Chương 14 ĐỘNG TỰ VÀ NHỮNG SỰ TỰ DO KHÁC
Chúa là một động từ.
— Buckminster Fuller
⚝ ⚝ ⚝
Mack bước ra ngoài giữa trưa nắng. Anh cảm thấy một cảm giác trộn lẫn khác lạ của trạng thái bị vắt kiệt như một cái giẻ mà lại tràn đầy sức sống một cách hồ hởi. Hôm nay thật là một ngày tuyệt vời thế mà mới chỉ hơn nửa ngày. Trong một khoảnh khắc, anh đứng lưỡng lự rồi thả bước về phía hồ. Khi nhìn thấy chiếc xuồng buộc vào cầu tàu, anh biết rằng có lẽ nó vẫn vĩnh viễn là mật đắng, nhưng ý tưởng dong một chiếc đi trên hồ làm anh lần đầu tiên làm anh phấn khích sau nhiều năm.
Tháo chiếc cuối cùng ra khỏi mũi cầu tàu, anh rón rén ngồi vào rồi bắt đầu bơi chèo về phía bên kia. Suốt mấy giờ đồng hồ sau đó anh đi vòng quanh hồ để khám phá mọi ngóc ngách và xó xỉnh. Anh tìm thấy hai con sông và một đôi dòng suối bắt nguồn từ trên cao và dốc cạn vào vũng trũng bên dưới, rồi anh khám phá ra một điểm để thả trôi và ngắm thác. Hoa núi cao nở khắp nơi, thêm những vệt màu vào trong khung cảnh. Đây là sự cảm nhận êm đềm và nhất quán nhất về bình an mà Mack có được sau bao nhiêu năm - nếu như đã từng có.
Anh thậm chí hát vài bài, một vài bài thánh ca xưa và một vài bài dân ca, chỉ vì muốn hát. Hát cũng là một việc mà anh đã không làm từ lâu. Lục tìm lại quá khứ xa xôi, anh bắt đầu cất giọng cho ca khúc nhí nhố mà anh thường hát cho Kate: “K-K-K-Katie... Katie xinh đẹp, con là đứa duy nhất ta yêu...” Anh lắc đầu khi nghĩ đến con gái, thật cứng rắn nhưng thật mong manh; anh thắc mắc làm sao tìm được phương cách để tiếp cận trái tim của nó. Anh chẳng còn ngạc nhiên sao nước mắt dễ dâng lên trong mắt anh.
Một lúc, anh xoay người ngắm nhìn những xoáy nước tạo ra bởi mái chèo và lái và khi anh xoay lại thì Sarayu đang ngồi ở mũi xuồng, nhìn anh. Sự hiện diện đột ngột của Ngài làm anh giật mình.
“Trời!” anh thốt lên. “Ngài làm con giật mình.”
“Ta xin lỗi, Mackenzie,” Ngài tạ lỗi, “nhưng bữa ăn tối sắp xong rồi và đã đến lúc ta mời con để quay về căn chòi.”
“Ngài đi với con suốt à?” Mack nghi vấn, vẫn còn hơi chút hồi hộp.
“Dĩ nhiên. Ta luôn ở bên con.”
“Vậy sao con không biết nhỉ?” Mack hỏi. “Gần đây, mỗi khi Ngài ở gần thì con đều biết.”
“Đối với con thì biết hay không,” Ngài giải thích, “chẳng liên quan chút gì đến việc ta thật sự có ở đây hay không. Ta luôn luôn ở bên con; đôi khi ta muốn con nhận biết theo một cách đặc biệt hơn - quốc tế hơn.”
Mack gật đầu tỏ ý hiểu và hướng xuồng về phía bờ và căn chòi. Giờ thì anh cảm nhận rõ rệt sự hiện diện của Ngài bởi cảm giác râm ran dọc sống lưng. Họ cùng đồng thanh cười.
“Liệu con lúc nào cũng có thể nhìn thấy hay nghe thấy Ngài như bây giờ, khi con đã về nhà hay không?”
Sarayu mỉm cười. “Mackenzie, lúc nào con cũng có thể trò chuyện với ta và ta sẽ luôn ở bên cạnh con, cho dù con có cảm nhận được sự hiện diện của ta hay không.”
“Giờ thì con biết rồi, nhưng làm sao con nghe thấy Ngài?”
“Con sẽ học cách nghe thấy tư tưởng của ta trong ý nghĩ của con, Mackenzie,” Ngài trấn an anh.
“Nghe rõ chứ? Nếu con lẫn lộn Ngài với giọng nói khác thì sao? Nếu con sai lầm thì sao?”
Sarayu cười phá lên, âm thanh như nước đổ, nếu đem phổ nhạc. “Dĩ nhiên con sẽ sai lầm, nhưng sẽ bắt đầu nhận ra giọng của ta rõ hơn khi chúng ta tiếp tục vun trồng cho mối quan hệ.”
