← Quay lại trang sách

GÃ DU KHÁCH LÀM TIỀN GIẢ

Tôi xuống taxi tại quảng trường Apex và rút từ túi quần dài bên phải ra tờ 10 đô-la Mỹ. Tôi lấy tiền thối lại và bỏ 8,75 đô-la vào túi bên trái. Tài xế thậm chí không thèm nhìn tờ giấy bạc trừ việc liếc qua xem thử có đúng là tờ 10 đô-la hay không. Dù anh ta có coi kỹ cũng chẳng sao, bởi tôi dư biết, săm soi cách mấy bằng mắt thường, đố tài xế phát hiện đó là tờ giấy bạc giả.

Tất cả những đồng đô-la do Abe Pritchard in ra hoạ có Trời hoặc máy phát hiện bạc giả tiên tiến nhất mới phân biệt nổi. Nó giống đến khó tin những tờ giấy bạc 10 đô-la của Chính phủ Mỹ in ra.

Chủ quầy thuốc lá mỉm cười với tôi khi tôi dừng bước trước tủ kiếng, làm như tôi là bạn lâu năm không bằng:

— Anh muốn dùng loại thuốc nào?

Tôi nhún vai, chỉ vào gói Pall Mall và chiếc hộp quẹt, nói thêm:

— Cho tôi một điếu xì-gà Habana nữa!

Tôi lại móc ra tờ 10 đô-la bên túi phải, chờ tiền thối, thồn vô túi trái…

Đến khoảng giữa trưa, tôi đã đi lòng vòng tới siêu thị nằm gần bùng binh Langley và tôi phải mua một túi xách đựng thực phẩm để nhét vô đó những gói thuốc lá, xì-gà và ba chai rượu whisky. Tôi cảm thấy hơi đói, nhưng nghĩ tốt hơn nên mang tất cả những thứ đã mua được về khách sạn và nghỉ ngơi chút đỉnh trước khi tiếp tục công việc của mình. Tôi đã tiêu hết 15 tờ 10 đô bên túi phải, nhưng trong đó vẫn còn tới 25 tờ nữa đang chờ được “tống khứ” cho rảnh. Tôi mua chiếc bánh xăng-uých và vài chiếc bánh ngọt, bỏ luôn vô túi xách, vừa có bữa ăn trưa vừa chi thêm được 10 đô nữa.

Nhìn thấy quầy điện thoại ngay ngoài cửa siêu thị khiến tôi muốn gọi điện cho Alma. Tôi phải quay số tới hai lần và chuông điện thoại reo rất lâu mới thấy nàng bắt máy. Tôi thăm dò:

— Nghe nè, Alma, chiều nay anh tới gặp em có tiện không?

Giọng Alma có vẻ ngập ngừng:

— Không, Joe. Em nghĩ không nên. Em lo Abe đang nghi ngờ chúng ta.

Tôi hơi hoảng, hỏi dồn:

— Sao? Gã nghi cái gì? Gã làm sao biết được chuyện chúng mình. Anh đời nào hé cho hắn biết. Còn em… Nói anh nghe thử có chuyện gì.

— Em cũng đâu nói gì… Joe, nhưng anh phải là vợ Abe Pritchard, sống chung quanh năm suốt tháng như em mới hiểu hết Abe. Anh không biết khi nổi sùng Abe sẽ hành động ra sao để trả thù đâu.

— Thì anh làm sao biết được. Cả buổi chiều hôm qua Abe và anh đã tranh cãi về chuyện tiền nong. Gã phiền trách anh tiêu những tờ giấy bạc giả quá chậm – Tôi hạ giọng khi nói đến những từ sau cùng, vừa nói vừa liếc mắt nhìn quanh để bảo đảm không có ai nghe lén. Nhưng không có ma nào cả – Và này, Alma, chúng ta làm gì buổi tối nay?

— Em không dám gặp anh, Joe. Abe không tin em đã đến rạp chiếu bóng bữa đi chơi với anh hồi chiều thứ Năm. Chồng em buộc em kể lại toàn bộ chuyện phim, rồi dẫn em đi xem lại phim đó vào tối thứ Bảy bữa qua hầu kiểm tra lại. Nhân đây, có phải anh đã dùng tờ 10 đô của Abe để mua vé xem phim bữa đó hay không?

— Phải. Có gì không em?

— Bữa qua Abe mua vé xem phim bằng tờ 20 đô, và không chịu nhận tờ 10 đô do cô bán vé thối lại. Cô ấy đã cho Abe xem tất cả những tờ 10 đô mà cô đang có để Abe chọn lấy một tờ.

