← Quay lại trang sách

NGƯỜI MÙ

Sonny Cabtree cẩn thận đi dọc theo con đường nhỏ tuyết phủ trắng xoá dẫn tới nhà Van Raalte. Đêm lạnh, con đường lờ mờ dưới ánh sao yếu ớt. Trời không trăng và mảnh sân nhỏ đầy tuyết như biến thành màu xám trong bóng tối. Cả hai bên nhà Van Raalte là những ngôi nhà khác, hàng chục ngôi nhà khác, tất cả đều giống nhau và đều lặng lẽ như nhau. Dấu hiệu duy nhất của sự sống trong mỗi ngôi nhà là dải ánh sáng ngay trước cửa phòng khách mỗi nhà, chứng tỏ vào giờ này những người trong nhà đang xem TV sau bữa ăn tối.

Nhưng nếu ai đã nghĩ rằng chủ nhân ngôi nhà mà Sonny sắp bước vào đang xem TV (hoặc đọc báo) thì người ấy sẽ bị hố to: Bà Van Raalte chẳng hề xem hay đọc gì ráo. Bà chỉ có thể nghe – như ra-đi-ô chẳng hạn.

Gã cố ý gây tiếng động khi bước lên bậc tam cấp để vô nhà. Gã muốn bà Van Raalte nghe thấy tiếng. Có thể bà không mở cửa cho một kẻ lạ mặt im hơi lặng tiếng vào những ngày này, do bà sống chỉ một mình, mù cả hai mắt, lại chẳng biết trông cậy vào ai…

Chuông cửa gắn trên đầu một con chó bằng đồng trông khá lạ mắt. Sonny bấm chuông. Bốn nốt nhạc nghe văng vẳng từ bên trong ngơi nhà cửa khoá im ỉm. Rồi có luồng ánh sáng toả xuống đầu gã, bóng gã bỗng in dài ngay bệ cửa và đổ xuống sân tuyết xám.

Cửa đã mở và bà Van Raalte, ốm nhách, cao không tới một mét sáu, với cặp kiếng đen thui to đùng đứng đối diện với gã.

Mặt bà có nhiều nếp nhăn và rất trắng. Bà nhẹ nhàng hỏi:

— Ai đấy?

Sonny Cabtree đáp:

— Tôi tên Dave Grover. Thưa bà, tôi là nhà báo.

— Xin chào, nhưng tôi nghĩ anh tới lộn địa chỉ.

— Tơi không nghĩ thế, thưa bà. Bà là Van Raalte phải không?

— Phải phải, chàng thanh niên ạ. Nhưng cách nay nhiều tuần tôi đâu còn đáng để các nhà báo chú ý đến nữa.

— Vậy bà có xem bản tin lúc 6 giờ chiều nay trên TV hay không?

— Tơi không còn xem bất cứ thứ gì nữa. Xem hiểu theo nghĩa thông thường.

— Xin lỗi, tôi quên mất. Dù thế nào, điều đáng chú ý là bản tin hồi chiều cho biết về tay cớm liên quan đến vụ cướp ngân hàng. Ông ta vừa chết khi xế.

Bà Van Raalte tỏ ra hết sức kinh ngạc:

— Nhân viên cảnh sát Hart chết rồi? Tội nghiệp…

— Chết trong cơn hôn mê. Từ đó đến giờ không hề tỉnh dậy lấy một lần, ít ra theo bản tin.

— Thật đáng thương. Cố giành giật sự sống để rồi chịu thua sau sáu tuần lễ chống chọi. Còn bà vợ nữa chớ… và cả hai đứa con đều còn nhỏ dại…

— Đáng thương thật. Nhưng cũng chính vì vậy nên tôi mới tới đây, thưa bà – để phỏng vấn lần cuối nhân chứng duy nhất trong vụ cướp ngân hàng ấy.