“Con không muốn phạm sai lầm,” Mack càu nhàu.
“Ồ, Mackenzie,” Sarayu đáp, “sai lầm là một phần của cuộc sống, và Papa cũng đi đến những mục đích của mình thông qua chúng.” Ngài thích thú và Mack không nén được nụ cười đáp lại. Anh đủ hiểu ý Ngài.
“Điều này thật khác xa với những gì con đã biết, Sarayu. Đừng hiểu lầm con - con yêu quí những gì các Ngài đã cho con trong kỳ cuối tuần này. Nhưng con không biết làm sao quay trở lại với cuộc sống. Dường như còn dễ chịu hơn khi sống với Chúa cho dù con tưởng Ngài là một người thống trị khắt khe, hay thậm chí nếm chịu nỗi cô đơn trong nỗi đau .
“Con nghĩ vậy?” Ngài hỏi. “Thật không?”
“Ít ra thì con dường như cũng kiểm soát được mọi chuyện.”
“ Dường như là từ chính xác đấy. Nó đem lại gì cho con? Nỗi đau và thêm những khổ sở hơn sức con chịu đựng, những khổ sở đã tràn đến cả những người mà con quan tâm nhất.”
“Theo Papa thì đó là do con sợ hãi những cảm xúc,” anh bộc bạch.
Sarayu cười phá lên. “Ta tưởng ý đó trao đổi cho vui.”
“Con sợ những cảm xúc,” Mack thú nhận, hơi chút bối rối vì dường như Ngài xem nhẹ chuyện đó. “Con không thích cảm giác của chúng. Con đã làm tổn thương mọi người với những điều đó và con không thể tin cậy chúng chút nào. Ngài đã tạo ra tất cả hay chỉ những cảm xúc tốt đẹp thôi?”
“Mackenzie.” Sarayu dường như nhấc bổng lên không trung. Anh vẫn đang khó khăn để nhìn thẳng vào Ngài, nhưng với mặt trời chiều tà phản chiếu qua mặt nước, lại càng khó nhìn hơn nữa. “Cảm xúc là những sắc thái của tâm hồn; ngoạn mục và kỳ lạ. Khi con không cảm nhận, thế giới trở nên ảm đạm và vô vị. Cứ nghĩ xem nỗi đau đã làm chiết giảm màu sắc trong cuộc sống của con chỉ còn lại đơn sắc với sắc xám và đen.”
“Vậy hãy giúp con hiểu chúng,” Mack nài nỉ.
“Thật sự chẳng có gì nhiều để hiểu. Chúng là vậy thôi. Chúng chẳng xấu cũng chẳng tốt. Đây là một câu để giúp con sắp xếp trong tâm trí, Mackenzie. Những mô thức khơi gợi cảm nhận và những cảm nhận khơi gợi cảm xúc. Hầu hết các cảm xúc là sự hồi đáp của cảm nhận - những gì con cảm thấy chính đáng đối với một cảnh huống cụ thể. Nếu cảm nhận của con sai, thì phản ứng về cảm xúc của con cũng sai. Cho nên hãy kiểm soát cảm nhận của con, và trên nữa là kiểm soát tính đúng đắn trong các mô thức của con - những điều con tin tưởng. Việc con vững tin một điều gì đó không làm cho nó trở nên đúng đắn. Hãy tự nguyện xét vấn những điều con tin tưởng. Càng sống trong chân lý thì cảm xúc của con càng giúp con nhìn rõ. Nhưng thậm chí khi ấy, con cũng không nên tin cậy ở chúng nhiều hơn ở ta.”
Mack để mặc cho mái chèo xoay trong lòng bàn tay khi nó bị tác động trong dòng nước. “Cảm giác giống như sống với một mối quan hệ - Ngài biết đó, tin cậy và trò chuyện với Ngài - khó khăn hơn là chỉ đơn thuần làm theo giáo luật.”
“Giáo luật nào vậy, Mackenzie?”
“Ngài biết đó, mọi điều mà Kinh Thánh dạy chúng con phải làm.”
“Được rồi...” Ngài nói một chút ngập ngừng. “Thế đó là những điều gì?”
“Ngài biết đó,” anh đáp một cách châm biếm. “Nào là làm lành và lánh dữ, tử tế với kẻ khó, đọc kinh, cầu nguyện, đi lễ. Những điều đại loại như vậy.”
“Ta hiểu. Và nó có tác động thế nào với con?”
Anh cười. “Con chưa bao giờ thực hành sốt sắng lắm. Con cũng có những lúc không quá tệ, nhưng lúc nào cũng có điều gì đó khiến con trăn trở, hay cảm thấy áy náy. Con chỉ nghĩ rằng mình phải cố gắng hơn nữa, nhưng con thấy khó mà dung dưỡng được động lực ấy.”
