Chương 15 MỘT LUẬN ÁN THI TIẾN SĨ -VÀ MỘT CÂU CHUYỆN NĂM PHÚT
Đối với khoa học, thì những người phục vụ, dù giàu hay nghèo, sướng hay khổ, khỏe hay yếu, có gì là quan trọng. Họ sinh ra để tìm tòi, để phát minh, và cho đến lúc sức tàn, lực kiệt, họ vẫn cứ sẽ tìm tòi và phát minh. Một nhà khoa học khó mà cưỡng lại chí hướng của mình. Ngay những khi chán nản, bực bội, nhà bác học chỉ biết quay về với những dụng cụ phòng thí nghiệm.
Vậy thành tựu rạng rỡ mà Pi-e và Ma-ri đã đạt được trong những năm tháng khó khăn ấy không có gì đáng ngạc nhiên. Học thuyết phóng xạ mới ra đời đang lớn như thổi, nảy nở tốt tươi; đồng thời, làm kiệt lực dần hai nhà vật lý đã sinh ra nó.
Từ năm 1899 đến năm 1904, tất cả 32 bản thông báo khoa học đã được ông bà Qui-ri công bố đứng tên chung, hoặc tên riêng, hoặc cùng làm với một bạn đồng sự. Đầu đề kì quặc khó hiểu, nội dung chi chít những đồ thị và công thức làm cho người ngoài nghề phát khiếp. Tuy nhiên, mỗi bản báo cáo là một thắng lợi, khi đọc danh sách khô khan những thông báo quan trọng nhất, ta hãy nghĩ đến bao nhiêu công phu tìm tòi, kiên trì và sáng tạo:
- Về tác dụng hoá học của những Ra-đi (Ma-ri Qui-ri và Pi-e Qui-ri 1899).
- Về trọng lượng của nguyên tử của Ra-đi mang chất Ra-đi (Ma-ri Qui-ri 1900).
- Về chất phóng xạ cảm ứng do muối Ra-đi (Pi-e Qui-ri và Ang-đrê Đờ-biếc-nơ, 1901)
- Tác dụng sinh lý của tia Ra-đi (Pi-e Qui-ri và Bếch-cơ-ren,1901).
- Về tính phóng xạ cảm ứng và về khí tỏa của Ra-đi (Pi-e Qui-ri 1903)
- Về nhiệt tự phát tỏa ra từ muối Ra-đi (Pi-e Qui-ri và A. La-boóc-đơ, 1903)
- Nghiên cứu về các chất phóng xạ (Ma-ri Qui-ri, 1903)
- Về tính phóng xạ của khí thoát ra ở suối nước nóng (Pi-e Qui-ri, Sác-lơ bu-xa và V. Ban-ta-da 1904).
Thuyết phóng xạ nhanh chóng lan rộng từ Pháp ra các nước ngoài. Ngay từ 1900, nhiều nhà khoa học có tên tuổi tại Anh, Đức, Áo, Đan Mạch, tới tấp gửi thư đến hỏi ý kiến. Ông bà Qui-ri liên tục trao đổi thư từ với Uy-li-am Crúc-cơ người Anh, với các giáo sư Suy-ét và Bôn-đơ-man ở Áo; với nhà thám hiểm Pôn-ven người Đan Mạch. “Cha mẹ đẻ” của Ra-đi gửi cho các bạn đồng nghiệp những lời giải thích và hướng dẫn về kĩ thuật. Trong nhiều nước, những nhà nghiên cứu lao vào đi tìm những chất phóng xạ mới. Quả là một cuộc tìm tòi bổ ích, đã phát hiện ra những chất như Mê-đô-tô-ri, Ra-đi-ô-tô-ri, i-ô-ni, prô-lắc-ti-ni v.v…
Năm 1903, hai nhà bác học người Anh Răm-xay và Xô-đi chứng minh rằng chất Ra-đi luôn luôn tỏa ra một lượng nhỏ khí Hê-li. Đây là một bằng chứng rõ rệt đầu tiên về biến đổi nguyên tử. Ít lâu sau, cũng ở Anh, Rơ-đơ-pho và Xô-đi lập lại một giả thuyết do Ma-I đề ra từ năm 1900 và cho in thuyết “Biến đổi phóng xạ”. Họ khẳng định rằng các chất phòng xạ, tuy bề ngoài như không biến đổi, vẫn ở một trạng thái tiến triển tự phát: biến thiên càng nhanh chóng thì hoạt tính càng cao.