— Tôi hiểu. Các anh nhà báo nào cũng cố moi tin. Nhưng tôi khó có thể được coi là nhân chứng nữa, trong tình trạng như hiện nay.

— Đó chính là khía cạnh mà tôi muốn biết rõ, thưa bà. Nếu bà cho phép, chỉ vài phút thôi…

— Được, mời vô nếu anh nhất định muốn. Đó là công việc của anh mà. Khi nãy anh nói tên Grover?

— Đúng, Dave Grover – Sonny lấy từ trong túi áo trên tấm thẻ nhà báo mà gã chôm được từ tay phóng viên cách nay hai đêm tại quán rượu Billy Bean – và đây là thẻ phóng viên của tôi.

Trong một thoáng, cặp kiếng đen dường như lướt qua tấm thẻ trên tay Sonny – hoặc ít ra gã nghĩ vậy – nhưng trước khi gã khẳng định, bà Van Raalte đã lên tiếng:

— Tôi đành tin anh thôi, Grover. Tôi chẳng thể nào phân biệt nổi tấm thẻ nhà báo hay thẻ tín dụng của người này với người khác.

Sonny bước vô nhà. Bà Van Raalte đóng cửa, lần mò từng bước đến bên chiếc ghế dựa, sờ soạng trước khi ngồi xuống:

— Anh ngồi đỡ trên trường kỷ. Nhà chỉ có mỗi một chiếc ghế dựa.

— Được, được thôi – Sonny nói, nhưng vẫn đứng – Nhà bà đẹp quá, ấm cúng nữa.

— Cô đơn buồn lắm. Tôi đang tính bán. Tôi vẫn ở đây từ khi chồng tôi qua đời, nhưng giờ lại muốn bán. Tôi thật sự không kiếm nổi tiền để giữ nhà lại. Với đôi mắt không thấy đường, khó mà kiếm được việc gì để làm.

— Tôi nghĩ bà còn tiền để dành chớ – Gã vừa nói vừa đưa mắt soi mói khắp phòng khách xem thử có vật nào có giá trị mà lại dễ bỏ túi mang đi hay không – Nhiều nữa là khác.

— Ý anh muốn nói…

— Hội Từ thiện Cảnh sát vừa công bố tiền thưởng khi chiều. Hai chục ngàn đô cho thông tin dẫn đến việc bắt và kết án kẻ đã giết chết tay cớm.

— Tôi e rằng mình chẳng giúp được gì.

— Nhưng nếu mắt bà sáng trở lại? Liệu có cơ may nào không?

— Hoàn toàn không.

— Có vài bác sĩ tuyên bố trên báo rằng bà có năm mươi phần trăm lành mắt – Gã đã thấy chiếc đồng hồ đeo tay trên bệ lò sưởi và nhẹ nhàng tiến lại gần – Nếu quả vậy, bà có rất nhiều hy vọng.

— Bác sĩ tuyên bố vậy không phải chuyên gia về mắt. Trước khi rời bệnh viện, tôi đã được bác sĩ nhãn khoa khám.

Sonny đoán tay bác sĩ tuyên bố muốn an ủi bệnh nhân. Gã đưa mắt ước tính giá của chiếc đồng hồ, trong khi miệng vẫn nói: - Chắc chỉ sai về tỷ lệ lành bệnh thôi. Bác sĩ nhãn khoa nói sao?

— Không phần trăm. Coi như tôi đành chịu mù vĩnh viễn.

Đồng hồ Thuỵ Sĩ. Vỏ bạch kim. Phải hơn ba ngàn đô. Sonny gật gù:

— Nhưng bà từng kể bà nhìn thấy rõ tên sát nhân đã bắn viên cảnh sát.

— Thấy rõ. Khi ấy mắt tôi tinh lắm, và tôi cố nhìn.

— Tại sao? – Trên bệ lò sưởi, không xa đồng hồ là một xấp tiền mặt, mấy tờ mười đô và cả vài xu lẻ – Tại sao bà lại cố nhìn?