“Mackenzie!” Ngài quở, lời Ngài tuôn trào đầy tình cảm. “Kinh Thánh không dạy con tuân thủ giáo luật. Nó là một bức tranh về Jesus. Mặc dù lời lẽ có thể cho con hình dung Chúa là ai và thậm chí cả những kỳ vọng của Chúa nơi con, con chẳng thể nào làm được điều gì tự thân mình. Sự sống và đời sống nằm trong Ngài chứ không ở đâu khác. Chao ơi, con lại nghĩ mình có thể sống đời công chính của Chúa một mình sao?”
“À... con tưởng vậy...” anh nói một cách bẽn lẽn. “Nhưng Ngài cũng phải công nhận, luật lệ và các nguyên tắc đơn giản hơn các mối quan hệ.”
“Đúng là các mối quan hệ hoàn toàn rắc rối hơn luật lệ, nhưng luật lệ chẳng bao giờ cho con lời đáp về những nan đề sâu xa trong lòng và chúng cũng chẳng thương yêu gì con.”
Nhúng tay xuống nước, anh nghịch nước và ngắm nhìn những gì do chuyển động của tay mình tạo nên. “Con đang nhận ra mình có quá ít lời đáp... cho mọi thứ. Ngài biết đó, Ngài đã làm cho con đảo lộn từ dưới lên trên hay từ trong ra ngoài hay đại loại.”
“Mackenzie, tôn giáo là nhằm có được những lời đáp đúng, và một số lời đáp của họ là đúng. Nhưng ta đang nói về tiến trình đưa con đến với lời đáp sống và một khi đã đến được với Ngài, Ngài sẽ thay đổi con từ bên trong. Có rất nhiều người khôn ngoan có thể nói ra nhiều điều đúng đắn từ trí não họ vì họ được bảo ban đâu là những lời đáp đúng, nhưng họ chẳng hề biết ta. Thế thì, làm sao những lời đáp của họ là đúng được cho dù họ nói đúng, con tỏ ý ta chăng?” Ngài cười với việc chơi chữ của mình. “Cho nên mặc dù họ có thể đúng, họ vẫn là sai.”
“Con hiểu lời Ngài nói. Con đã làm thế nhiều năm sau khi học trường dòng. Con đã có những lời đáp đúng, đôi khi, nhưng con chẳng biết Ngài. Kỳ cuối tuần này, sống cùng với Ngài thì sáng tỏ hơn nhiều so với bất kỳ lời đáp nào trong số đó.” Họ tiếp tục đi chuyển lững lờ theo dòng nước.
“Vậy liệu con có gặp lại Ngài không?” anh rụt rè hỏi.
“Có chứ. Con có thể thấy ta trong một tác phẩm nghệ thuật, hay âm nhạc hay trong thinh lặng, hay thông qua con người, hay trong Sáng thế, hay trong niềm vui và nỗi buồn của con. Khả năng giao tiếp của ta là vô giới hạn, sống động và chuyển biến, và lúc nào nó cũng sẽ hòa nhịp với nhân lành và tình yêu của Papa. Và con sẽ nghe thấy và trông thấy ta trong Kinh Thánh một cách mới mẻ. Đừng cố tìm kiếm những luật lệ hay nguyên tắc; hãy tìm kiếm những mối tương quan - một phương cách để đến với chúng ta.”
“Nhưng vẫn không giống như có Ngài ngồi trên xuồng của con.”
“Không, sẽ hay hơn nhiều so với con biết đấy, Mackenzie. Và khi con ngủ sau cùng trong thế giới này, chúng ta sẽ có vĩnh hằng cùng nhau - trực diện.”
Thế rồi Ngài biến mất. Mặc dù anh biết rằng đích thực thì không phải.
“Vậy thì xin Ngài, hãy giúp con sống trong chân lý,” anh nói lớn. “Có khi lấy đó làm câu cầu nguyện,” anh nghĩ bụng.
***
Khi Mack về chòi anh thấy Jesus và Sarayu đã có mặt và an tọa quanh bàn. Papa bận rộn như thường lệ mang ra những đĩa món ăn bốc mùi ngon lành, một lần nữa chỉ có vài món mà Mack nhận ra, và thậm chí khi đó anh cũng phải nhìn kỹ lại để quả quyết đó là món anh quen thuộc. Nhìn thấy ngay là thiếu rau. Anh đi vào buồng tắm để rửa ráy và khi quay lại thì ba người đã bắt đầu ăn rồi. Anh kéo chiếc ghế thứ tư ra và ngồi xuống.
“Thật ra các Ngài đâu cần phải ăn, đúng không nào?” anh hỏi trong lúc bắt đầu múc vào chén một món trông giống súp hải sản nước trong, có mực với cá và những thứ cao lương mỹ vị mơ hồ khác.
