← Quay lại trang sách

V. PHÚC LỢI THỨ MÀ TIỀN KHÔNG THỂ MUA ĐƯỢC

Tất cả mọi người có liên quan đến “cải cách phúc lợi” đều có thể đọc cuốn sách bổ ích: Thứ mà tiền không thể mua được (Đại học Harvard phát hành), đây là một nghiên cứu của nhà xã hội học Susan Mayer của Đại học Chicago. Thông điệp của sách là đáng buồn: dưới góc độ xã hội, chúng ta khá vô dụng khi xử lý những vấn đề tệ hại nhất của sự nghèo đói mà trẻ em phải gánh chịu. Đây không phải là thông tin mới, nhưng với việc xác nhận nó, Mayer hoài nghi sự hùng biện hoa mỹ trong nhiều cuộc tranh luận về phúc lợi. “Cải cách phúc lợi” có thể làm tăng hoặc giảm đói nghèo đi một chút (chúng ta không thể nói chính xác là tăng hay giảm), nhưng cả nét đạo đức được gán cho công tác này lẫn cái xấu xa bị cáo buộc của nó đều không đủ mạnh để làm thay đổi nguyên trạng một cách đáng kể.

Điều gây ấn tượng từ nghiên cứu của Mayer là nó mâu thuẫn với cả quan điểm chính trị và quá trình lịch sử của tác giả. Bà là một đảng viên đảng Dân chủ, một người tự coi mình là người theo chủ nghĩa Tự do “từ thực nghiệm”. Bà không viết về phúc lợi dưới dạng tường minh, mà thay vì vậy lại đặt ra một câu hỏi cơ bản: Tiền bạc quan trọng như thế nào trong việc cho phép các gia đình đưa con cái của họ thoát khỏi nghèo đói? Bà từng là người mẹ một mình nuôi con (single mother) và không có nhiều tiền, nên tin rằng tiền bạc là quan trọng. Bà nói “thật khủng khiếp khi làm cha mẹ mà không có khả năng để mua những thứ mà con cái muốn”. Bà nhớ lại đã từng phải vay mượn để trả tiền cho bác sĩ. Tiền là vấn đề. Không nhiều thì ít.

Mayer xem xét lại các nghiên cứu trước kia và thử tìm sự liên hệ giữa thu nhập của cha mẹ với thành tựu của con cái. Các thành tựu tốt đẹp của chúng là đạt được số điểm cao trong học hành, có một công việc (hoặc đang ngồi trong trường học) ở tuổi 24, tiền lương và thu nhập cao. Các hậu quả xấu của trẻ em bao gồm việc bỏ học giữa chừng khi ở trường trung học và trở thành một người mẹ khi chưa kết hôn. Đương nhiên, trẻ em có cha mẹ thuộc tầng lớp trung sẽ làm tốt hơn so với các em có cha mẹ nghèo hơn. Mayer đã cố gắng để phân biệt những tác động thuần túy từ thu nhập và các ảnh hưởng khác. Khi đó bà nhận thấy ảnh hưởng từ yếu tố thu nhập đã giảm mạnh. (Xin cảnh báo các độc giả tiềm năng của sách là: có rất nhiều nội dung mang tính kỹ thuật). Bà viết:

“Các tính cách của các bậc cha mẹ - được người sử dụng lao động đánh giá cao và sẵn sàng trả tiền lương - như các kỹ năng, sự cần mẫn, trung thực, sức khoẻ tốt, và độ tin cậy, cũng cải thiện các cơ hội cuộc sống của con em họ. Điều này độc lập với các ảnh hưởng từ thu nhập của cha mẹ. Trẻ em có cha mẹ sở hữu những thuộc tính này sẽ làm tốt hơn ngay cả khi cha mẹ chúng không có thu nhập cao”. Nhận định trên đã phá hỏng nhiều cuộc tranh luận mang tính hùng biện sáo mòn về phúc lợi của phe Tự do và Bảo thủ.

Theo ghi chép của Mayer, nhận định này “phản đối thẳng vào những luận điệu phổ biến của phe Tự do cho rằng ‘người nghèo cũng như mọi người khác, ngoại trừ việc họ có tiền ít hơn’.” Theo báo cáo của Mayer và Christopher Jencks - một nhà xã hội học của Đại học Harvard trong một nghiên cứu khác thì trong thực tế, sự sung túc về mặt vật chất của các trẻ em nghèo nói chung là đã được cải thiện. Năm 1970, khoảng 26% trong số một phần năm các trẻ em nghèo nhất đã không được khám bệnh trong năm ngoái; đến năm 1989, con số này đã được giảm xuống chỉ còn 14%. Năm 1973, khoảng 71% các em trong nhóm này phải sống trong các ngôi nhà không có máy điều hòa không khí; đến năm 1991 thì chỉ còn 45%. Thật không may, những cải tiến mang tính vật chất này lại không chuyển đổi thành các điều kiện xã hội tốt đẹp hơn. Tội phạm gia tăng, và tỷ lệ con ngoài giá thú cũng vậy.

Nhưng nghiên cứu của Mayer cũng làm chấn động giả định vững chắc của phe Bảo thủ, rằng nếu chịu áp lực thì người nghèo có thể trở nên tự lực hơn thông qua công việc. Chính xác là vì nhiều người nhận phúc lợi dài hạn không có năng lực hoặc kỷ luật như các bậc phụ huynh trung lưu, họ không thể tìm và giữ được cho mình một công ăn việc làm, chứ đừng nói đến việc làm lương cao. Trọng tâm trong các phân tích chắc chắn của Mayer là hỗ trợ cho sự tồn tại của một “văn hóa nghèo đói” thường trực, một luận điểm lần đầu tiên được đưa ra trong bối cảnh nước Mỹ hiện đại bởi nhà khoa học chính trị Edward Banfield trong một cuốn sách viết năm 1970.

Banfield chia người nghèo thành hai nhóm. Một nhóm chỉ đơn giản là thiếu tiền, bao gồm rất nhiều người tàn tật và thất nghiệp, một số các bà mẹ nuôi con một mình, người góa bụa, đã ly dị, hoặc bị bỏ rơi. Những người này có giá trị trung bình và có thể được hưởng lợi từ trợ cấp của chính phủ. Họ thường có thể hồi phục sau thất bại (mất việc làm, ly hôn). Kế đến là nhóm của những người đúng là trong “tầng lớp thấp kém”, những người “sẽ vẫn sống trong điều kiện tồi tàn... ngay cả khi thu nhập của họ tăng gấp đôi”, Banfield đã viết như vậy, bởi vì họ có một viễn cảnh “định hướng vào hiện tại rất triệt để” cho rằng “chẳng có giá trị nào gắn liền với việc làm, sự hy sinh, tự cải tiến, hoặc phục vụ cho gia đình, bạn bè hay cộng đồng”.

Lý thuyết của Banfield nhen nhóm lên sự phẫn nộ, bởi vì nó có nghĩa rằng, vượt lên từ một số quan điểm nhất định, các nỗ lực để xóa nghèo sẽ thất bại. Trong bối cảnh hiện hành - cho rằng tất cả các vấn đề đều là có thể giải quyết được - lý thuyết này đã là thứ “tà giáo”. Nhưng nó đã tồn tại được sau cuộc kiểm tra của thời gian và gắn kết được với thái độ “vừa yêu vừa ghét” rất phổ biến đối với vấn đề an sinh xã hội. Mayer viết: trong vòng 200 năm, người Mỹ “đã dao động giữa việc cố gắng để cải thiện sự sung túc về vật chất cho các trẻ em nghèo và... tính cách đạo đức của cha mẹ chúng”.

Hồi đầu thế kỷ XIX, các địa phương cung cấp cho người nghèo “sự cứu trợ ngoài trời” (phân phát tiền, thực phẩm hay hàng hoá ngoài trời). Sau đó, người nghèo được chuyển đến các trại tế bần, dự định để phát triển công ăn việc làm, khả năng tự kiềm chế, và tính cách cho họ.