Sau này Pi-e Qui-ri viết:
“Đây là hiện tượng thoái biến của các đơn chất, nhưng không phải như các nhà luyện kim thời xưa đã hiểu. Chất vô cơ nhất định phải tiến triển qua các thời đại và theo những định luật không thay đổi”.
Chất Ra-đi thần kỳ! Tinh khiết dưới dạng clo-rua, đó là một thứ bột trắng đục trong như muối ăn. Nhưng những tính chất của nó càng ngày càng được hiểu rõ thêm làm cho ta kinh ngạc. Tia phóng xạ của Ra-đi, đã giúp hai nhà bác học Pi-e và Ma-ri Qui-ri khám phá ra nó, có cường độ vượt tất cả sự ước lượng. Ra-đi phóng xạ mạnh hơn u-ra-ni hàng triệu lần. Khoa học đã phân tích, chia phóng xạ Ra-đi thành ba loại tia khác nhau, có thể xuyên qua các chất mờ nhất, và đồng thời biến dạng đi. Chỉ có một tấm bình phong dày bằng chì mới cản được chúng.
Chất Ra-đi tự tỏa ra một chất khí đặc biệt luôn luôn kèm với nó như bóng với hình, đó là khí tỏa của Ra-đi cũng có tính hoạt động và ngay để trong ống nghiệm bằng thủy tinh cũng tự phân hủy từng ngày từng giờ theo một quy luật nhất định.
Trong nhiều suối nước nóng cũng có khí ấy.
Lại thêm một thách thức khác đối với những thuyết trước kia tưởng như là nền móng bất di bất dịch của ngành vật lý. Ra-đi phát nhiệt một cách tự phát. Trong một giờ, nó có thể tỏa ra một lượng nhiệt làm tan một lượng đá bằng trọng lượng của nó. Nếu giữ cho nó không bị nguội đi, nó sẽ nóng lên và nhiệt độ của nó sẽ tăng thêm mười độ hay hơn nữa so với môi trường xung quanh.
Khả năng của nó thật kì diệu: nó tác động vào kính ảnh bọc trong giấy đen; nó làm cho khí trời dẫn điện và từ xa đã làm cho một máy điện nghiệm phóng điện. Những lọ thủy tinh đựng chất Ra-đi đều chuyển sang màu tím hoặc màu hoa cà; giấy hoặc bông bọc chất Ra-đi đều bị Ra-đi gặm dần và tan thành bụi.
Ra-đi phát sáng như ta đã biết, Ma-ri viết:
“Sự phát sáng ấy không thể thấy được ban ngày, nhưng dễ nhận thấy ở nơi tranh tối tranh sáng. Với một ít chất ở trong tối ánh sáng phát ra có thể đủ đọc sách”.
Chất Ra-đi không giữ riêng cho mình cái khiếu màu nhiệm đó, Ra-đi còn làm cho rất nhiều đồ vật khác phát lân. Ví dụ: kim cương.
Dùng Ra-đi có thể phân biệt kim cương thật với kim cương giả vì tính phát lân của kim cương giả rất yếu.
Các tia Ra-đi còn hay “lây” nữa, lây như một mùi hương dai dẳng, lây như bệnh truyền nhiễm.
Bất cứ một vật gì, một cây cỏ, một con vật hoặc một người đặt bên cạnh một ống Ra-đi, đều tiếp thu một “hoạt tính” đáng kể. Tính hay lây đó là kẻ thù thường xuyên của Pi-e và Ma-ri vì nó làm rối loạn kết quả của những thí nghiệm chính xác.
Marie viết:
“Khi nghiên cứu các chất phóng xạ mạnh, nếu muốn tiếp tục đo lường tỉ mỉ thì phải đặc biệt cẩn thận. Các dụng cụ dùng trong phòng thí nghiệm hóa học và các dụng cụ dùng cho thí nghiệm vật lý chẳng bao lâu cũng trở thành phóng xạ và tác động vào kính ảnh xuyên qua những giấy đen bọc ngoài. Bụi, không khí trong phòng, quần áo đều có phóng xạ. Không khí trong phòng cũng thành dẫn điện. Trong phòng thí nghiệm của chúng tôi, tình trạng này đã đến mức nghiêm trọng, không còn có được một dụng cụ nào hoàn toàn cách ly mà không bị nhiễm phóng xạ”.