“Chúng ta chẳng phải làm gì cả,” Papa khẳng định khá hùng hồn.
“Vậy thì tại sao các Ngài lại ăn?” Mack chất vấn.
“Để ở bên con, con ạ. Con cần ăn, thế thì còn nguyên cớ nào hay ho hơn để ở bên nhau.”
“Dù sao, tất cả chúng ta đều thích nấu nướng,” Jesus nói thêm. “Và ta thích thức ăn - rất thích. Chẳng có thứ gì qua được một chút xíu mại, ugali, nipla hay kori banaje làm cho bữa ăn thêm ngon lành. Ăn tráng miệng với kẹo bơ dẻo hoặc tiramisu và trà nóng. Chẹp! Ngon đến thế là cùng.”
Mọi người cười phá lên rồi lại quây quần chuyền tay những đĩa thức ăn để lấy món. Trong khi ăn, Mack lắng nghe ba người đùa với nhau. Họ trò chuyện và cười như những người bạn cố tri đã quen nhau một cách thân tình. Trong khi nghĩ về điều đó, anh thấy điều đó càng đúng một cách hiển nhiên với các đấng ấy hơn bất kỳ ai trong hay ngoài Sáng thế. Anh ghen tị với cuộc đối thoại vô tư nhưng kính cẩn ấy và băn khoăn làm thế nào để thuật lại điều đó với Nan và thậm chí với một số bạn hữu.
Một lần nữa, Mack lại choáng váng bởi sự kỳ thú và xiết bao vô lý của khoảnh khắc này. Tâm trí anh đi lan man theo những cuộc đối thoại kỳ lạ của mình trong hai mươi bốn giờ qua. Chao ơi! Anh mới có mặt ở nơi này có một ngày sao? Rồi anh sẽ làm gì với tất cả những chuyện này khi trở về nhà? Anh biết rằng mình sẽ kể hết với Nan mọi chuyện. Nàng có thể chẳng tin anh và anh cũng chẳng trách nàng; nếu là anh thì anh cũng chẳng tin nổi bất cứ điều gì.
Khi tâm trí anh tăng tốc anh cảm thấy chính mình lìa ra khỏi những vị kia. Chuyện này hoàn toàn không thể có thật. Anh nhắm mắt và cố gạt ra ngoài những lời đối thoại đang diễn ra quanh mình. Đột nhiên, không gian bỗng im lặng đến chết chóc. Anh từ từ hé một mắt, lờ mờ hy vọng sẽ thức dậy tại nhà. Thế nhưng, Papa, Jesus và Sarayu đều đang nhìn anh với những nụ cười ngớ ngẩn nghệch trên mặt. Anh thậm chí chẳng tìm cách phân trần. Anh biết là họ biết.
Thế rồi anh chỉ vào một đĩa rồi hỏi, “Con thử món đó được không?” Cuộc trò chuyện lại tiếp diễn và lần này anh lắng nghe. Nhưng rồi một lần nữa, anh lại cảm thấy mình lìa ra. Để cưỡng lại điều đó, anh quyết định đặt một câu hỏi.
“Tại sao các Ngài yêu thương con người chúng con? Chắc là... con...” Khi nói ra anh mới nhận thấy mình chưa hình thành câu hỏi đến nơi đến chốn cho lắm. “Con muốn hỏi là tại sao các Ngài yêu thương con, khi con chẳng có gì để dâng hiến?”
“Nếu con đã nghĩ đến điều đó, Mack,” Jesus đáp, “con sẽ cảm thấy thật thoải mái khi biết rằng con chẳng có thể dâng hiến điều gì cả, ít nhất là những thứ có thể bồi đắp hay tước đoạt đối với chúng ta... Điều đó sẽ giải tỏa mọi áp lực với việc sống trọn.”
“Vậy con có yêu thương con cái của mình nhiều hơn khi chúng sống trọn tốt lành không?” Papa tiếp lời.
“Không, con hiểu ý Ngài.” Mack dừng lại. “Nhưng con cảm thấy viên mãn hơn vì chúng nó thuộc về cuộc đời con - phải không?”
“Không,” Papa nói. “Chúng ta đã trọn vẹn viên mãn trong bản thể chúng ta. Con cũng được tạo lập để hiện hữu trong cộng đồng, với hình hài như hình dung của chúng ta. Cho nên đối với con việc cảm nhận như thế về con cái mình, hay bất kỳ điều gì ‘bổ sung’ cho mình đều là hoàn toàn tự nhiên và chính đáng. Hãy nhớ, Mackenzie, ta không phải là một con người, trong chính bản chất của ta, bất kể chúng ta đã chọn lựa để ở cùng con như thế nào trong kỳ cuối tuần này. Ta thật sự là con người, trong Jesus, nhưng bản chất của ta hoàn toàn là một bản thể khác.”