Công tác “cải cách phúc lợi xã hội” hiện nay cũng phù hợp với truyền thống này. Nó không quá khắc nghiệt như các nhà phê bình cáo buộc. (Ngoại lệ ở đây là việc cắt phúc lợi dành cho những người nhập cư hợp pháp; nhưng điều này liên quan đến việc nhập cư - một vấn đề khác). Ví dụ, công tác cải cách phúc lợi không áp đặt một giới hạn tuyệt đối là 5 năm hưởng phúc lợi (một phần năm trong tổng số những người hưởng phúc lợi của một tiểu bang có thể vượt quá thời hạn 5 năm này). Nó dự đoán một cách đúng đắn rằng những gì mà người dân tự làm cho chính mình mới là vấn đề đáng quan tâm hơn là những gì chính phủ làm cho họ. Bằng cách cho phép các tiểu bang làm thí điểm với việc hòa chung các phúc lợi và các yêu cầu công việc, chúng ta có thể thấy được những chính sách nào là thành công.

Nhưng công cuộc cải cách có thể thất bại dễ dàng. Các thử nghiệm thực tế đã không làm giảm đi số người trông chờ vào phúc lợi. Tỷ lệ này đã giảm xuống 21% kể từ đầu năm 1994, chủ yếu là kết quả từ một nền kinh tế mạnh mẽ. Các cuộc kiểm tra thực tế cho thấy có ít thiếu nữ mang thai, hôn nhân bền vững hơn, và nhà cửa tốt hơn cho trẻ em. Đây là một nhiệm vụ nặng nề - có lẽ là một trong những nhiệm vụ bất khả thi - dành cho chính phủ để tái sắp xếp đời sống gia đình và bản chất con người. Và dĩ nhiên, không phải tất cả các gia đình nghèo đều đang dựa vào phúc lợi.

Cái “kẹt” ở đây là làm sao vẫn duy trì được một mạng lưới an sinh xã hội phù hợp mà lại không quá hào phóng đến nỗi tạo ra nhiều người phụ thuộc hơn. Mayer hoài nghi việc mở rộng mạng lưới an sinh xã hội sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn. Hiện nay nó đang đáp ứng các nhu cầu cơ bản nhất của các gia đình - bà nghi ngờ đây là một trong những lý do giải thích tại sao thu nhập tăng thêm vẫn không làm cải thiện đáng kể các triển vọng của trẻ em. Nhưng bà cũng lo ngại rằng cắt giảm hỗ trợ một cách đột ngột cũng có thể có hại. Tuy nhiên, bà đã không có giải pháp phù hợp. Sau khi kết thúc nghiên cứu, bà cảm thấy chán nản do nhận thức được rằng việc chấm dứt đói nghèo “có thể là việc vượt quá khả năng của một quốc gia, ngay cả khi đó là một quốc gia giàu có”.

Newsweek

Ngày 5 tháng 5 năm 1997

CHUYỆN HOANG ĐƯỜNG VỀ “CON QUÁI VẬT” CHĂM SÓC SỨC KHỎE ĐƯỢC QUẢN LÝ

Nếu vợ hoặc con tôi bị ốm, tôi muốn dịch vụ chăm sóc y tế tốt nhất có thể dành cho họ. Tôi thậm chí còn muốn điều này cho bản thân mình. Chúng ta đều muốn thế. Nhưng nếu tất cả chúng ta đều có thể có được bất cứ dịch vụ y tế nào mà chúng ta - hoặc bác sĩ của chúng ta - muốn có, xã hội sau đó sẽ trở nên tồi tệ hơn. Các chi phí y tế dần dần tăng thêm sẽ ngăn cản chúng ta chi tiêu nhiều hơn cho bất cứ hoạt động gì khác. Đây là tình thế “tiến thoái lưỡng nan” của một quốc gia bị ám ảnh với sự sung túc của các cá nhân trong khi vẫn phải, bằng cách nào đó, gìn giữ được sự thịnh vượng chung của tập thể. Chúng ta chỉ mới nhận thức được đến mức độ này.

Cuộc tranh luận gần đây nhất về vấn đề chăm sóc sức khỏe có liên quan đến “tuyên ngôn về quyền bệnh nhân”[62], một cụm từ được cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa cùng thông qua. Tiếng nói chung là đáng kể. Nó cố gắng chiều theo (như các chính trị gia vẫn thích làm) niềm tin phổ biến rằng chúng ta có thể tránh được các chọn lựa “bát nháo” mang tính đạo đức, chính trị, kinh tế đơn giản bằng cách xây dựng luật pháp với một danh sách hấp dẫn liệt kê các “quyền” của bệnh nhân. Điều này không dễ dàng. Trừ khi người ta có thể nói “không” với các chi tiêu phù phiếm, không cần thiết, hoặc chỉ mang tính thỏa mãn cá nhân khi chăm sóc sức khỏe, các chi phí sẽ luôn vượt ngoài tầm kiểm soát của mỗi người.

Nếu ranh giới giữa việc điều trị khôn ngoan và dại dột là luôn luôn rõ ràng, sẽ có ít tranh cãi hoặc nhầm lẫn. Nhưng thường thì không phải vậy. Điều mà đối với một nhà phân tích (là người dưng nước lã) có vẻ là một cuộc phẫu thuật vô vọng lại có thể là điều bắt buộc đối với tôi - nếu bệnh nhân là con trai hoặc mẹ của tôi. Có sự va chạm khó tránh khỏi giữa bản năng cá nhân của mỗi chúng ta và lợi ích rộng lớn hơn của xã hội trong việc bảo đảm rằng các chi tiêu cho chăm sóc y tế làm cải thiện đáng kể sức khỏe của mọi người. Bất cứ ai làm việc ở vị trí “điều phối bệnh nhân”[63] (đây là vị trí thực hiện các quyết định) đều không được sự ưa thích của cộng đồng.

Trong những năm gần đây, công việc điều phối này đã ngày càng trở thành việc “chăm sóc sức khỏe được quản lý”[64]. “Tuyên ngôn về quyền bệnh nhân” đã cho thấy sự phản kháng lại loại hình này. Tất cả chúng ta đều nghe qua những câu chuyện như: phòng cấp cứu từ chối nhận bệnh vì chưa được sự chấp thuận từ trước; bệnh nhân bị ngăn cản không liên hệ được với các chuyên gia mà họ - hoặc bác sĩ của họ - muốn có; người ta vội vã ra khỏi bệnh viện trong khi họ dường như vẫn chưa bình phục. Chăm sóc sức khỏe được quản lý thường có vẻ tàn nhẫn, thất thường, và không đủ năng lực. Đôi khi sự phê phán là xứng đáng; còn thường thường nó hay bị thổi phồng.

Người ta tưởng tượng ra những điều tồi tệ nhất từ chăm sóc sức khỏe được quản lý; trong khi họ thường không có trải nghiệm về loại hình này. Một khảo sát của Quỹ Gia đình Kaiser (một tổ chức phi lợi nhuận của tư nhân, tập trung vào các vấn đề chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ và vai trò của quốc gia này đối với các chính sách sức khỏe toàn cầu - ND) cho thấy hầu hết người Mỹ đánh giá tốt về dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ: 66% những người sử dụng dịch vụ chăm sóc được quản lý là hài lòng, so với tỷ lệ 76% những người sử dụng “phí dịch vụ”. (Đối với loại hình phí dịch vụ, các bác sĩ và bệnh viện thường sắp xếp các khoản lệ phí của họ sao cho chúng sau đó thường sẽ được công ty bảo hiểm bồi hoàn lại. Chăm sóc sức khỏe được quản lý lại sử dụng các bác sĩ được trả lương hoặc thỏa thuận mức chi phí thấp hơn với bệnh nhân). Theo báo cáo của tạp chí Sức khỏe (Health Affair), cuộc khảo sát của Kaiser đã chứng minh rằng có sự lo ngại về “phạm vi điều trị” của mạng lưới chăm sóc sức khỏe, nhưng sự lo sợ này cũng cho thấy rằng “rất hiếm sự vụ là có tính đe dọa thực sự”.