Điều này khiến tôi nổi giận:

— Đồ bần tiện! Cách nào đi nữa, cô nhân viên hẳn có rất nhiều tờ 10 đô. Này, vậy bao giờ anh mới gặp lại em?

— Ngày mai điện thoại lại cho em rồi sẽ tính tiếp.

— Ngày mai! Ngày mai! Lúc nào anh cũng nghe em nói ngày mai. Được rồi, sáng mai anh sẽ gọi điện cho em. Nhưng anh bắt đầu cảm thấy mình chờ đợi như vậy là quá lắm đó!

Tôi đi bộ dọc theo đại lộ Cummings, tim đập rộn ràng. Làm sao mà Alma, cô gái tóc vàng óng mắt xanh biếc với má lúm đồng tiền và thân hình thanh mảnh ấy có thể sống hạnh phúc cạnh Abe Pritchard? Nàng đang còn ở lứa tuổi đôi mươi, ríu rít như con chim hoạ mi trong khi Abe già khụ, tuy mới ngoại tứ tuần mà đầu đã bắt đầu hói rọi phải mang tóc giả trông cứ như con cú con cáo. Thật là một lão chán ngắt đáng ghét.

Xin hỏi thử các bạn, gã có quyền gì mà đòi nàng phải chung thuỷ một lòng một dạ yêu gã? Đã vậy gã bần tiện ấy còn đòi kiểm tra thử xem nàng có đến rạp xem phim thật hay không, và soi mói xem có đồng 10 đô giả nào do gã làm ra nằm tại quầy bán vé hay không nữa chớ! Các bạn nghĩ xem tôi làm sao có thể chịu nổi gã!

Tôi cũng kể các bạn nghe thêm về Abe Pritchard. Thật ra tôi cũng chẳng biết nhiều về gã, thậm chí ngay cả tên gã tôi cũng không dám bảo đảm có phải đúng là tên thật hay không. Tôi chỉ biết gã khoe là du khách đến đây thưởng lãm cảnh đẹp cùng cô vợ trẻ, nhân thể nếu thấy được sẽ tính chuyện làm ăn lâu dài luôn. Chuyện mới xảy ra cách nay hai tuần. Tôi thoạt đầu tình nguyện làm hướng dẫn viên du lịch cho cặp vợ chồng, chủ yếu là cho cô vợ Alma trông đến là dễ thương, để có dịp tán gẫu cùng cô và biết đâu… Quả nhiên tôi đã cua được nàng, đồng thời Abe cũng ngày càng tỏ ra thân tình với tôi, hé lộ chuyện gã chuyên làm những tờ đô-la giả, và nếu tôi chịu mang đi tiêu thụ, tôi cũng sẽ có chút vốn lận lưng. Đang lãnh lương thất nghiệp, tôi đánh liều nhắm mắt đưa chân một phen thử thời vận.

Thật ra chiều thứ Năm, tôi quả có mua vé xem phim cùng với Alma, để tiêu bớt 10 đô giả, nhưng chúng tôi đâu dại gì tốn thời gian chui vô rạp, về hú hí ở khách sạn chẳng vui vẻ hơn hay sao?

Tôi đón tắc-xi và để túi xách đựng đồ tại khách sạn. Tài xế nhận tờ 10 đô và tôi đưa thêm tờ 10 đô nữa cho quầy giải khát khi kêu một chai bia. Lên phòng, ăn qua quít rồi không kịp ngả lưng, tôi tiếp tục đi bộ một vòng quanh khu phố dọc con đường Ames Street đến tận trạm xe điện ngầm, quẹo trái qua công viên thành phố và đến khoảng bốn giờ rưỡi chiều, đôi chân tôi đòi nghỉ. Vậy mà tôi vẫn còn năm tờ giấy bạc phải tiêu cho hết.

Tôi đi ngang khu giải trí của Louis, và chợt nảy ý nghĩ đặt vài tờ 10 đô vào cuộc đỏ đen đầy may rủi. Nhưng tôi vội gạt bỏ ngay. Abe vốn tinh như quỉ, gã chẳng đời nào chịu chi tiền cho tôi nếu tôi không có bằng chứng về việc đã tiêu tiền của gã ra sao.