“Ngài biết đó - dĩ nhiên là Ngài biết,” Mack nói một cách hối lỗi - “con chỉ theo kịp dòng tư tưởng ấy đến đó thôi, và rồi con lạc nhịp và trí não ù đặc.”
“Ta hiểu,” Papa ghi nhận. “Tâm trí con không thể nhìn thấy điều gì mà con không thể cảm nghiệm.”
Mack nghĩ về điều đó trong chốc lát. “Chắc là vậy... Dù gì thì cũng... Ù đặc.”
Khi mọi người đã thôi cười phá lên, Mack nói tiếp. “Các Ngài biết rằng con thật sự biết ơn về mọi chuyện, nhưng các Ngài đã dồn quá nhiều thứ một lúc trong kỳ cuối tuần này. Con sẽ làm gì khi trở về nhà? Giờ đây, các Ngài muốn điều gì ở con?”
Jesus và Papa đều xoay sang Sarayu trong khi Ngài đang sắp cho một nĩa đầy thức ăn vào miệng. Ngài từ từ đặt nĩa xuống đĩa trở lại rồi đáp lại nét mặt hoang mang của Mack.
“Mack,” Ngài cất giọng, “con phải tha thứ cho hai vị này. Con người có thiên hướng tái tạo ngôn ngữ theo tính độc lập của họ và cần thể hiện. Cho nên khi ta nghe thấy ngôn ngữ bị lạm dụng cho các luật lệ thay vì để chia sẻ đời sống với chúng ta, ta khó mà ngồi yên lặng được.”
“Thì cứ việc thôi,” Papa tiếp lời.
“Vậy thì con đã nói gì?” Mack hỏi, giờ đây hết sức tò mò.
“Mack, cứ ăn tiếp đi. Chúng ta có thể nói chuyện trong khi con ăn mà.”
Mack nhận thấy anh cũng đang có một nĩa đầy thức ăn sắp cho vào miệng. Anh cảm động ăn tiếp trong lúc Sarayu bắt đầu nói. Trong lúc nói chuyện, dường như Ngài nhấc lên khỏi ghế và tỏa sáng lung linh với một điệu nhảy của các sắc màu dìu dịu và căn phòng dặt dìu tràn ngập hàng loạt hương thơm, như mùi trầm và ngây ngất.
“Ta sẽ trả lời câu đó bằng cách cho con một câu hỏi. Tại sao con nghĩ chúng ta đặt ra Mười điều răn?”
Một lần nữa Mack lại sắp đưa nĩa lên miệng, nhưng anh cứ ăn trong khi nghĩ cách trả lời Sarayu.
“Con đoán rằng, hoặc ít ra con cũng được dạy rằng, đó là một bộ phép tắc mà Ngài mong muốn con người vâng phục để sống công chính trong ơn lành của Ngài.”
“Giá như điều đó đúng, nhưng không phải,” Sarayu phản bác, “thế thì con nghĩ bao nhiêu người đã sống công chính đúng mực để được hòa nhập vào ân sủng của chúng ta?”
“Không nhiều lắm, nếu mọi người giống như con,” Mack nhận xét.
“Thật ra, chỉ có một người thành công - Jesus. Ngài không những vâng phục ngôn từ của phép tắc mà còn sống trọn vẹn tinh thần của nó. Nhưng hãy hiểu điều này, Mackenzie - để làm được điều đó Ngài phải phó thác một cách trọn vẹn và tùng thuộc vào ta.”
“Vậy thì tại sao Ngài lại ban cho chúng con những điều răn ấy?” Mack hỏi.
“Thật sự, chúng ta muốn các con từ bỏ nỗ lực trở nên công chính một cách tự thân. Nó là tấm gương để phơi bày gương mặt các con sẽ nhơ nhuốc ra sao khi các con sống độc lập.”
Mack đáp lại: “Nhưng chắc chắn các Ngài biết rằng có nhiều người nghĩ rằng họ được trở nên công chính bằng cách vâng phục các giáo luật.”
“Nhưng con có thể lau sạch gương mặt bằng chính chiếc gương đã tỏ cho con thấy mình nhơ nhuốc thế nào không? Giáo luật chẳng chứa đựng phúc thiện hay ân sủng gì trong nó cả, không một mảy may. Đó là lý do Jesus đã sống trọn nó cho các con - để nó không còn pháp quyền gì với các con nữa. Và giáo luật đã từng chứa đựng những đòi hỏi bất khả - Ngươi Không Được... - thật sự đã trở nên một cam kết mà chúng ta ứng nghiệm trong các con.”
Ngài nói say sưa, thần sắc sống động và chuyển biến. “Nhưng hãy ghi nhớ rằng nếu con sống cuộc đời mình tự thân và độc lập, lời cam kết ấy sẽ vô nghĩa. Jesus đã khiến cho sự đòi hỏi của giáo luật bị đoạn tuyệt; nó chẳng còn một chút quyền năng gì để cáo buộc hay chế ngự. Jesus vừa là lời cam kết vừa là sự hoàn thành.”