Cũng là một chuyện hoang đường nếu cho rằng: trở ngại chính đối với dịch vụ y tế hiệu quả là người nhân viên kế toán khô khan làm việc trong mảng dịch vụ chăm sóc sức khỏe được quản lý. Các nghiên cứu một ngày nào đó có thể cho thấy rằng chăm sóc sức khỏe được quản lý ngày càng giảm chất lượng. Tuy nhiên, hiện nay thì các mối đe dọa phổ biến vẫn nảy sinh từ những sai lầm và sự thực hành cẩu thả của các y tá, bác sĩ và bệnh viện. Một ủy ban làm việc cho Tổng thống về vấn đề chất lượng chăm sóc sức khỏe đã nhận thấy “việc lạm dụng các dịch vụ, sử dụng không đúng mức và sai sót” là rất phổ biến.Tất cả những điều này đều xảy ra trước khi loại hình “chăm sóc sức khỏe được quản lý” mở rộng trên quy mô lớn trong thập niên 1990.

Ủy ban trên cho biết: một nghiên cứu năm 1988 về các trường hợp tử vong do đột quỵ, viêm phổi và đau tim tại 12 bệnh viện “cho thấy rằng 14% đã có thể đã được ngăn ngừa [với] sự chẩn đoán và điều trị đúng”. Theo đánh giá của các bệnh nhân tham gia chương trình Medicare[65] - hầu hết đều là dạng “lệ phí dịch vụ” - cho thấy chỉ có 21% bệnh nhân đau tim “đã nhận được thuốc beta blocker (dược phẩm trị bệnh tim mạch - ND) trong vòng 90 ngày” sau khi có cơn đau, mặc dù “người dùng beta blocker có tỷ lệ tử vong thấp hơn 43%”.

Nếu chỉ vì đó là một phương pháp điều trị được đề nghị bởi các bác sĩ có lương tâm thì cũng chưa có nghĩa là điều đó luôn luôn cần thiết. John Wennberg của Trường y khoa Dartmouth và các cộng sự của ông đã chứng minh trong các nghiên cứu rằng: nhiều bệnh nhân mắc các căn bệnh tương tự nhau thường xuyên nhận được các phương pháp điều trị khác nhau - một số phương pháp điều trị là tốn kém hơn rất nhiều so với những cách khác - với các kết quả không khác nhau là mấy. Lời hứa của loại hình “chăm sóc sức khỏe được quản lý” là thúc đẩy “các thực hành tốt nhất - best practices” bằng cách nhấn mạnh vào những gì hiệu quả và loại bỏ đi những gì không hiệu quả; mối nguy là: dưới vỏ bọc của điều này, nó sẽ từ chối hay trì hoãn sự chăm sóc hợp lý.

Các tranh luận về “quyền bệnh nhân” chỉ lướt sơ qua những vấn đề thực tiễn này và lại xem chăm sóc sức khỏe được quản lý như một “quái vật” đa năng phá hoại những lời hứa của nền y học hiện đại. Làm khác đi nghĩa là phải thừa nhận rằng chăm sóc sức khỏe được quản lý là một công cụ phân phối - một quá trình mà Người Mỹ ngày nay chối bỏ, mặc dù đó là điều không thể tránh khỏi. Có 2 vấn đề thực tiễn rất quan trọng mà các cuộc hùng biện đều thất bại.

Thứ nhất là, các phản ứng mạnh nhất chống lại loại hình này lại đến từ các bác sĩ, chứ không phải bệnh nhân. Nguồn thu nhập và tính độc lập của họ đang bị đe dọa nhiều nhất. Các quyết định của họ được xem lại và đôi khi bị đảo ngược. Họ phải đối mặt với các quy tắc và các thực hành bồi hoàn rất khó chịu. Trong các cuộc đàm phán, lệ phí của họ bị siết chặt. Trong giai đoạn từ năm 1992 đến 1994, thu nhập bình quân của các bác sĩ bị kìm hãm ở mức 182.000 dollar, mặc dù sau đó có tăng lên đến 199.000 vào năm 1996.

Thứ hai là, chăm sóc sức khỏe được quản lý (ít nhất là tạm thời) đã kiểm soát chi phí cho vấn đề sức khỏe. Từ năm 1965 đến năm 1990, chi tiêu cho y tế tăng khoảng 11% mỗi năm. Mức này đã tăng từ 5,7% thu nhập quốc dân (tổng sản phẩm quốc nội) lên tới 12,2%. Sự gia tăng này đã bất chấp vấn đề kiểm soát của chính phủ và sự tự giác điều chỉnh. Một lý do là: các bác sĩ và bệnh viện đã có lợi ích kinh tế khi yêu cầu các nghiệp vụ chăm sóc y tế càng nhiều càng tốt. Nhưng kể từ năm 1995, tỷ lệ tăng trung bình chỉ là 3 - 4%. Chi phí y tế được hạ thấp đã góp phần làm giảm lạm phát và tăng lương.

Tất cả những điều này cảnh báo sự thận trọng trong công tác ban hành luật mới. Một số tiêu chuẩn là cần thiết, bởi vì có một số nhóm chăm sóc sức khỏe được quản lý là yếu kém hơn những nhóm khác. Nên có các phản đối nhanh đối với các quyết định bất lợi về phạm vi điều trị. Việc sử dụng “thận trọng” các phòng cấp cứu cần được gìn giữ. Tuy nhiên, các đề nghị sâu rộng hơn - thể hiện chủ yếu trong các kế hoạch của đảng Dân chủ - có thể làm cho việc kiểm soát chi phí trở nên khập khiễng. Họ đưa ra nhiều quy định nhằm hạn chế quyền lực của các nhóm chăm sóc sức khỏe được quản lý trong việc giám sát các bác sĩ và bệnh viện. Những điều này giúp các bác sĩ có thể cải thiện thu nhập nhiều hơn là làm cho bệnh nhân được cải thiện sức khoẻ. Văn phòng Ngân sách Quốc hội cho biết luật này sau cùng có thể làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe thêm 4%.

Cho dù bất cứ điều gì sẽ xảy ra - tức là những đề xuất trên có trở thành luật hay không - thì “quyền bệnh nhân” vẫn là thứ mơ hồ, khó nắm bắt. Đó là một cụm từ khôn ngoan đã che lấp các lựa chọn xã hội lớn hơn. Chăm sóc sức khỏe là một dịch vụ mang tính cá nhân nhiều nhất, nhưng các hứa hẹn của nó làm cho nó trở thành thứ mang tính kỹ thuật, quan liêu, và tốn kém hơn bao giờ hết. Các thế “kẹt” chắc chắn sẽ dẫn đến nhiều cuộc tranh luận giả dối và những sự “cải cách” đáng thất vọng.

Bưu điện Washington

Ngày 29 tháng Bảy năm 1998

CHỦ NGHĨA BIỂU TƯỢNG THẬT ĐỘC HẠI

Chính trị của chúng ta ngày càng sống dựa vào các biểu tượng. Chúng ta tranh luận gay gắt hơn về các chính sách có nội dung nâng cao “các giá trị gia đình” hoặc để dập tắt thói thô tục hay để vinh danh một số nhóm, khi các chính sách này - cho dù được thông qua hay không - cũng chẳng ảnh hưởng nhiều đến hầu hết các bên hưởng lợi theo dự định trước. Những cuộc tranh luận độc hại này chủ yếu là khuyến khích sự phản kháng ầm ĩ mang tính chính trị; mỗi bên đều phô trương tính ưu việt về đạo đức của riêng mình. Thực tế được phơi bày rõ nhất là trong các vấn đề chủng tộc và sắc tộc, và nhất là trong các “hành động tích cực” nhằm khắc phục hậu quả của nạn phân biệt đối xử (affirmative action). Thật ra, cuộc tranh luận về các “hành động tích cực” hiện nay là hầu như hoàn toàn bị tách rời với các sự kiện.