Sau này, khi ông bà Qui-ri không còn nữa, những cuốn sổ tay của hai nhà bác học, ba, bốn mươi năm sau vẫn còn một “hoạt tính” sinh động và bí mật, và vẫn ảnh hưởng đến những dụng cụ đo lường.
Phóng xạ, tỏa nhiệt, phát sinh ra khí hê-li và khí tỏa, tự phân ra, tự phát, tất cả những hiện tượng đó đã vượt xa những thuyết về vật chất trơ, về nguyên tử không thay đổi. Trước kia những nhà bác học tưởng rằng vũ trụ gồm những chất đã được xác định, những nguyên tố cố định. Thế mà giờ đây mỗi giây phút qua đi, các mảnh Ra-đi phóng xạ những nguyên tử hê-li và bắn chúng ra ngoài với sức mạnh ghê gớm. Kết quả của sự bắn phá nhỏ bé và rùng rợn ấy – mà Ma-ri gọi là “tai biến lớn” – của sự thay đổi nguyên tử là một nguyên tử khí tỏa ra và bản thân nguyên tử này cũng sẽ biến thành một chất phóng xạ khác – và chất này đến lượt nó cũng sẽ lại biến đổi! Thế là các nguyên tố phóng xạ hợp thành những dòng họ lạ lùng và tàn nhẫn mà mỗi thành viên sinh ra bởi sự thay đổi tự phát của chất mẹ: chất Ra-đi là “con” của chất u-ra-ni, chất Pô-lô-ni là “con” của chất Ra-đi. Những chất ấy mỗi lúc sinh ra lại tự hủy theo những quy luật muôn thuở: Mỗi một nguyên tố phóng xạ mất đi một phân nửa chất của mình trong một thời gian không thay đổi gọi là “chu kì” của nó. Muốn giảm đi nửa, u-ra-ni phải mất một vài tỉ năm, Ra-đi 1600 năm, khí tỏa của Ra-đi bốn ngày, những “con cháu” của khí tỏa thì vài giây.
Ra-đi còn có thể tạo thêm hạnh phúc cho con người. Nó sẽ trở thành bạn đồng minh của người, chống lại một căn bệnh hiểm nghèo, bệnh ung thư. Năm 1900, hai nhà bác học Đức, Van-cốp và Ghi-den tuyên bố rằng Ra-đi có tác dụng về sinh lý. Không ngại nguy hiểm Pi-e Qui-ri sẵn sàng thí nghiệm tác dụng của Ra-đi trên tay mình. Ông vui mừng khi thấy một vết thương hiện ra! Trong một bản báo cáo ở Hàn lâm viện khoa học, Pi-e mô tả những hiện tượng nhận xét được.
“Da trở nên đỏ trên một diện tích sáu xăng-ti-mét vuông: bề ngoài trông như một vết bỏng nhưng da không đau hoặc hơi đau thôi. Ít lâu sau, độ đỏ tăng lên nhưng không loang ra, đến ngày thứ hai mươi thì đóng vẩy, được băng bó, đến ngày thứ bốn mươi hai da non bằt đầu mọc từ mép vết thương mọc dần vào giữa, và năm mươi hai ngày sau khi tác động của các tia, vẫn còn một vết thương bề mặt độ một xăng-ti-mét vuông, màu xám, cho biết là thịt ở chỗ đó đã chết một khoảng sâu hơn nữa.
Bà Qui-ri khi di chuyển một vài xăng-ti-gam chất có hoạt tính mạnh cũng bị những vết bỏng tương tự mặc dầu ống nghiệm đã được đựng trong một hộp mỏng bằng kim loại.
Với các chất có hoạt tính mạnh, chúng tôi còn bị những tác động khác trên bàn tay, thường là bị bong vẩy, nhưng đầu ngón tay cầm đầu ống nghiệm và bắt đầu sử dụng các chất đó trở nên cứng và có khi rất đau. Một người trong chúng tôi bị bỏng đầu ngón tay mất mươi lăm ngày, sau đó bong da, nhưng cảm giác đau đớn sau hai tháng vẫn chưa dứt hẳn”.