“Ngài đang nói là con không buộc phải tuân theo giáo luật?” Mack giờ đây đã ngừng ăn hoàn toàn và tập trung vào cuộc đối thoại.
“Đúng. Trong Jesus con chẳng bị áp chế bởi luật lệ gì. Tất cả mọi thứ đều hợp lẽ.”
“Ngài nói nghiêm túc đấy chứ! Ngài lại đùa với con rồi,” Mack rên rỉ.
“Con ơi,” Papa ngắt lời, “con chẳng nghe thấy gì cả.”
“Mackenzie,” Sarayu tiếp lời, “những kẻ e sợ tự do là những kẻ không thể tin cậy để chúng ta sống trong họ. Cố gìn giữ luật lệ thật ra là một sự tuyên ngôn độc lập, một cách để duy trì kiểm soát.”
“Có phải đó là lý do chúng con thích luật lệ đến thế - để chúng con có được phần nào kiểm soát?” Mack hỏi.
“Còn tệ hơn thế nhiều,” Sarayu tiếp tục. “Nó cho các con quyền năng được phán xét kẻ khác và cảm thấy ưu thượng hơn họ. Các con tin rằng mình đang sống theo một chuẩn mực cao hơn của những kẻ mình phán xét. Áp đặt luật lệ, đặc biệt trong những hình thức tinh vi hơn nữa như trách nhiệm và kỳ vọng, là một nỗ lực để tạo ra sự chắc chắn từ sự bất định. Và ngược với những gì các con nghĩ, ta vô cùng thích sự bất định. Luật lệ không thể mang đến tự do; chúng chỉ có quyền năng để cáo buộc.”
“Chao ơi!” Mack đột nhiên nhận ra điều Sarayu đã nói. “Ngài đang nói với con là trách nhiệm và kỳ vọng chỉ là một hình thức khác của luật mà chúng con không còn bị áp đặt? Con nghe có đúng không?”
“Đúng,” Papa thốt lên một lần nữa. “Lại vấn đề ấy - Sarayu, Ngài nói với anh ta đi!”
Mack không màng đến Papa mà tập trung vào Sarayu, một việc không hề dễ dàng.
Sarayu mỉm cười với Papa rồi quay lại với Mack. Ngài bắt đầu nói chậm rãi và tỏ tường. “Mackenzie, ta sẽ chọn một động từ thay cho một danh từ bất kỳ lúc nào.”
Ngài dừng lại chờ đợi. Mack chẳng rõ nên hiểu gì về lời nói bóng gió của Ngài nên anh chỉ bật ra được một từ duy nhất trong tâm trí. “Hử?”
“Ta,” Ngài xòe đôi bàn tay để gộp cả Jesus và Papa, “ta là một động từ. Ta là ta. Ta sẽ là bản thể của ta. Ta là một động từ! Ta sống, sôi động, chủ động và chuyển động. Ta là một động từ.”
Mack vẫn cảm thấy như đang bày ra một cái nhìn trống rỗng trên gương mặt mình. Anh hiểu những từ ngữ Ngài nói, nhưng nó chẳng kết nối với nhau.
“Và do bản chất của chính ta là một động từ,” Ngài tiếp, “ta đồng điệu với động từ hơn danh từ. Động từ như thú nhận, ăn năn, sống, yêu thương, hồi đáp, nảy nở, gặt hái, thay đổi, gieo trồng, nhạy, chảy, hát v.v... Con người, ngược lại, ưa biến một động từ sống động và đầy ân điển thành ra một danh từ chết chóc hay những nguyên tắc nồng nặc luật lệ: một thứ đang lớn dậy và sống động lại lụi tàn. Danh từ tồn tại bởi vì có một vũ trụ được và thực tại hữu hình đã được tạo dựng, nhưng nếu vũ trụ chỉ là một đống danh từ thì nó chết. Trừ phi ‘Ta hiện hữu,’ sẽ chẳng có động từ, và động từ là những gì làm cho vũ trụ sống động.”
“Thế thì,” Mack vẫn đang vật vã, mặc dù một chút lóe sáng dường như bắt đầu le lói trong tâm trí anh. “Thế thì, điều này chính xác nghĩa là gì?”
Sarayu dường như bình thản khi anh không hiểu. “Để cho một sự vật chuyển từ chết sang sống, con phải đưa một yếu tố sống động và chuyển động vào trong nó. Chuyển hóa một thứ chỉ là một danh từ thành một thứ sôi động và bất ngờ, thành một thứ sống động và thuộc thời khắc hiện tại, nghĩa là chuyển từ luật lệ sang ân sủng. Ta cho con một đôi ví dụ nhé?”
“Vâng,” Mack tán thành. “Con nghe đây.”