Các bên đối kháng đã tự cho mình là đúng đắn khi họ đã chấp nhận những giả định phổ biến rằng các chương trình này rất quan trọng - còn tốt hay xấu là phụ thuộc vào quan điểm của từng bên - đối với các người dân bình thường của nước Mỹ. Cũng như vậy đối với các nhóm biện hộ với chủ trương cho rằng các “hành động tích cực” là liệu pháp thiết yếu cho các bất công về chủng tộc, sắc tộc, hay giới tính. Và nó phải như thế nếu các nhà phê bình cứ chê bai rằng các chính sách này cũng như là nghịch đảo của sự phân biệt đối xử, đang lan rộng. Nhưng không phải thế. Các chương trình khắc phục hậu quả nói trên không phải là vấn đề lớn đối với hầu hết người Mỹ.

Khi đề cập đến “các hành động tích cực”, tôi không có ý nói về các chương trình “nổi trội” trong trường đại học hoặc tuyển dụng việc làm. Tôi cũng không muốn nói rằng nhận thức chung về chủng tộc, giới tính, hoặc sắc tộc là nguyên nhân khiến cho các công ty hoặc trường đại học - khi đánh giá những cá nhân với thành tích như nhau - phải cố gắng để đạt được sự cân bằng về chủng tộc hay giới tính. Những hình thức nhẹ nhàng của các chính sách này chỉ khơi gợi chút ít tranh cãi. Sự bất đồng tập trung chủ yếu vào các chương trình mà chúng có thể biến thành sự ưu tiên hay các chỉ tiêu. Đó là những gì Tổng thống Clinton ủng hộ, như ông đã làm một lần nữa hồi cuối tuần tại đại hội thường niên của NAACP, và đó là nơi mà các nghiên cứu thường chỉ tìm thấy các hiệu ứng nhỏ. Hãy xem xét:

Việc nhận vào trường đại học: theo báo cáo của nhà kinh tế học Thomas Kane của Đại học Harvard và William Dickens của Viện Brookings, việc ưu tiên chỉ được ứng dụng tại các trường đại học danh tiếng (những trường mà sinh viên của nó đạt điểm SAT (điểm bài kiểm tra chuẩn đầu vào để xem xét việc được nhận vào trường cao đẳng, đại học ở Hoa Kỳ - ND) trong top 20%). Việc ngưng áp dụng ưu tiên sẽ “có tác động nhỏ” đối với những người đi vào đại học, vì hầu như tất cả mọi người vẫn đều có thể đến một trường khác (tỷ lệ chấp nhận vào học là hơn 90%). Hiệu ứng chính yếu sẽ là sự xáo trộn vị trí trong các trường “có giá”.

Việc làm: kết luận của nhà kinh tế học Rodgers William III của trường đại học cộng đồng William and Mary và William Spriggs của Bộ Thương mại cho thấy: các chương trình “hành động tích cực” này - nội dung bắt buộc đối với các công ty theo thỏa thuận với liên bang - có vẻ như chỉ nâng cao một chút lượng công ăn việc làm cho người da đen và hạ thấp số lượng việc làm dành cho người gốc Mỹ Latin. Năm 1992, tỷ lệ người da đen là người lao động cho các nhà thầu liên bang là 13%, chiếm tỷ lệ 11,7% trong toàn lực lượng lao động. Người gốc Mỹ Latin chiếm 7,1% lượng lao động của các nhà thầu, và chỉ là 7,6% trong toàn bộ lực lượng lao động. (Rodgers và Spriggs không thể giải thích sự khác biệt.)

Thu mua từ chính phủ: các chương trình “dành riêng” (set-aside) chỉ làm được chút ít để hỗ trợ doanh nghiệp thuộc sở hữu của những người dân tộc thiểu số. Hồi cuối thập niên 1980, chỉ có khoảng 12% các doanh nghiệp loại này đã bán hàng cho chính quyền tiểu bang hoặc chính quyền địa phương, và hai phần ba trong số này chỉ trông cậy vào chính phủ ở mức thấp hơn 25% doanh thu của họ - đó là nhận định của nhà kinh tế học Timothy Bates và Darrell Williams của Đại học Tiển bang Wayne. Tuy nhiên, các công ty phụ thuộc nhiều vào chính phủ (doanh thu từ việc bán cho chính phủ là băng hoặc hơn 25%) trên thực tế lại có khả năng thất bại cao hơn nhiều. Các công ty loại này dễ bị mất hợp đồng.

Những lợi ích chính yếu dành cho người da đen và phụ nữ phần lớn phát xuất từ đạo luật chống phân biệt đối xử và sự chuyển đổi của thái độ xã hội, chứ không phải từ “các hành động tích cực”. Tương tự, những vấn đề rất lớn còn tồn đọng đối với người da đen - gia đình đổ vỡ, không đủ kỹ năng làm việc - cũng bất chấp các giải pháp theo chính sách trên. Nhưng các cuộc tranh luận vẫn diễn tiến, cứ như là các chính sách này mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Các học giả thể hiện quan điểm khác cũng không chắc đã là những phê bình bảo thủ. Thông thường thì ngược lại mới phải. Kane của Harvard vẫn tán thành việc ưu tiên tại các trường đại học sáng giá. Ông nói rằng: điều quan trọng là phải có nhiều nhóm sinh viên đa dạng tại các trường - nơi cho ra các nhà lãnh đạo của xã hội. Tương tự, Rodgers và Spriggs cũng ủng hộ các yêu cầu về công ăn việc làm trong chính sách này của liên bang.

Việc nghiên cứu cho thấy vấn đề này không đơn giản. Tôi không nghi ngờ gì về việc các chương trình theo chính sách này cũng giúp ích cho một số người. Nghiên cứu của Kane nhận thấy rằng sau khi kiểm soát các yếu tố thông thường (thu nhập, gia đình, v..v...), người da đen từ các trường đại học danh tiếng cũng được hưởng mức lương - trong nhóm các mức cao - ngang bằng với người da trắng. Việc bãi bỏ các ưu đãi sẽ làm tổn thương một số người; số lượng sinh viên da đen được nhận vào trường luật UC Berkeley giảm mạnh khi các ưu đãi đã kết thúc. Nhưng những lợi ích của các chương trình này đã không còn biện minh được cho các chi phí xã hội.

Cái bị hy sinh ở đây là một nguyên tắc cơ bản - mọi người cần được đánh giá là các cá nhân độc lập, không dựa vào yếu tố chủng tộc hoặc giới tính - vì lợi ích của một số người. Các “hành động tích cực” cũng gửi đi các thông điệp gây tổn thương cho người da đen và các nhóm được ưu tiên khác. Cuốn sách Các vấn đề nội tại trong tính cách của chúng ta phát hành năm 1990 của Shelby Steele đã nêu ra vấn đề này một cách hùng hồn:

“Người da đen không thể được bồi hoàn thỏa đáng cho các đối xử bất công về chủng tộc, nhưng chúng ta có thể suy đồi bởi động thái tội lỗi của xã hội khi bồi hoàn. Các “hành động tích cực” là một động thái dạng này. Chính sách này cho chúng ta biết rằng các ưu tiên về chủng tộc có thể làm cho chúng ta những gì mà chúng ta không thể làm cho chính mình... Đây là sự khuyến khích để dựa vào người khác, trong khi chúng ta đang đấu tranh cho tự chủ”. Và thành tựu của những người thành công từ việc tự mình dám chấp nhận rủi ro lại bị kỳ thị như một thứ “sản phẩm” của các “hành động tích cực”.