Hăng-ri Bếch-cơ-ren khi mang ống nghiệm bằng thủy tinh đựng chất Ra-đi để trong túi áo gi-lê cũng bị một vết bỏng không ngờ. Kinh ngạc và bực bội, ông đến ngay nhà Qui-ri để than phiền về chiến công của đứa con đáng sợ ấy. Sau cùng ông kết luận:
“Chất Ra-đi, tôi yêu nó nhưng tôi cũng giận nó”… rồi ông vội lấy những kết quả của cuộc thí nghiệm không cố ý đó, đăng trong báo cáo ngày 3 tháng sáu năm 1901 bên cạnh những nhận xét của Pi-e.
Rất ngạc nhiên trước tác dụng kì lạ của tia Ra-đi, Pi-e tiếp tục nghiên cứu trên các loài vật. Ông cộng tác với các bác sĩ cao cấp, các giáo sư Bu-xa và Ban-ta-da. Không bao lâu, họ biết chắc chắn rằng: bằng cách hủy diệt tế bào có bệnh, tia Ra-đi chữa được những u và một vài dạng ung thư. Cách chữa ấy sau này gọi là phương pháp điều trị Qui-ri. Nhiều bác sĩ người Pháp lần đầu tiên áp dụng cách chữa ấy cho người bệnh có hiệu quả. Họ dùng những ống khí tỏa Ra-đi của Pi-e và Ma-ri cho mượn.
Ma-ri viết:
“Tác dụng của Ra-đi trên da được bác sĩ Đô-lốt, ở bệnh viện Xanh Lu-I nghiên cứu đi đến những kết quả phấn khởi, biểu bì đã bị chết một phần, lại tái sinh lành lặn như cũ”.
Chất Ra-đi có ích – rất có ích.
Kết quả trực tiếp của sự khám phá đó đã rõ ràng. Nguyên tố mới này, không chỉ còn thuộc lĩnh vực thí nghiệm, nó đã thành cần thiết và có lợi. Một nền công nghiệp Ra-đi sắp ra đời.
Pi-e và Ma-ri trông nom cho bước khởi đầu của công nghệ ấy. Họ tự tay làm ra – phần lớn do Ma-ri – một gam Ra-đi đầu tiên chế hóa từ tám tấn xỉ pếch-blen ở nhà xe trường Vật lý, theo một phương pháp tự đặt ra. Dần dần những tính chất của Ra-đi kích thích óc sáng kiến của giới khoa học, hai vợ chồng Qui-ri được nhiều cộng tác có hiệu quả để tổ chức sản xuất qui mô.
Việc chế biến quặng theo quy mô lớn bắt đầu dưới sự điều khiển của Ăng-đrê Đơ-biếc-nơ, ở tổng công ty Hóa chất, công ty này nhận làm giúp không lấy lãi. Năm 1902, Hàn lâm viện khoa học trợ cấp cho ông bà Qui-ri hai mươi nghìn phơ-răng “để khai thác các chất phóng xạ”, nhờ đó có thể bắt tay ngay vào việc tinh chế năm tấn quặng.
Năm 1904, một nhà kĩ nghệ Pháp khôn ngoan lá Ác-mê Đờ-lin nghĩ đến xây dựng một nhà máy sản xuất Ra-đi dùng trong y học để chữa các u ác tính. Pi-e và Ma-ri được một gian nhà ở liền nhà máy để tiến hành những việc mà nhà xe ghép ván chật hẹp không cho phép. Ông bà Qui-ri đào tạo ra những cộng tác viên như Hô-dơ-panh và Giắc-đan. Hai người này được giao việc khai thác chất quý đó.
Gam Ra-đi đầu tiên được Ma-ri nâng niu gìn giữ. Sau này bà sẽ tặng lại phòng thí nghiệm. Từ trước đến nay và mãi mãi về sau nó chỉ có thể đánh giá bằng sức lao động tận tuỵ của Ma-ri mà thôi. Và khi bà Qui-ri không còn nữa, gam Ra-đi ấy vẫn sẽ là tượng trưng rực rỡ cho một sự nghiệp vĩ đại và một khoảng thời gian anh dũng của hai cuộc đời.