Jesus cười khúc khích còn Mack thì cau có với Ngài trước khi trở lại với Sarayu. Hình bóng của một nét cười thoáng qua trên gương mặt khi Ngài nói tiếp.
“Vậy thì ta dùng hai từ của con nhé: trách nhiệm và kỳ vọng. Trước khi các từ của con trở thành danh từ, ban đầu chúng là từ của chúng ta, những danh từ với sự hướng động và cảm nghiệm ẩn giấu bên trong; khả năng đáp ứng và trông mong. Ngôn từ của ta sống động và sôi nổi - đầy sự sống và triển vọng; ngôn từ của con chết lụi, đầy luật lệ, nỗi sợ hãi và phán xét. Đó là lý do tại sao con sẽ không tìm thấy từ trách nhiệm trong Kinh Thánh.”
“Chao ơi,” Mack nhăn nhó, bắt đầu hiểu ra câu chuyện đi về đâu. “Dường như chúng con quen dùng nhiều lắm.”
“Tôn giáo phải dùng luật lệ để phân quyền và kiểm soát những ai mà nó cần để tồn tại. Ta cho các con một khả năng để hồi đáp và lời đáp của các con là tự do yêu thương và phụng vụ trong mọi cảnh huống, và vì thế mỗi sự vận động là khác biệt, độc nhất vô nhị và diệu kỳ. Bởi vì ta là khả năng hồi đáp của các con, ta phải hiện diện trong các con. Nếu đơn thuần ta chỉ trao cho các con một trách nhiệm , ta sẽ chẳng phải ở cùng các con. Giờ đây đó sẽ là một tác vụ để thi hành, một nghĩa vụ phải đáp ứng, một điều gì đó để thất bại.”
“Chao ơi, chao ơi,” Mack lại thốt lên không mấy sốt sắng.
“Ta sẽ lấy thí dụ về tình bạn để thấy sự tước đoạt yếu tố sự sống ra khỏi một danh từ có thể làm biến đổi trầm trọng một mối quan hệ như thế nào. Mack, nếu con và ta là bạn hữu, có một sự kỳ vọng tồn tại trong mối tương quan của chúng ta. Khi chúng ta gặp nhau hay rời xa, có một triển vọng được ở bên nhau, được cười nói. Triển vọng ấy chẳng có định nghĩa cụ thể; nó sống động và sôi nổi và mọi điều phát xuất từ trạng thái chúng ta ở bên nhau là một tặng vật độc nhất vô nhị không chia sẻ không bởi một ai khác. Nhưng điều gì xảy ra nếu ta thay đổi ‘triển vọng’ thành ‘kỳ vọng’ - dù nói ra hay không nói ra? Đột nhiên, phép tắc đã xen vào tình bạn của chúng ta. Giờ đây, con bị kỳ vọng phải hành động theo một phương cách để đáp ứng kỳ vọng của ta. Tình bạn sống động của chúng ta nhanh chóng suy đọa thành một thứ chết lặng với những phép tắc và đòi hỏi. Nó không còn là con và ta nữa, mà là những gì bạn hữu cần phải làm, tức là trách nhiệm của một người bạn tốt lành.”
“Hay là,” Mack nhận ra, “trách nhiệm của một người chồng, hay một người cha, hay một nhân viên, hay bất kỳ vai trò gì. Con hình dung ra rồi. Con thích sống trong triển vọng.”
“Như ta,” Sarayu trầm ngâm.
“Nhưng,” Mack tranh biện, “nếu Ngài không có những kỳ vọng và trách nhiệm thì mọi thứ đổ vỡ hết làm sao?”
“Chỉ khi các con thuộc về thế giới, xa lìa ta và chịu phép luật lệ. Trách nhiệm và kỳ vọng là căn bản của tội lỗi, sự ô nhục và phán xét, và chúng lập ra cơ cấu thiết yếu để đề cao sự hành động như nền tảng của bản thể và giá trị. Con biết quá rõ hậu quả khi sống không đạt được kỳ vọng của một ai đó.”
“Trời, con biết!” Mack lầm bầm. “Không có gì vui cả theo con biết.” Anh thoáng dừng lại, một ý nghĩ mới lóe lên trong tâm trí anh. “Có phải Ngài đang nói là Ngài không có kỳ vọng gì ở con?”
Giờ thì Papa lên tiếng. “Con ơi, ta chưa bao giờ đặt một kỳ vọng cho con hay bất kỳ ai khác. Muốn đặt kỳ vọng thì ai đó cần phải không biết về tương lai hay kết quả và cố gắng chế ngự hành vi để có được kết quả mong muốn. Con người nỗ lực chế ngự hành vi phần lớn qua các kỳ vọng. Ta biết con và mọi thứ về con. Tại sao ta phải kỳ vọng một điều gì khác ngoài kết quả mà ta đã biết? Thật là ngớ ngẩn. Hơn nữa, vì ta chẳng bao giờ có kỳ vọng, các con chẳng bao giờ làm ta thất vọng.”