Giọng bà Van Raalte trở nên cứng rắn:

— Tôi muốn ghi nhớ. Tôi nhớ đến chồng tôi và tôi quyết cố nhớ.

— Phải rồi. Chồng bà bị giết trong một vụ cướp trước đó vài năm.

— Anh bạn dùng từ không chuẩn. Đúng, chồng tôi bị bắn chết trong một vụ cướp, nhưng là bị bọn cướp bắn khi chúng vô cướp một tiệm rượu. Bữa ấy là ngày kỷ niệm lần thứ bốn mươi hai đám cưới của chúng tôi. Ổng tới tiệm mua một chai sâmbanh. Đúng lúc bọn cướp ập vô.

— Và khi ấy bọn cướp đâm hoảng. Hẳn là vậy.

— Khi nào bọn cướp cũng thường đâm hoảng cả.

— Tên cướp sẽ mất tự chủ – Sonny làm như muốn giải thích sự cố – Có thể hắn không muốn bóp cò. Điều này không nằm trong kế hoạch đánh cướp. Nhưng súng vẫn nổ.

— Hắn bắn ngay đầu chủ tiệm, khiến ông ta chết tại chỗ, đúng lúc đang giao tiền cho tên cướp. Khi cảnh sát tới, tiền rơi đầy trên sàn nhà phía sau quầy rượu.

— Phải – Sonny đáp mà bỗng cảm thấy lạnh sống lưng. Đó cũng là điều đã xảy ra vào buổi sáng tại chi nhánh ngân hàng.

Mọi điều bỗng vượt ra ngồi tầm kiểm soát.

Bà Van Raalte vẫn tiếp tục, với giọng nói nho nhỏ, hơi run run:

— Hắn bắn Walter ngay bụng. Ông chồng tội nghiệp của tôi qua đời vào ngày hôm sau. Ông tỉnh táo trong vài giờ, trong đau đớn khủng khiếp, nhưng không thể miêu tả nổi kẻ đã bắn ông. Trong những điều kiện bình thường nhất, Walter cũng chẳng chịu khó quan sát mấy – ngay cả những chi tiết nho nhỏ như người đối diện cao hoặc nặng khoảng bao nhiêu, mặc quần áo gì, mắt và tóc màu gì…

— Còn bà, bà có để ý đến những chi tiết như vậy không? – Sáng bữa đó gã không đội nón, chỉ quấn một chiếc khăn đen che kín mũi và miệng.

Bà già này đã khiến gã đâm hoảng. Tại sao bà là người đầu tiên và duy nhất tới ngân hàng, làm hắn mất tự chủ?

— Tôi đoán hẳn bà nhìn rất rõ tên cướp ấy.

— Có, nhìn rõ. Khi tôi bước vô ngân hàng, hắn quấn chiếc khăn đen che kín nửa mặt phía dưới.

— Bữa ấy bà làm gì mà tới ngân hàng sớm dữ vậy? – Gã nêu thắc mắc. Lúc ấy mới chín giờ thiếu mười. Gã biết rành người quản lý và cô thủ quỹ đến ngân hàng vào lúc 8g45. Gã chờ sẵn phía ngoài, khom mình trong xe hơi, che kín mặt. Đó là một vụ cướp thực sự. Từ trước đến giờ gã chỉ là tên trộm vặt – nẫng đồ ở cửa hàng, trong xe hơi, giựt túi xách. Chưa bao giờ bị bắt. Thậm chí chưa bao giờ bị thẩm vấn. Không hề có hồ sơ tiền sự.