Những gam Ra-đi sản xuất sau đó có một giá trị khác: giá một cáng. Trên thị trường, nó là chất đắt nhất thế giới, mỗi gam tới bảy trăm năm mươi nghìn phơ-răng vàng.
Một chất đặc biệt quý giá như thế cần được bàn luận tới. Tháng giêng 1904, tạp chí “Chất Ra-đi” dành riêng nói về các chất phóng xạ ra đời. Ra-đi cũng dành được một cương vị thương mại. Nó có chỉ số mua bán và báo chí riêng. Chẳng bao lâu, trên giấy tờ có đề tự của nhà máy Ác-mê Đờ-lin, người ta sẽ đọc những dòng chữ lớn:
MUỐI RA-ĐI CHẤT PHÓNG XẠ
Địa chỉ điện tín: “Ra-đi – No-giang – Trên sông MAC-NƠ”
*Có được những công trình nghiên cứu sáng tạo của bao nhà khoa học các nước, có được một nền công nghiệp mới và một phương pháp chữa bệnh mới đó là nhờ một thiếu phụ Ba Lan tóc hung, ham mê tìm tòi học hỏi, năm 1897 đã chọn đầu đề làm luận án là sự nghiên cứu các tia Bếch-cơ-ren. Đó là nhờ bà đã đoán được rằng quặng pêch-blen chứa đựng một chất mới và cùng dốc sức với chồng, bà chứng minh được sự tồn tại của chất đó. Đó là nhờ bà đã thành công trong việc tách riêng ra chất Ra-đi nguyên chất.
Người đàn bà trẻ tuổi ấy hôm nay đứng đây, ngày 25 tháng sáu 1903, trước bảng đen trong một phòng nhỏ ở Xoóc-bon, cái phòng “sinh viên” mà người ta đi lên bằng một cái thang máy trôn ốc ở một bên và kín đáo. Từ khi Ma-ri bắt đầu chuẩn bị luận án đến nay đã hơn năm năm. Bị lôi cuốn trong cơn lốc của một phát minh vĩ đại, bà cứ hoãn mãi kì thi tiến sĩ, vì không có thì giờ thu thập tài liệu. Hôm nay bà đến trước các giám khảo.
Theo tục lệ Ma-ri nộp cho ban giám khảo gồm các ông Líp-man, Bu-ti, Moát-xăng để duyệt, văn bản công trình của mình: “Nghiên cứu các chất phóng xạ”. Và, hiện tượng bất ngờ! Ma-ri mặc một cái áo mới màu đen bằng “lụa pha len”. Nói cho đúng, bà chị Brô-ni-a đến Pa-ri trong dịp cô em bảo vệ luận án đã kêu trời vì mấy mảnh quần áo nhẵn bóng của Ma-ri và khăng khăng kéo Ma-ri vào một hiệu may. Chính Brô-ni-a đã hỏi giá cả, xem vải và quyết định những chỗ phải sữa chữa, không hề để ý đến vẻ mặt cau có của em mình.
Brô-ni-a đã từng dẫn Ma-ri đi may mặc, cũng với một sự chăm sóc ân cần, cảm động như vậy, vào một buổi sáng tháng sáu rực rỡ khác, không kém phần long trọng. Cách đây hai mươi năm, năm 1883, cô bé Ma-ni-u-sa cũng mặc đồ đen như bây giờ, miễn cưỡng nhận từ tay một nhân viên Nga hoàng chiếc huy chương vàng của một trường trung học ở Vác-xô-vi…
Ma-ri Qui-ri đứng rất thẳng. Khuôn mặt xanh xao, dưới bộ tóc màu nhạt chải ngược bồng lên, để lộ một vầng trán rộng, in mấy nếp nhăn li ti, dấu hiệu cuộc chiến đấu mà bà đã thắng. Trong gian phòng đầy ánh sáng, các nhà vật lý, các nhà hóa học ngồi chật ních. Phải kê thêm ghế: tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề sắp tới đã lôi kéo tất cả giới khoa học.
Cụ bác sĩ Qui-ri, Pi-e và Brô-ni-a, ngồi ở cuối phòng xen lẫn với sinh viên. Gần đấy một nhóm các cô nói chuyện lao xao. Đó là những nữ sinh ở Xe-vrơ, học trò của Ma-ri đến cổ vũ giáo sư của họ.