Sau cùng, các “hành động tích cực” nhằm khắc phục hậu quả của nạn phân biệt đối xử lại gieo mầm cho các ý tưởng xấu về chủng tộc, sắc tộc, và giới tính. Người da trắng có thể đổ lỗi cho các thất bại (trong trường đại học hoặc trong việc làm) là do những người được hưởng lợi từ chế độ ưu tiên. Nhưng sự tức giận cũng được thổi phồng, như Kane và Dickens đã cho thấy. Họ nói: hãy xem trường Harvard. Trường này nhận được 18.000 đơn xin vào học trong khi chỉ có 1.600 chỗ mỗi năm. Khoảng 90% sẽ thất vọng. Có khoảng 15% sinh viên Harvard (vào khoảng 240 người) là người đa đen đen hay gốc Mỹ Latin. Thậm chí nếu tất cả các sinh viên hưởng lợi ích từ các chính sách ưu đãi - thực rõ ràng không phải vậy - cũng chấm dứt không nhận ưu đãi nữa thì cũng sẽ chỉ giúp có thêm 240 sinh viên da trắng. Tuy nhiên, rất nhiều người da trắng “đã nghĩ sai lầm rằng họ lẽ ra đã được nhận vào trường”, nhưng chỉ vì các ưu tiên mà họ lại không được nhận.

Tôi nghi ngờ việc các “hành động tích cực” sẽ duy trì được sự ngưỡng mộ thực sự từ các lợi ích hạn chế của nó. Trên thực tế, các chương trình này hầu như sẽ không tồn tại, bởi vì theo lời nhà khoa học chính trị George La Noue của Đại học Maryland nhắc nhở chúng ta, tòa án đang dần dần bãi bỏ các ưu tiên ngoại trừ khi ưu tiên là một liệu pháp để bồi hoàn cho hành động phân biệt đối xử đã được chứng minh. Và các cử tri California đã bác bỏ các ưu đãi trong dự Luật 209. Việc dỡ bỏ các ưu tiên sẽ là động tác dư thừa nếu chúng ta cứ tiếp tục tập trung vào tính biểu tượng nhiều hơn là vào sự kiện thực tế.

Newsweek

Ngày 28 tháng 7 năm 1997

PHÁT MINH LẠI VẤN ĐỀ HƯU TRÍ

Việc nhà du hành vũ trụ John Glenn lại bay vào không gian đã lôi cuốn hầu hết chúng ta và làm một vài người sợ hãi. Mặc dù sự kiện này có thể chủ yếu là một màn “giật gân” trước công chúng, nó chắc chắn là minh chứng cho một sự thật hiển nhiên rằng tuổi già ngày nay đã không phải như trước kia. Chúng ta sẽ không tìm hiểu nhiều về cơ thể người từ các thí nghiệm của Glenn, nhưng thực tế là một ông già 77 tuổi bay vào quỹ đạo không gian quanh địa cầu là một lời nhắc nhở sinh động về cuộc tranh luận mà chúng ta không có trên trái đất. Điều này, tất nhiên, liên quan đến sự lão hóa tất yếu của Hoa Kỳ.

Các chính sách của chúng ta đối với người cao tuổi được đặt trên các giả định lỗi thời. Khi Quốc hội xây dựng nên vấn đề An sinh xã hội trong năm 1935, tuổi thọ trung bình khi đó là 62, và số dân từ 65 tuổi trở lên là rất ít. Khi chương trình Medicare ra đời vào năm 1965, tuổi thọ trung bình đã là 70. Các giả định cho rằng những người cao tuổi - được định nghĩa là những người từ 65 trở lên - đương nhiên ốm yếu và phải phụ thuộc. Ý tưởng tốt ở đây (người ta đã nghĩ thế) là để bảo vệ người già trước sự nghèo khổ.

Nhưng các giả định nền tảng đã không còn. Tuổi thọ trung bình bây giờ là 76 - và đang đi lên. Thành tựu của Glenn là điều đặc biệt chỉ vì tầm nhìn của sự kiện này. Chúng ta mỗi ngày đều đọc tin về những người Mỹ lớn tuổi làm được những việc còn hào hứng hơn: chạy marathons, leo núi. Con người không chỉ sống lâu hơn, họ còn khỏe mạnh hơn. Sự ốm yếu mà cuối cùng sẽ tìm đến tất cả chúng ta hoặc xảy ra muộn hơn hoặc dễ điều trị hơn bao giờ hết. Nhưng 65 tuổi vẫn còn tồn tại trong nền chính trị và văn hóa phổ biến như là cái ngưỡng của “người già”.

Trong văn hóa phổ biến, quan niệm này chắc chắn sẽ sụp đổ. Các chiến tích như sự kiện của Glenn giúp đẩy nhanh quá trình đó. Khi các thành viên lớn tuổi của thế hệ Baby-Boom (những người ra đời trong khoảng từ năm 1946 đến 1964 - ND) bước vào tuổi 60 (bây giờ họ đang ngoài 50), họ sẽ vẫn tràn đầy sức sống và minh mẫn. Họ sẽ phát minh ra các cái nhãn mới - chắc chắn là có một số rất ngớ ngẩn và đầy vẻ tự phụ khoe khoang - cho giai đoạn sống sau cùng của họ. Nhưng trong chính trị, việc thay đổi là ít có khả năng xảy ra, mặc dù không hề ít cần thiết hơn trong văn hóa.

Một báo cáo gần đây của Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO) với tựa đề “Áp lực ngân sách trong dài hạn và các chọn lựa chính sách” cho thấy lý do tại sao. Năm 1997, chi phí an sinh xã hội chiếm 4% tổng thu nhập quốc dân (tổng sản phẩm quốc nội, hoặc GDP), Medicare là 3%, và Medicaid là 1%. (Medicare là chương trình bảo hiểm y tế liên bang cho người già; Medicaid bao gồm nhiều dịch vụ điều dưỡng chăm sóc tại nhà). Các chi phí này chiếm tổng cộng 8% GDP. Với các chính sách hiện nay, CBO dự kiến sẽ tăng tổng mức này lên đến 13% GDP vào năm 2020, nghĩa là tăng 63%. An sinh xã hội sẽ chiếm 6% GDP, Medicare 5% và Medicaid 2%.

Chỉ có vài cách để giải quyết: tăng phúc lợi bằng cách tăng thuế, giảm chi tiêu khác; giảm các khoản thâm hụt ngân sách lớn; hoặc giảm phúc lợi bằng cách làm cho các chương trình trở nên ít hào phóng rộng lượng hơn trước. Trong thực tế, chúng ta có thể làm tất cả bốn điều này. Nhưng khó khăn nhất - và cũng là thiết yếu nhất - là giảm phúc lợi trong tương lai.

Chúng ta cần phải phác thảo lại bản khế ước với các thế hệ sau. An sinh xã hội, Medicare, và Medicaid là các chương trình thanh toán ngay (pay-as-you-go). Những người lao động hỗ trợ những người đã về hưu. Theo CBO, trung bình một người có độ tuổi từ 65 đến 79 nhận được 12.000USD từ phúc lợi ích của liên bang (chủ yếu là an sinh xã hội và Medicare) và trả 4.800USD tiền thuế; trong khi đó, một người trung bình từ 20 đến 64 tuổi phải trả 8.100USD thuế và chỉ nhận được 1.500USD từ những khoản phúc lợi trực tiếp của liên bang. Để có các khoản phúc lợi trong tương lai chỉ hoàn toàn bằng các khoản thuế có nghĩa là phải tăng lực lượng người lao động lên rất nhiều.

Điều này là không thể biện hộ được và cũng là điều không mong muốn. Những chuyển giao lớn giữa các thế hệ đòi hỏi phải được chứng minh là đúng đắn, và sự thật là các tuyên bố về đạo đức của tuổi già và tuổi trẻ - thông qua các chương trình của chính phủ - đã mất đi nhiều quyền lực ban đầu của chúng. Điển hình là có hai lý lẽ.

Thứ nhất, người già không thể tự lo liệu cho mình, do vậy, một xã hội chu đáo cần cố gắng để đảm bảo cho họ một số tiêu chuẩn sống tối thiểu. Điều này vẫn có thể đúng, nhưng không còn đúng ở tuổi 65 và chắc chắn không đúng đối với độ tuổi 62 (độ tuổi trung bình của những người ngưng lao động).