Bà già giải thích:

— Tôi kiểm tra lại tiền trợ cấp. Mới đầu tính nhờ một tiệm thuốc (drugstore có nghĩa cửa hàng vừa bán thuốc tây vừa bán nhiều thứ hàng tạp hoá khác – ND), nhưng họ đòi một hào tiền công, vậy là tôi tới ngân hàng ở kế bên mà tôi thoáng thấy có người ở trỏng. Ai dè tôi vừa mở cửa thì tên cướp – lúc này tôi mới biết bóng người là tên cướp – quay đầu lại…

Tất cả chỉ vì một hào chết tiệt, Sonny nghĩ. Gã đã buộc người quản lý và cô thủ quỹ nằm úp mặt xuống đất sau khi họ mang những ngăn kéo đầy tiền mặt tới cho gã. Gã đang bắt đầu thồn tiền vào chiếc cặp thì…

Giọng bà Van Raalte đều đều:

— … Tôi lập tức nghĩ tới chồng tôi. Và tôi quyết định phải làm sao có thể nhận dạng bằng được tên cướp trùm mặt nếu có thời cơ.

Sonny đâm hoảng, hỏi:

— Trông hắn ra sao?

— Tôi đã khai cả chục lần với cảnh sát rồi. Tôi có nói thêm lần nữa cũng chẳng ăn thua gì. Gã cao, dễ đến mét tám, và trẻ, chỉ đâu khoảng hai mươi hai hai mươi ba.

— Bọn trẻ bây giờ cao lắm – Sonny lập lại những gì gã tự nói với mình khi nhân dạng được báo chí đăng tải.

— Gã ốm nhách, toàn xương với da, lông mày vàng tươi và tóc hung nhạt. Gã để tóc dài, không như bọn híp-pi nhưng dài hơn bình thường và chải lật qua mé phải. Thêm nữa, mắt gã xanh biếc.

Bà già này chỉ nhớ những gì bà thấy khi ấy, Sonny nghĩ, bất giác đưa tay vuốt mái tóc vàng nhạt, ngắn ngủn của mình.

— Mắt xanh đang là thời thượng với bọn trẻ. Có thuốc nhỏ khiến mắt biến thành màu xanh đấy.

Giọng bà già vẫn đều đều:

— Gã khoác chiếc áo bằng nhung màu da bò bên ngoài áo sơmi ngắn tay màu đỏ. Tôi biết gã mặc sơ-mi ngắn tay bởi khi gã bước tới quầy chĩa súng ngay tôi, tay áo khoác vén lên phía bên tay phải khoảng chục xăng-ti-mét trên cổ tay. Tôi còn thấy rõ một vết xăm trên cổ tay gã. Có ba chữ. Trông giống như những chữ C, nhưng cũng có thể là chữ 0.

CCC, Sonny thầm nghĩ. Calvin Craig Cabtree. May mình không có hồ sơ. Với miêu tả của bà già này, nếu đã có tiền án tiền sự, cảnh sát tóm mình trong vòng không đầy một giờ đồng hồ. Gã hỏi tiếp:

— Bà nhìn kỹ thật đấy. Bà còn để ý gì nữa không?

— Vài thứ lặt vặt khác. Báo chí đã đăng tất cả mọi chi tiết rồi. Ngay tờ báo của anh, tờ Post Herald , cũng đăng trên trang nhất rồi mà. Bà hàng xóm đọc cho tôi nghe từng câu từng chữ.

— Phải.

— Nhưng hình ảnh khiến tôi không bao giờ có thể quên là khi tôi thấy nhân viên cảnh sát Hart. Ông ta đi tuần ngang cửa sổ ngân hàng. Sáng hôm ấy trời nắng ấm. Mặt ông vui tươi, môi ông hơi vẩu ra và tôi nghĩ ổng đang huýt sáo. Rồi ổng liếc mắt nhìn vô…

Đúng là như vậy. Sonny nghĩ. Tay cớm ngốc nghếch ấy bước vô, làm hư bột hư đường hết ráo. Hắn còn toan rút súng ra nữa chớ. Vậy phải làm gì? Cứ thế mà nhả hết đạn. Cho đến khi tay cớm gục xuống, nhưng trước khi quị hẳn, Hart còn rán đưa súng bắn trả một phát, ai dè đường đạn cầu âu này lại trúng đầu bà già này khiến bà mù mắt.