Ba ông giám khảo mặc lễ phục ngồi sau một cái bàn dài bằng gỗ sên lần lượt đặt câu hỏi, Ông Bu-ti sau đến ông Líp-man - người thầy đầu tiên có những cảm hứng tế nhị và cuối cùng ông Moát-xăng, mà bộ râu quá dài làm cho mọi người chú ý. Thí sinh trả lời, giọng êm dịu, tay cầm phấn, thỉnh thoảng lại vẽ lên bảng đen lược đồ một chiếc máy hoặc những dấu hiệu một công thức cơ bản. Công trình nghiên cứu được trình bày bằng tiếng nói khô khan của kĩ thuật, và những tính từ nhạt nhẽo. Nhưng trong đầu óc người nghe, già cũng như trẻ, thầy cũng như trò, đang diễn ra một sự biến đổi mới. Lới nói lạnh lùng của Ma-ri trở thành một hình ảnh nóng bỏng vô cùng phấn chấn: hình ảnh một trong những phát minh lớn nhất của thế kỷ.
Các nhà bác học thường không thích hùng biện hoặc bình phẩm dài dòng. Để phong cho Ma-ri danh hiệu tiến sĩ, các vị giám khảo trường Đại học khoa học cũng lại dùng những lời lẽ hết sức giản dị, mà hai mươi năm sau, khi đọc lại, vẫn thấy cảm kích sâu sắc.
Ông Líp-man, chủ nhiệm khoa, tuyên bố bằng câu nói đã thành công thức:
- Trường Đại học Paris tặng bà danh hiệu Tiến sĩ khoa học vật lý hạng xuất sắc.
Khi tiếng vỗ tay đã dứt, ông nói thêm, giọng giản dị, thân mật và hơi rụt rè của một giáo sư Đại học già:
- Và nhân danh ban giám khảo, tôi xin gửi tới bà những lời chúc mừng của chúng tôi.
Những cuộc thi trang nghiêm ấy, những buổi lễ trịnh trọng và đơn giản ấy, dù thí sinh là một nhà nghiên cứu thiên tài hay chỉ là một người làm việc cần cù, từ trước đến nay đều diễn ra như vậy, có phong thái và tính cao quý của nó.
*Trước đó ít lâu, Pi-e và Ma-ri có một quyết định, tuy đối với họ không quan trọng lắm nhưng sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống sau này của hai nhà bác học.
Trong quá trình tinh chế quặng pêch-blen và tách riêng chất Ra-đi, Ma-ri đã sáng tạo ra một kĩ thuật và tìm ra một phương pháp chế biến.
Kể từ khi tác dụng chữa bệnh của Ra-đi được phổ biến, đâu đâu người ta cũng tìm tòi các quặng phóng xạ. Nhiều nước muốn xây dựng nhà máy khai thác quặng, nhất là Bỉ và Mỹ. Nhưng các nhà máy chỉ có thể sản xuất ra chất “kim loại diệu kì” ấy, khi nắm được bí mật điều chế Ra-đi nguyên chất.
Chuyện này Pi-e nói với vợ vào một sáng chủ nhật, trong căn nhà nhỏ ở đại lộ Kê-lec-man. Người đưa thư vừa đưa đến một cái thư từ Mỹ. Pi-e đọc kĩ thư gập lại để trên bàn, và nói giọng bình thản:
- Phải bàn một tí về chất Ra-đi của chúng ta. Rõ ràng là công nghiệp Ra-đi sẽ phát triển mạnh. Đây là một cái thư từ Ba-pha-lô[41] tới: một số nhà kĩ thuật muốn khai thác Ra-đi ở Mỹ viết xin tài liệu.
- Thế thì sao? – Ma-ri lơ đãng hỏi.
- Ta có hai cách giải quyết. Một là mô tả tỉ mỉ tất cả các nghiên cứu tìm tòi của chúng ta, không giấu gì hết, kể cả phương pháp tinh chế…
Ma-ri gật đầu tỏ vẻ đồng tình và khẽ nói:
- Cố nhiên.
Pi-e tiếp:
- Hai là ta có thể coi mình như những người chủ, những người “sáng chế” ra Ra-đi. Nếu vậy, trước khi công bố cách chế hóa pếch-blen, em phải lấy bằng sáng chế các kĩ thuật ấy để bảo đảm bản quyền của chúng ta về việc chế tạo Ra-đi trên thế giới.