Đến 18 giờ 30, tôi tiêu tờ bạc cuối cùng để ăn một miếng sườn bê non. Tuy chẳng mấy khoái món sườn bê, nhưng đây là món ăn rẻ nhất trong thực đơn và Abe vốn có thói quen để hết cho tôi số tiền lẻ còn lại trong hoá đơn tính tiền cuối cùng.

Gã đến khách sạn tìm tôi vào lúc gần tám giờ tối và chúng tôi lại tranh luận về tiền bạc. Gã kiểm tra lại toàn bộ số tiền, đến từng xu – thật bủn xỉn – và viết danh sách tất cả những thứ còn tồn lại trong hai túi xách (khi chiều tôi cũng phải mua thêm một túi xách đựng đồ nữa). Việc chia phần được Abe thực hiện hết sức tỉ mỉ, và tôi không còn cách nào khác hơn là phải móc ra tờ năm đô-la mà tôi cố ý bỏ sót trong túi quần bên trái.

Ánh mắt tôi không sao rời khỏi cần cổ khẳng khiu của Abe, trong lúc tôi tự hỏi liệu mình có đủ sức và đủ can đảm siết chặt vào đấy hay không. Khi ấy Alma sẽ thuộc về tôi. Nhưng giết một người sẽ gây ra lắm chuyện phiền phức. Các thám tử thích chĩa mũi vào những “mối tình tay ba” khi một trong ba người này đột ngột biến mất. Vả lại tôi sẽ làm gì với xác chết? Cất giấu vào chỗ nào? Hẳn là khó hơn giấu tờ năm đô-la nhiều, rất nhiều. Cuối cùng, ai lại gì mà giết con gà đang đẻ trứng vàng cho mình phải không các bạn?

Tôi hỏi Abe sau khi đút túi ba mươi phần trăm tiền hoa hồng mà gã chia cho tôi:

— Sao, ngày mai có gói tiền nào cần phải tiêu nữa không?

— Có chớ, tôi sẽ để ở chỗ nhà tôi mới thuê. Anh có thể ghé ngang đó lấy vào quãng chín giờ sáng.

Tôi nhìn Abe, vẻ dò xét:

— Tối nay anh có làm gì không?

Abe nhìn lại tôi với cùng ánh mắt:

— Không. Tối nay thì không. Tôi dẫn vợ tôi đi xem phim.

Abe đột ngột bỏ đi, hai hàm răng nghiến chặt. Tôi điên cuồng suy nghĩ xem thử nơi nào có thể cất giấu xác chết cao 1,72 mét. Đến khoảng mười một giờ đêm, trong óc tôi vẫn chưa tìm ra nơi nào thuận lợi, mặc dù đã “vác” xác Abe đi khắp thành phố. Rốt cuộc tôi đành thở dài, leo lên giường ngủ.

Sáng hôm sau, tôi tới nhà Abe thuê vào quãng gần chín giờ với một ý tưởng kỳ lạ trong đầu. Mọi việc sẽ tuỳ thuộc số tiền giả mà Abe đưa cho tôi vào sáng nay, và tôi cũng sẽ tìm thử trong nhà xem sao. Tôi sẽ không chút ngần ngại giết chết con gà đẻ trứng vàng nếu tôi nhận được bộn tiền và có lượng tiền kha khá trong nhà.

Tôi thiếu điều đụng vào một người đàn ông lạ mặt đang từ trong nhà Abe thình lình mở cửa bước ra, tay kéo chiếc thang dài ngoằng. Tôi lên tiếng hỏi:

— Ông là ai?

— Tôi là Tim Nieman – Ông ta vừa trả lời vừa bắc thang ngay cửa nhà Abe để tháo gỡ cái gì đó – mà anh tới đây tìm ai?

Tôi la lớn:

— Ông làm gì vậy? Abe Pritchard đâu?

— Abe ấy à? Ông ta đi rồi. Ông ta sang nhà này cho tôi thuê lại. Chúng tôi đã ký xong giấy tờ hồi khuya khi hôm. Ông ta đang có việc gấp phải rời khỏi đây, bởi sáng sớm nay hai vợ chồng ông đã lên máy bay sang châu Âu – Ông ta nhìn đồng hồ – Giờ này hẳn họ đã lên máy bay. Chúc họ chuyến du lịch tốt lành.

Tôi hầu như nghẹn thở:

— Nhưng tại sao…

Bỗng người đàn ông lạ mặt nhìn tôi, làm như sực nhớ ra chuyện gì:

— Xin lỗi, có phải anh là… hơ… Joe… hơ… Joe…

Tôi thở ra yếu xìu:

— … Beckett!