Thứ hai, người già không có kế hoạch cho việc họ nghỉ hưu, vì họ không biết sẽ sống bao lâu. Điều này chính xác hơn trong những năm 1950 và 1960 so với ngày nay, khi đó tuổi thọ trung bình tăng đột ngột. Một người thận trọng ngày nay sẽ lên kế hoạch cho một khoảng hưu trí lâu dài. Lập luận này chỉ áp dụng cho những người sống lâu hơn so với mức trung bình.

Quay trở lại với Glenn. Kể từ sự kiện của ông, chúng ta đã nghe nhiều lập luận hùng biện về việc sử dụng hiệu quả hơn “các tài năng và năng lượng của người cao tuổi”. Vâng, việc sử dụng tốt nhất tài năng của họ sẽ có nghĩa là có nhiều người cao tuổi hơn làm việc lâu hơn. Họ cần phải trả tiền để khi nghỉ hưu sẽ nhận được nhiều hơn. Nói thẳng ra, họ không cần phải trở thành một gánh nặng cho xã hội khi còn ở độ tuổi tương đối trẻ.

Trong thực tế, nghỉ hưu “non” là việc khó khăn hơn. Tuổi đủ điều kiện nhận an sinh xã hội cần phải được nâng lên (độ tuổi để nhận phúc lợi đầy đủ bây giờ dự kiến là 67 vào năm 2027; mức này sẽ nâng cao hơn, có lẽ đến 70, và thời hạn áp dụng sẽ sớm hơn). Người già phải trả thêm các chi phí Medicare thông qua phí bảo hiểm cao hơn và phương thức đồng thanh toán (co-payment). Và giảm thuế cho những người trên 65 tuổi - bao gồm cả miễn một phần an sinh xã hội từ thuế thu nhập - nên được bãi bỏ. Như vậy việc kiểm tra thu nhập của An sinh xã hội sẽ hạn chế những người còn làm việc bằng cách giảm phúc lợi của họ.

Tất cả điều này có vẻ khắc nghiệt, thậm chí là “chống lại người cao tuổi”. Thực sự thì không phải. Tôi không đề xuất rằng tất cả mọi người nên làm việc 60 giờ một tuần và kéo dài cho đến khi 90 tuổi. Khi người ta có tuổi, họ có thể muốn kết hợp công việc và giải trí thông qua các việc làm bán thời gian, làm một khoảng thời gian trong năm, hoặc các công việc gián đoạn. Nền kinh tế Hoa Kỳ là vượt trội khi tạo ra các loại hình công ăn việc làm mới lạ để phù hợp với các nhu cầu xã hội của người dân. Và nền kinh tế sẽ cần nhiều lao động, bởi vì một nước Hoa Kỳ lão hóa sẽ chỉ có một lực lượng lao động nhỏ. Năm 1997, cứ mỗi người Mỹ 65 tuổi hoặc cao hơn lại có gần năm người Mỹ ở độ tuổi từ 20 đến 64; tỷ lệ này dự kiến vào năm 2030 sẽ giảm xuống dưới mức 1 - 3.

Tôi cũng không lập luận rằng những thay đổi về thuế và các khoản phúc lợi nên được thực hiện nhanh. Chúng cần được thực hiện theo từng giai đoạn để cung cấp cho mọi người nhiều lời cảnh báo. Tôi hiện 52 tuổi. Các thay đổi sẽ chủ yếu áp dụng với thế hệ Baby-Boom. Chúng ngăn cản chúng ta không đánh thuế nặng nề vào thế hệ đi sau. Những thay đổi càng bị trì hoãn lâu, chúng càng khó thực hiện hơn và chúng ta lại có nhiều xung đột hơn. Nhưng chúng ta hiện đang chậm trễ, một phần vì giới người cao tuổi hiện nay đã phản kháng lại bất kỳ sự thay đổi nào và các chính trị gia thì chạy theo yêu cầu của họ.

Chúng ta cần phải “phát minh lại” vấn đề nghỉ hưu. Đây không phải là một bài tập của môn kế toán. Nó phải phản ánh ý nghĩa của trách nhiệm tập thể và những thực tế xã hội hiện nay. Chuyến du hành vào không gian của Glenn cho thấy những thực tế này đã thay đổi như thế nào. Các chương trình của chúng ta dành cho người cao tuổi đã hỗ trợ ngày càng nhiều hơn những người có khả năng độc lập nhiều hơn trong thời gian ngày càng dài hơn. Những thứ đã được bắt đầu như một mối quan tâm hợp lý đến người cao tuổi thì nay lại tiến triển thành sự tranh giành ích kỷ của giới trẻ.

Bưu điện Washington

Ngày 04 tháng 11 năm 1998

PHÂN BIỆT CHỦNG TỘC VÀ SỰ NGHÈO ĐÓI

“Một định mệnh chung: người da đen và xã hội Mỹ” - một công trình nghiên cứu quy mô lớn được Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia phát hành hồi cuối tuần trước - không phải là tác phẩm dễ đọc. Hàng chục học giả làm việc trong 4 năm để hoàn thành cuộc nghiên cứu này và nó dự định sẽ cập nhật 2 báo cáo trước đó (“Một thế kẹt của người Mỹ” của nhà kinh tế học Thụy Điển Gunnar Myrdal ra đời vào năm 1944 và báo cáo của ủy ban Kerner năm 1968). Có rất nhiều tin tốt lành về việc các quan hệ chủng tộc đã được cải thiện như thế nào kể từ thập niên 1940. Tuy nhiên, thông điệp cơ bản lại làm mất hết khí thế: vấn đề chủng tộc của chúng ta ngày nay là khó giải quyết như vậy là vì nghèo đói, chứ không phải do phân biệt đối xử. Nghèo đói mới là nguyên nhân chính của tình trạng này.

Một số tin tốt được lặp đi lặp lại, bởi vì nhiều người Mỹ trẻ tuổi không biết nhiều về quá khứ khủng khiếp. Năm 1940, 77% người da đen sống ở miền Nam dưới sự phân biệt bắt buộc. Theo luật, họ được yêu cầu phải uống nước từ các vòi riêng biệt và theo học tại các trường dành riêng. Sự phân biệt đối xử “không chính thức” cũng rất phổ biến. Trong thời đại ngày nay của Michael Jordan, liệu ai có thể tin rằng người da đen chỉ đến với Hiệp hội bóng rổ quốc gia từ năm 1950? Cho đến Chiến tranh thế giới thứ II, ba phần tư trong số ít ỏi các sinh viên da đen tốt nghiệp đại học đi vào hai lĩnh vực dành riêng: giáo sĩ và giảng dạy.

Ngăn cấm các luật phân biệt đối xử cho phép nhiều người da đen tham gia vào các hoạt động chủ đạo, chính thống trong xã hội. Cố vấn an ninh quốc gia sau cùng của tổng thống Reagan là một người da đen. Năm 1940, mới chỉ có 300 kỹ sư da đen; đến năm 1980 số lượng này là 36,019 người. Tầng lớp trung lưu của người da đen đã mở rộng. Tỷ lệ các gia đình da đen có thu nhập hàng năm trên 35.000USD (đã có điều chỉnh lạm phát) là 13,1% trong năm 1967, 20,9% trong năm 1979, và 22,3% trong năm 1987. Tuy nhiên, bước tiến bộ này vẫn chưa xóa sạch đói nghèo cho người da đen. Từ năm 1967 đến năm 1987, tỷ lệ các hộ gia đình có thu nhập dưới 10.000USD tăng từ 28,3% lên đến 30%.