Pi-e cố sức mới trình bày câu chuyện cho khách quan. Giọng nói thoáng một vẻ khinh thị kín đáo, khi nhắc đến những lời mà ông không quen như “bằng sáng chế”, “bảo đảm bản quyền”.
Ma-ri suy nghĩ vài giây, rồi nói:
- Không được. Như thế trái với tinh thần khoa học.
Pi-e nhấn thêm:
- Anh cũng nghĩ thế, nhưng anh không muốn rằng chúng ta quyết định vấn đề này một cách vội vàng. Cuộc sống của chúng ta khổ cực, e rằng còn khổ cực nữa. Và chúng ta có một con gái… có thể còn những đứa con khác nữa. Đối với con cái, đối với chúng ta, bằng sáng chế nghĩa là nhiều tiền, giàu có… đảm bảo một cuộc sống đủ tiện nghi, không vất vả như hiện nay.
Rồi Pi-e mỉm cười nói tới điều duy nhất nếu thiếu đối với ông thật là chua xót.
- Chúng ta lại còn có thể có một phòng thí nghiệm đàng hoàng.
Đôi mắt Ma-ri chăm chú, Ma-ri thoáng nghĩ đến quyền lợi, đến những phần thưởng vật chất, nhưng gần như tức khắc, bà gạt bỏ ý nghĩ đó.
- Những nhà vật lý thường cho in trọn vẹn các công trình nghiên cứu của họ. Nếu phát minh của chúng ta sau này có giá trị thương mại thì đó là cái ngẫu nhiên mà chúng ta không thể lợi dụng. Và chất Ra-đi sắp được dùng để chữa bệnh… không thể lạm dụng nó để mưu lợi.
Nào Ma-ri có hề định thuyết phục chồng. Pi-e chỉ nói đến bằng sáng chế để khỏi ân hận mà thôi, bà rất biết thế. Những lời dứt khoát trên đây là cảm nghĩ của hai người, là quan điểm không lay chuyển của họ về vai trò nhà bác học.
Trong sự im lặng, Pi-e nhắc lại như một tiếng vang:
- Không, không thể được. Như thế trái với tinh thần khoa học!
Pi-e như trút được gánh nặng. Ông nói thêm, như đang giải quyết một vấn đế chi tiết:
- Vậy chiều hôm nay, anh sẽ viết thư cho các kĩ sư Mỹ, cung cấp cho họ mọi chi tiết cần thiết.
Hai mươi năm sau, Ma-ri viết:
“Đồng ý với tôi, Pi-e Qui-ri từ bỏ, không muốn tìm một lợi lộc vật chất gì từ phát minh đó. Chúng tôi không lấy một bằng sáng chế nào và cho in toàn bộ kết quả nghiên cứu của mình, kể cả phương pháp chế tạo chất Ra-đi. Hơn nữa, còn cung cấp cho những người muốn hỏi, tất cả những chỉ dẫn cần thiết. Việc này đã giúp ích rất nhiều cho công nghiệp Ra-đi phát triển, mới đầu ở Pháp và ở các nước, cung cấp cho các nhà bác học và thầy thuốc những chất họ cần. Cho đến nay, các phương pháp mà chúng tôi chỉ dẫn vẫn còn áp dụng hầu như không thay đổi.
Công ty khoa học tự nhiên Ba-pha-lô có bảo chúng tôi làm kỷ niệm một bản in nói về sự phát triển công nghiệp Ra-đi ở Mỹ, kèm thêm ảnh chụp các bức thư của Pi-e Qui-ri trả lời tường tận từng câu hỏi của các kỹ sư Mỹ những năm 1902-1993”.
Câu chuyện ngắn ngủi trên đây, diễn ra vào một sáng chủ nhật, mười lăm phút sau Pi-e và Ma-ri đã vượt cổng Giăng-ti-i chắn đường xe lửa, đạp nhanh về phía rừng cây bóng mát.
Giữa hai ngã đường, họ không màng giàu sang mà chọn cuộc sống thanh bần.
Buổi chiều, họ trở về hai tay ôm đầy lá và những bó hoa đồng nội.
Chú thích:
[41] Buflalo: một tỉnh ở Mỹ