏi.

“Giờ thì vậy thôi,” cô đáp dịu dàng. “Mackenzie, phán xét không phải để hủy hoại, mà để nhìn mọi việc cho chính đáng.”

Makc mỉm cười. “Tôi không còn cảm thấy bế tắc nữa.”

Cô nhẹ nhàng hướng anh đi về phía bên cạnh thác nước cho đến khi anh lại nhìn thấy Jesus trên bờ hồ, vẫn đang lia những hòn sỏi. “Tôi nghĩ có người đang chờ anh.”

Đôi bàn tay cô siết nhẹ và rời vai anh và anh biết mà không cần nhìn rằng cô đã đi. Sau khi cẩn thận trèo lên mấy tảng đá trơn trượt và đi qua đám sỏi đá ướt, anh tìm thấy một lối đi vòng qua mép thác, rồi đi xuyên qua màn sương thanh khiết từ nước tuôn trào, để quay trở lại với ánh sáng ban ngày.

Mệt lử nhưng viên mãn tận thâm tâm, Mack dừng lại và nhắm mắt trong chốc lát, cố khắc ghi những chi tiết về sự hiện diện của Missy cho không phai mờ trong tâm trí, những mong những ngày sắp tới anh có thể khơi gợi lại từng khoảnh khắc với con, từng sắc thái và chuyển động.

Và đột nhiên anh nhớ Nan thật, thật nhiều.