Giả sử có ai đó lập kế hoạch - các chương trình đào tạo, chăm sóc trẻ em, hoặc bất cứ chương trình gì - để làm cho tất cả các người nghèo trong độ tuổi lao động (người da đen, người da trắng, và những người khác) có năng suất làm việc và tự lo được cuộc sống bản thân. Giả sử kế hoạch này tiêu tốn 100 tỷ dollar mỗi năm, nhưng đảm bảo thành công trong vòng 20 năm. Linh cảm của tôi là hầu hết người Mỹ sẽ ủng hộ. Chúng ta không thích sự đói nghèo. Đó là sự hổ thẹn của quốc gia. Nó sẽ làm gia tăng tội phạm. Tuy vậy không có kế hoạch nào giống như thế này xuất hiện trong các chương trình nghị sự cộng đồng. Lý do chính, theo tôi, không phải là sự bủn xỉn keo kiệt hoặc thờ ơ lãnh đạm. Lý do chính là sự hoài nghi.

Người ta nghi ngờ năng lực của chính phủ trong việc tạo ra sự thay đổi như trên, và khi không có triển vọng tốt đẹp về một thành công, họ sẽ không đem số tiền lớn ra để “cá cược”. Chỉ cần quan sát những người da đen, chúng ta sẽ hiểu được nguyên nhân chính của việc khoảng cách giữa các tầng lớp trung lưu và người nghèo ngày càng rộng hơn. Đó là sự đổ vỡ trong gia đình. Một nửa của tất cả các gia đình người da đen có trẻ em dưới 18 tuổi có người chủ gia đình là phụ nữ, tỷ lệ này đã tăng lên từ một phần tư trong năm 1960. Một nửa số trẻ em da đen sống trong những gia đình do phụ nữ quản lý chính; và hai phần ba trẻ em trong số này sống trong cảnh nghèo đói (theo định nghĩa của chính phủ).

Có rất nhiều lý thuyết giải thích tại sao nhiều người đàn ông da đen lại chối bỏ con cái họ. Phúc lợi xã hội (người ta vẫn nói thế) dành cho người phụ nữ một sự chọn lựa thay thế và nam giới được giải thoát khỏi trách nhiệm. Mặc dù công trình nghiên cứu “người da đen và xã hội Mỹ” đã thu nhỏ ý tưởng này, nhưng có lẽ nó vẫn để cập đến. Người đàn ông da đen thường không thể hỗ trợ cho gia đình họ, ngay khi họ sống với gia đình; tỷ lệ có việc làm của họ đã giảm, và tỷ lệ tội phạm lại tăng. Từ năm 1970, nhiều công việc yêu cầu tay nghề thấp nhưng lương cao đã biến mất và tốc độ tăng lương đã chậm lại. Năm 1972, gần ba phần tư số nam giới da đen trên 20 tuổi là có việc làm; hiện nay tỷ lệ này chỉ là hai phần ba.

Không có một phép màu trong nền kinh tế, sẽ không có các phương cách dễ dàng để đạt các thành tựu sáng chói chống lại những xu hướng trên. Cũng vì chính những xu hướng đó mà việc gia tăng nhiều hơn các dịch vụ học hành và các dịch vụ xã hội cũng không phải là giải pháp. (Thật vậy, tình trạng đói nghèo của người da đen vẫn tiếp tục tồn tại mặc dù có các thành tựu về số lượng người đi học. Người da đen ngày nay thường là đã tốt nghiệp trung học; trong khi những năm 1960 hầu hết chỉ học tới trung học cơ sở, tương đương lớp 9 tại Hoa Kỳ - ND.) Họ trở nên tự lực kiếm sống và có năng suất chủ yếu là từ các nỗ lực của chính họ. Những gì chính phủ có thể làm là giúp đỡ những người biết tự thân vận động cho mình. Để hỗ trợ tất cả những người nghèo (chứ không chỉ là người da đen), chúng ta nên:

thưởng cho công việc. Người lao động nghèo cần được giữ tất cả những gì họ kiếm được trên thị trường. Điều này có nghĩa là bồi hoàn lại các loại thuế mà họ phải đóng góp - chủ yếu thông qua An sinh xã hội và các loại thuế kinh doanh - thông qua một khoản nợ thuế thu nhập hào phóng. Quốc hội đang dịch chuyển theo hướng này. Tuy nhiên, quy mô và phạm vi ứng dụng của việc giảm thuế cần được mở rộng hơn nữa. Hiện tại, chỉ có người lao động có con cái (bao gồm cả những người cha, người mẹ nuôi con một mình) là đủ điều kiện hưởng ưu đãi. Cần áp dụng cho cả người lao động độc thân và các cặp vợ chồng nghèo chưa có con.

nhấn mạnh công tác đào tạo. Điều quan trọng là sự đào tạo, chứ không phải vấn đề trường lớp. Các bằng cấp là không có giá trị khi chúng không phản ánh được những kỹ năng và kiến thức thực sự. Các bài kiểm tra năng lực nghiêm ngặt để lấy văn bằng trung học và công việc giảng dạy là rất quan trọng. Nếu không có áp lực lớn cho các tiêu chuẩn cao hơn, đổ thêm tiền cho trường lớp chỉ là sự lãng phí. Hạ thấp các tiêu chuẩn để ngăn chặn tình trạng bỏ học có thể giúp nâng cao tỷ lệ học sinh sinh viên đến trưởng, nhưng sẽ không cải thiện được viễn cảnh của họ.

coi tội phạm là vấn đề nghiêm trọng. Người da đen cũng là nạn nhân của tội phạm da đen thường xuyên nhất. Đối với giới trẻ, tội phạm không khuyến khích họ làm việc và làm xói mòn sự học hành bởi vì phạm tội là có tiền ngay. Phạm tội cũng dẫn đường đến với ma túy - thứ này lại khuyến khích phạm tội nhiều hơn - và gây kinh hoàng cho các khu phố. Coi tội phạm là vấn đề nghiêm trọng có nghĩa là cần có nhiều cảnh sát, công tố viên và nhà tù hơn.

Khó khăn đối với những ý tưởng đơn giản trên là vấn đề chi phí (mặc dù không phải là quá nhiều trong một nền kinh tế 5 nghìn tỷ dollar) và thành quả tốt nhất chỉ là những chuyển biến dần dần. Nhưng không có hành động gì còn là điều nguy hiểm hơn. Sự kết nối đáng sợ giữa kinh tế và cảm xúc này là: đói nghèo sản sinh ra phân biệt chủng tộc. Như tác phẩm “Người da đen và xã hội Mỹ” đã cho thấy, vẫn còn những những khoảng cách rất lớn trong thái độ đối xử giữa người da đen và người da trắng. Nhiều người da trắng nghĩ rằng sự phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử chỉ là những chuyện thuộc về quá khứ, trong khi nhiều người da đen lại đổ lỗi cho người da trắng đã đẩy họ xuống đẳng cấp thấp hơn.

Thói đạo đức giả (của người da trắng) và tự huyễn hoặc mình (của người da đen) xuất hiện nhiều trong các thái độ trên. Vâng, người da trắng ủng hộ sự bình đẳng chủng tộc trong các cuộc thăm dò ý kiến, nhưng nhiều người trong số họ tránh xa các khu phố có nhiều người da đen. Vì vậy, sự phân biệt về nơi cư trú vẫn còn là phổ biến. Trong khi đó, người da đen tự lừa dối chính mình với suy nghĩ cho rằng các vấn đề của họ sẽ giảm bớt chỉ khi người da trắng quan tâm chu đáo hơn và cố gắng nhiều hơn. Ví dụ, các “hành động tích cực” nhằm khắc phục hậu quả của nạn phân biệt đối xử sẽ không giải quyết được nạn đói nghèo của người da đen. Nó sẽ không biến một người da đen không có tay nghề chuyên môn thành người lập trình trên máy tính.