— Đúng rồi! Anh là Joe Beckett phải không? Nếu vậy, ông Pritchard có gởi lại cho anh một gói đồ.

Tôi nắm cánh tay Tim:

— Vậy sao? Gói đồ đâu?

Ông ta bước vô phía trong nhà, tôi cũng bước theo, nhưng dừng lại ở phòng ngoài. Đến khi nhìn thấy gói đồ, tôi thất vọng ra mặt. Đó là một gói rất nhỏ, đúng hơn, chỉ là một chiếc phong bì. Gói không thể đựng nổi đồ dùng in ấn của Pritchard. Tôi chỉ mở phong bì sau khi đi khỏi nhà vài trăm mét, đến một chỗ khuất và sau khi nhìn quanh không thấy ai.

Một tấm danh thiếp có ghi mấy chữ “Đây là phần ngày cuối cùng, trả cho sự phản bội của anh”.

Cùng với tấm danh thiếp là một trăm tờ 10 đô mới cứng.

Tôi phản bội! Một ngàn đô-la! Các bạn nghĩ sao?

Đây là số tiền đền bù cho những nguy hiểm mà tôi có thể bắt gặp khi mang những đồng bạc giả của Abe đi tiêu thụ khắp thành phố mới phải chớ! Và đến bù cho việc Alma đã ra đi nữa, vĩnh viễn…

Tôi chợt dừng bước. Ai có thể cấm tôi qua châu Âu tìm nàng. Phải, cứ tiêu hết số tiền này, rồi mua vé qua bển.

Tôi trả 10 đô để mua hai gói thuốc lá, nhận tiền thối, rồi gần như chạy tới hàng bán thịt nguội gần đó mua nửa ký xúc-xích. Tiếp đó tôi mua hộp aspirine trong tiệm thuốc tây và cục xà bông tại hiệu tạp hoá. Bước vào cửa hàng bán đồ may sẵn, tôi chọn chiếc cà-vạt giá một đô, nhưng anh nhân viên bán hàng trẻ tuổi cứ chằm chằm nhìn tờ bạc 10 đô tôi đưa ra trong lúc mặt tái dần. Rồi anh ta ấp úng:

— Tôi sẽ… tôi không có tiền lẻ thối lại… để tôi sẽ đi đổi.

Tôi không thích ánh mắt của anh ta chút nào và chưa biết mình nên hành động ra sao thì nghe tiếng còi hụ của xe cảnh sát. Tôi đang hai tay toan chặn nhân viên bán hàng lại thì anh ta đã khéo léo chui tọt qua vòng tay của tôi.

Tiếng còi hụ lớn dần và tôi tưởng như xe cảnh sát đang tiến thẳng lại phía tôi. Không thấy cửa sau, tôi đành theo chân nhân viên bán hàng bước ra ngoài đường. Bỗng tôi thấy mình chạm trán, ngay bên lề đường, với một đám những người bán thuốc lá, thịt nguội, thuốc tây, tạp hoá và cả chục cảnh sát. Tôi chưa kịp hiểu ất giáp gì thì chiếc còng răng đã bập vào hai cổ tay tôi. Rồi họ lục soát và lôi từ trong túi quần bên phải của tôi ra một xấp giấy bạc giả.

Tay cảnh sát có vẻ cầm đầu nhóm kêu lên:

— Thật quá đáng! Anh tưởng anh dễ tiêu những đồng bạc này lắm sao?

Nhân viên bán đồ may sẵn giơ cao tờ giấy 10 đô mà tôi vừa đưa cho anh ta trước mặt mọi người làm ai nấy đều cười ồ. Ngay tay cảnh sát trưởng nhóm cũng cười đến chảy cả nước mắt.

Cuối cùng tôi cũng tự chủ lại, làm bộ ngây ngô cất tiếng hỏi:

— Sao, những tờ giấy bạc này không phải là bạc thật hay sao?

Tay cảnh sát nhìn ngay mặt tôi trong ít giây, rồi gí tờ 10 đô vào mắt tôi:

— Này, tờ 10 đô tại sao lại in hình Tổng thống Abraham Lincoln? Chính phủ chỉ in hình ổng chỉ in trên tờ năm đô thôi mà!

Ai nấy lại rũ ra cười, riêng tôi, tôi cứ ngớ ra. Các bạn khuyên tôi nên làm gì bây giờ?

(Phóng tác từ “Honest Abe” của Elba O. Carrier)