“Sao? Ngài chẳng bao giờ thất vọng với con?” Mack nhọc nhằn cố gắng tiêu hóa điều này.
“Chẳng bao giờ!” Papa nhấn giọng khẳng định. “Điều ta có là một triển vọng bất biến và sống động trong mối quan hệ của chúng ta, và ta trao cho con một khả năng hồi đáp với bất kỳ tình huống và cảnh ngộ nào mà con rơi vào. Chừng nào con còn dùng đến kỳ vọng và trách nhiệm, chừng ấy con chẳng bao giờ biết được ta hay tin cậy ta.”
Jesus thốt lên: “Và chừng ấy con sẽ sống trong sợ hãi.”
“Nhưng,” Mack vẫn chưa bị thuyết phục. “Nhưng các Ngài không muốn chúng con đặt định mức độ ưu tiên? Chẳng hạn như Chúa trước tiên, rồi đến điều gì đó, gì đó theo sau nữa?”
“Rắc rối của việc sống theo mức độ ưu tiên” Sarayu nói, “là nhìn thấy mọi việc như một giai bậc, một kim tự tháp, và con với ta đã bàn về chuyện đó rồi. Nếu con đặt Chúa lên đỉnh, thì điều đó thật sự nghĩa là gì và bao nhiêu cho đủ? Con dành cho ta bao nhiêu thời gian trước khi tiếp tục những việc khác còn lại, những thứ làm con quan tâm hơn nhiều?”
Papa lại ngắt ngang. “Con thấy đó, Mackenzie, ta không muốn có một chút con người con và một chút cuộc sống của con. Cho dù con có khả năng, mà con thì không có, cho ta phần lớn nhất, đó cũng không phải là điều ta muốn. Ta muốn tất cả các con và trọn vẹn từng phần con người và cuộc sống của con.”
Jesus lại lên tiếng. “Mack, ta không muốn làm kẻ đầu tiên trong danh sách các giá trị; ta muốn ở trung tâm của mọi thứ. Khi ta sống trong con, cùng nhau chúng ta sẽ sống qua mọi điều xảy đến với con. Thay vì là một kim tự tháp, ta muốn là trọng tâm của một cỗ máy, để mọi thứ trong đời con - bạn hữu, gia đình, sự nghiệp, tư tưởng, hoạt động - đều kết nối với ta nhưng chuyển động theo gió, vào ra, tới lui, trong một vũ điệu tuyệt luân của bản thể.”
“Còn ta,” Sarayu kết luận, “ta là ngọn gió.” Ngài cười hết cỡ rồi cúi chào.
Một khoảng yên lặng trong khi Mack trấn tĩnh. Nãy giờ anh bấu chặt lấy mép bàn bằng cả hai bàn tay như thể bíu lấy một thứ gì hữu hình trước cơn lốc của ý tưởng và hình ảnh.
“Thôi đủ rồi,” Papa vừa đứng dậy vừa nói. “Đến giờ vui chơi rồi! Các vị đi đi để ta cất các thứ sẽ hư hỏng. Ta sẽ lo bát đĩa sau.”
“Còn đọc kinh thì sao?” Mack hỏi.
“Chẳng có nghi thức gì đâu, Mack,” Papa vừa nói vừa cầm các đĩa thức ăn. “Vậy là tối nay chúng ta sẽ làm khác. Các vị sẽ thích trò này!”
Khi Mack đứng lên đi theo Jesus về phía cửa sau, anh cảm nhận một bàn tay đặt lên vai anh và quay lại. Sarayu đang đứng gần, nhìn anh chăm chú.
“Mackenzie, nếu con cho phép, ta muốn tặng cho con một món quà đêm nay. Ta sờ vào mắt con để chữa lành nhé, chỉ đêm nay thôi?”
Mack ngạc nhiên. “Con nhìn thấy rõ mà?”
“Đúng vậy,” Sarayu nói một cách áy náy, “con nhìn thấy rất ít mặc dù đối với con người con nhìn thấy khá tốt. Nhưng chỉ đêm nay thôi, ta muốn con nhìn thấy một chút những gì chúng ta thấy.”
“Vậy thì con sẵn lòng,” Mack đồng ý. “Xin hãy chạm vào mắt con và thêm nữa nếu Ngài muốn.”
Khi Ngài đưa tay về phía anh, Mack nhắm mắt lại và cúi người về phía trước. Cú chạm của Ngài như băng, bất ngờ và phấn khích. Một cơn rùng mình khoan khoái lướt qua anh và anh đưa tay lên để giữ đôi bàn tay của Ngài trên mặt mình. Chẳng chạm thấy gì cả, nên anh từ từ mở mắt ra.