Một xã hội mà trong đó người da đen và da trắng không có cơ hội ngang nhau trong cuộc sống đã phủ nhận “giấc mơ Mỹ”. Từ đó, nghèo đói và nạn phân biệt chủng tộc gần như buộc phải cùng nhau tồn tại. Chừng nào tỷ lệ nghèo đói của người da đen vẫn ở mức cao, thì nhiều người da trắng sẽ giả vẫn định rằng: tất cả người da đen đều nghèo khổ. Và rất nhiều người da đen sẽ tiếp tục nghĩ nông cạn, đổ trách nhiệm cho người da trắng về tất cả các điều tệ hại của mình. Chính sự liên hệ này làm cho vấn đề chủng tộc của chúng ta càng trở nên đáng bi quan hơn.

Newsweek

Ngày 07 tháng 8 năm 1989

TÌNH THẾ “TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN” ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT

Gần một thập kỷ sau khi ra đời, Đạo luật bảo vệ người Mỹ khuyết tật (Americans with Disabilities Act - ADA) năm 1990 là một tình huống minh họa cho sự hạn chế trong việc tạo dựng thái độ và hành vi xã hội (social engineering). Tuần trước, Tòa án tối cao hoặc đã xóa sổ những nội dung cốt lõi của ADA, hoặc biến Đạo luật này trở thành một lẽ thường, tùy theo quan điểm riêng của bạn. Tòa án phán quyết rằng những người có các khiếm khuyết phổ biến (ví dụ: thị lực kém buộc phải đeo kính) không phải là “người tàn tật” theo pháp luật. Nhưng ngay cả khi tòa án đã làm theo cách khác, nó có thể không có viết lại hồ sơ với các thành tựu hết sức mờ nhạt của ADA.

ADA nhắm đến mục tiêu là đem lại việc làm cho hầu hết những người khuyết tật Mỹ để họ tham gia vào các hoạt động chủ đạo, chính thống trong xã hội. Làm việc (theo logic) sẽ giúp tăng thu nhập, hạn chế mức độ phụ thuộc và nâng cao lòng tự trọng. Vì vậy, ADA ngăn cấm việc phân biệt đối xử với người khuyết tật và yêu cầu người sử dụng lao động phải cung cấp “sự điều chỉnh hợp lý” cho người lao động tuy khuyết tật nhưng có đủ năng lực làm việc. Mặc dù có những động thái bảo vệ quyền lợi như trên, ADA đã chỉ làm cho số lượng việc làm của hầu hết những người khuyết tật tăng thêm chút ít.

Cục điều tra dân số và kinh tế Hoa Kỳ (Census Bureau) cho biết có khoảng 9% dân số trong độ tuổi lao động (từ 20 đến 64) là người “khuyết tật nghiêm trọng”, có nghĩa là, nhìn chung, họ phải sử dụng xe lăn hoặc gậy, có vấn đề nghiêm trọng đối với thính giác hoặc thị giác, hoặc thiểu năng trí tuệ. Tỷ lệ có việc làm của những người này tăng từ 23% đến 26% trong giai đoạn 1991 - 1994. Một cuộc thăm dò ý kiến tư nhân của nhóm Harris thực hiện vào năm 1998 cũng cho thấy con số tương tự. Có thể hiểu là số lượng người khuyết tật có làm việc tăng thêm (800.000 người từ năm 1991 đến 1994) là thành quả của ADA. Nhưng nó cũng có thể phản ánh sự phục hồi của nền kinh tế.

Điều này không có nghĩa là ADA hoàn toàn thất bại. John Lancaster, giám đốc điều hành của Ủy ban trực thuộc Tổng thống phụ trách vấn đề Việc làm cho Người khuyết tật, nhận định theo hướng: “ADA [đã làm thay đổi] thái độ về người khuyết tật: những gì họ có thể và không thể làm được... Họ có thể được xã hội biết đến nhiều hơn. Bạn có thể thấy ngày càng nhiều người [khuyết tật] trong số này. Những vấn đề về thái độ đối xử đã không còn khi bạn nhìn nhận con người đúng là người chứ không phải là cái xe lăn.”

Quan điểm là vậy. ADA cũng đã làm cho môi trường công cộng trở nên thân thiện hơn đối với người khuyết tật. Các doanh nghiệp và chính phủ đã phải tự làm cho họ trở nên dễ tiếp cận hơn. Cửa ra vào được nới rộng thêm, lề đường hạ thấp xuống, nhà vệ sinh mở rộng thêm, xây dựng các đoạn dốc và chỗ đậu xe dành riêng. Rất nhiều những thứ này là không có hiệu quả kinh tế. (Các xe buýt mà tôi thường đi có trang bị thang máy để phục vụ xe lăn, tuy nhiên tôi chỉ nhìn thấy chúng được sử dụng chỉ một lần) Nhưng, những thay đổi không chỉ giúp ích cho người khuyết tật, chúng còn báo hiệu sự chấp nhận lớn hơn của cả xã hội.

Tuy nhiên, hiệu quả trong vấn đề việc làm là yếu. Tại sao vậy?

Các Đạo luật có thể làm được rất nhiều. Ngay từ trước khi có ADA, nhiều người tàn tật nặng vẫn làm việc. Người ta xét đến tầm quan trọng của tính cách và hoàn cảnh. Một người bạn thân của tôi là biên tập viên báo chí, mắc bệnh Parkinson từ một thập kỷ trước. Ông không bao giờ nghĩ đến chuyện bỏ việc, và thậm chí không có ADA, tôi hoài nghi chuyện tờ báo của ông có thể sa thải ông ta. Ông có năng lực lớn và rất tận tâm. Nhưng ADA lại nêu ra vấn đề cần tranh luận bằng cách yêu cầu bên sử dụng lao động phải có sự “điều chỉnh hợp lý”.

Các chi phí cho việc này có lẽ là không cao. Cũng theo Ủy ban trên thì trong khoảng 70% các trường hợp, các công ty chỉ bỏ ra chi phí dưới 500USD. Sai lầm ở đây là giả định đi kèm cho rằng: người khuyết tận thiếu việc làm phần lớn là bởi vì người sử dụng lao động thờ ơ, không hiểu biết, hoặc có thái độ thù địch. Một sự thật tệ hại hơn là một số người khuyết tật không thể làm việc - và một số còn không muốn làm. Vậy phải làm sao?

Vâng, phải xây dựng một mạng lưới an sinh xã hội. Năm 1998, các chương trình an sinh xã hội dành cho người khuyết tật đã có 6,3 triệu người thụ hưởng và chi phí là 48 tỷ dollar; chương trình an sinh thu nhập phụ trợ có 5,3 triệu người khuyết tật thụ hưởng và chi phí là 24 tỷ dollar. Hầu hết cũng đều đã nhận bảo hiểm y tế của chính phủ, các chương trình Medicare hay Medicaid.

Ở đây phát sinh một mâu thuẫn lớn. ADA muốn người khuyết tật vào làm việc. Nhưng nếu bạn trả tiền cho những người khuyết tật, hơn sẽ có nhiều người hơn nói rằng họ là người khuyết tật và sẽ không làm việc nữa. Điều này đặc biệt đúng đối với những người có kỹ năng thấp, có triển vọng công việc và mức lương tiềm năng là xấu nhất. Năm 1994, chỉ có một nửa trong tổng số các sinh viên tốt nghiệp đại học “là người khuyết tật nghiêm trọng” là đi làm. Đối với các người khuyết tật tốt nghiệp trung học, tỷ lệ đi làm là dưới một phần ba. Cách đơn giản nhất để tăng thêm số lượng việc làm của những người khuyết tật là giảm phúc lợi dành cho họ hoặc nâng cao các điều kiện để thụ hưởng phúc lợi.

Điều này là không khả thi. Có vẻ nhẫn tâm. Thật ra, các điều kiện để được coi là người khuyết tật đã ngày càng được nới lỏng ra hơn, theo thời gian. Nhiều nhóm biện hộ muốn có nhiều người khuyết tật hoạt động trong các công việc chủ đạo, chính thống cũng muốn có thêm nhiều người được coi là khuyết tật. Họ thấy có xung đột nhỏ giữa việc yêu cầu rằng người khuyết tật cũng được đối xử giống như mọi người bình thường k