— … và giờ ổng đã chết.

— Còn bà thì mù – Sonny vừa nói vừa rút con dao xếp giấu sẵn trong túi áo khoác ra, bật lưỡi dao. Lưỡi dao sắc lẻm như dao cạo.

— Riêng tên sát nhân vẫn ung dung – giọng bà già vẫn đều đều, vẻ mặt không biểu lộ điều gì sau cặp kiếng đen.

— Thì ra diễn biến như vậy – Sonny nhẹ nhàng bước đến cạnh bà già, đưa con dao nhứ nhứ thử trước mặt bà. Nhưng bà vẫn ngồi yên trên ghế, thở dài, cặp mắt mù dường như nhìn tận đâu đâu mà chỉ riêng bà mới biết. Sonny chém lưỡi dao qua lại trong không khí ba lần, bà vẫn không cau mày hay nhúc nhích. Bà ta mù thật rồi. Giờ thì gã hoàn toàn yên tâm. Có tiếng đồng hồ treo tường gõ báo giờ từ xa xa vọng lại phá tan màn đêm yên tĩnh. Gã lùi lại, đến bên lò sưởi, quơ chiếc đồng hồ đeo tay và mớ tiền mặt, nhét vô túi áo khoác cùng với con dao đã xếp lại.

Bà già lên tiếng:

— Tôi nghĩ mình chẳng kể cho anh nghe được gì nhiều.

— Bà đã cho tôi biết những gì tôi cần. Cám ơn bà rất nhiều.

— Không có gì. Xin chào Grover.

— Bà cứ ngồi nghỉ thoải mái, khỏi cần tiễn chân tơi. Để tôi tự ra về được rồi.

Gã bước nhanh xuống con đường yên tĩnh và đi bộ một quãng. Xe gã đậu cách đó khá xa dưới tàn một cây bạch dương. Khi chui vào xe hơi, gã cảm tưởng có chuyện gì đó chưa mấy ổn, nhưng không sao xác định nổi. Cảm giác này theo đuổi gã ngay trong lúc nói chuyện với bà già, khiến gã phải rút dao “thử”. Gã rút chìa khoá xe trong túi trên áo khoác ra. Thẻ nhà báo của Dave Grover cũng nằm trong đó. Bỏ chìa khoá vô, gã bật công tắc, và trong ánh sáng của bảng điều khiển xe hơi, gã coi lại tấm thẻ thật kỹ và chợt hiểu ra điều không ổn: Thẻ ghi tên David W. Grover, phóng viên của báo The Post Herald.

Cảm giác hoảng sợ lạnh xương sống giống hệt như cảm giác hắn từng gặp cách nay sáu tuần khi trong lúc cướp ngân hàng thì bất ngờ bà Van Raalte bước vào.

“Báo của anh, tờ Post Herald ” bà ta nói vậy trong khi gã không hề nói mình làm tại tờ báo nào, mà chỉ giới thiệu là nhà báo Dave Grover. Vậy là bà ta đã đọc được tấm thẻ, có nghĩa bà ta không hề mù! Và bà ta đã đánh lừa gã! Chính gã mới là thằng mù khi không sớm nhận ra điều này!

Sonny hấp tấp mở cửa xe, lao ra ngoài. Gã phải khử mụ già đáo để này trước khi bị mụ vạch mặt. Gã chạy dọc con đường mặc cho tuyết rơi như quất vào mặt. Gã xô cổng. Cổng mở ra cùng lúc với tất cả đèn trong nhà lẫn ngoài sân đều bật sáng và có tiếng còi hụ của xe cảnh sát – hình như rất nhiều xe – xé tan màn đêm lạnh giá.

(Phóng tác theo “Blind” của Frank Sisk)