Chương 5
Qua khúc cua tiếp theo là tới Terravin - ít nhất đó là những gì Pauline đã nói hàng chục lần. Niềm háo hức chờ đợi của cô ấy dần lây sang tôi khi cô ấy nhận ra các địa danh. Chúng tôi băng qua một cái cây lớn có khắc tên những người yêu nhau trên thân vỏ, rồi xa hơn chút nữa là nửa vòng tròn tàn tích bằng đá cẩm thạch trông bè bè giống những chiếc răng khểnh trong miệng một ông già, và cuối cùng ở đằng xa là một bể nước lớn màu lam ngự trên ngọn đồi với hàng cây bách xù bao quanh. Những dấu hiệu này có nghĩa chúng tôi đã tới gần.
Chúng tôi mất mười ngày mới tới được đây, lẽ ra chúng tôi sẽ đến sớm hơn nếu không dành hai ngày làm giả manh mối phòng trường hợp cha tôi sai người theo dõi và săn lùng chúng tôi.
Pauline đã rất kinh hoàng khi tôi cuộn vội chiếc váy cưới đắt tiền của mình lại và ném nó vào bụi mâm xôi, nhưng rồi cô ấy lại thấy mất thể diện khi tôi dùng con dao găm để cạy những món trang sức khỏi chiếc áo choàng của mình và sau đó buộc phần còn lại vào một khúc gỗ thả trôi sông. Cô ấy đã làm ba dấu sám hối cho tôi. Nếu ai đó nhận ra chiếc áo choàng, tôi hy vọng họ sẽ nghĩ rằng tôi đã chết đuối. Chỉ với việc mong tin tức kinh hoàng đó đến với cha mẹ tôi, tới đáng ra phải tự hành xác để hối lỗi, nhưng rồi tôi nhớ họ không chỉ chuẩn bị đưa đứa con gái duy nhất của mình đến sống với người đàn ông cô ấy không yêu, mà còn đến một vương quốc chính họ cũng không hoàn toàn tin tưởng. Tôi nuốt nghẹn trong cổ họng và không nói gì ngoài một câu chúc thượng lộ bình an khi chiếc áo choàng mà mẹ tôi, bà tôi và mẹ của họ từng mặc trôi đi.
Chúng tôi đổi những viên ngọc thành tiền xu tại Luiseveque, một thị trấn lớn cách chỗ chúng tôi khoảng hai giờ đi ngựa - ba viên ngọc bích màu xanh lam được ném cho người lái buôn nếu anh ta quên chúng tôi đến từ đâu. Cảm giác thật thú vị khi giao dịch theo cách như vậy, và ngay khi đặt chân xuống đường, chúng tôi bật cười vì sự táo bạo của mình. Người lái buôn đã nhìn chúng tôi như thể chúng tôi là kẻ trộm, nhưng vì giao dịch có lợi cho anh ta nên anh ta không nói gì.
Từ đó chúng tôi quay về theo lối cũ, thêm một vài dặm từ đường cái rồi lại tiến về phía đông. Tại rìa của một ngôi làng nhỏ, chúng tôi dừng chân ở một nông trại và giao cho người nông dân những con ngựa Ravian đắt tiền để đối lấy ba con lừa. Chúng tôi cũng đưa thêm vài đồng để anh ta giữ kín miệng.
Hai cô gái đến Terravin trên những con ngựa lớn với cái nhãn đặc biệt của chuồng Morrighan chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý, và đó là điều chúng tôi không thể để xảy ra. Chúng tôi không cần đến ba con lừa, nhưng người nông dân vẫn nằng nặc rằng con thứ ba sẽ lạc lõng nếu không có hai con kia, và chúng tôi thấy anh ta nói đúng, vì nó cứ đi sát phía sau mà không cần phải giật dây. Anh ta gọi chúng là Otto, Nove và Dieci. Tôi cưỡi Otto, con lớn nhất trong ba con, một con to lớn màu nâu với mõm trắng và chùm lông dài giữa hai tai. Bởi bây giờ quần áo của chúng tôi đã rất bẩn thỉu từ hàng trăm dặm và giày da mềm mại của chúng tôi đã bết bùn, sẽ chẳng ai để mắt tới chúng tôi. Không ai muốn nhìn chúng tôi lâu, và đó chính là những gì mà tôi muốn. Sẽ không có bất cứ điều gì xen vào giấc mơ về Terravin của tôi.
Tôi biết bây giờ chúng tôi đã gần tới nơi rồi. Có gì đó trong không khí, trong ánh sáng, điều gì đó mà tôi không thể gọi tên, nhưng nó truyền tới tôi như một giọng nói ấm áp. Nhà. Là nhà. Ngu ngốc, tôi biết. Terravin chưa bao giờ là nhà của tôi, nhưng biết đâu.
Ở đoạn cuối cùng này, ruột gan của tôi đột nhiên nhảy dựng lên vì sợ rằng tôi sẽ nghe thấy điều gì đó khác - tiếng vó ngựa cất lên như sấm phía sau chúng tôi. Những kẻ theo dõi của cha sẽ làm gì với tôi là một chuyện, những gì họ có thể làm với Pauline lại là chuyện khác. Nếu chúng tôi bị bắt, tôi sẽ nói với họ rằng tôi đã ép Pauline đi theo tôi dù cô không muốn. Tôi chỉ cần thuyết phục Pauline cũng theo câu chuyện đó, bởi vì cô ấy thật sự thuần khiết và chân thật.
“Đằng kia! Nhìn kìa! Sau những tán cây ấy!” Pauline hét lên, chỉ vào khoảng không. “Màu xanh lam! Đó là Vịnh Terravin!”
Tôi ráng sức mà vẫn không thể nhìn thấy gì ngoại trừ những gốc thông san sát, mấy cây sồi, và những ngọn đồi cỏ nâu giữa chúng. Tôi thúc giục Otto đi nhanh hơn, như thể điều đó là khả thi với một con vật chỉ biết có một vận tốc. Sau đó, khi chúng tôi rẽ vào khúc cua, không chỉ mỗi vịnh mà toàn bộ làng chài Terravin đều thu vào tầm mắt.
Đó chính xác là viên ngọc mà Pauline đã mô tả.
Bụng tôi quặn lại.
Một nửa vòng tròn của hòn ngọc màu xanh nước biển nhấp nhô với những chiếc thuyền màu đỏ và vàng, một số có cánh buồm trắng phấp phới cuồn cuộn, những chiếc khác có bánh xe mái chèo lớn khuấy nước phía sau. Những chiếc khác nữa thì văng ra một vệt bọt khi mái chèo nghiêng về phía chúng. Tất cả đều rất nhỏ từ khoảng cách này, trông như đồ chơi của trẻ con vậy. Nhưng tôi biết con người điều khiển chúng, những người đánh cá gọi nhau, cổ vũ nhau trong những ngày ra khơi, gió mang theo tiếng nói của họ, chia sẻ chiến thắng của họ, thở ra những câu chuyện của họ. Trên bờ, một số người hướng đến một bến dài với nhiều thuyền hơn và những người nhỏ như con kiến di chuyển qua lại, ngược xuôi, bận rộn với công việc của họ. Sau đó, có lẽ đẹp nhất, bao quanh vịnh là những ngôi nhà và cửa hàng len lỏi trên những ngọn đồi, mỗi nhà một màu khác nhau: xanh lam sáng, đỏ anh đào, cam, tử đinh hương, vôi, một vựa trái cây khổng lồ với Vịnh Terravin nằm ở tâm, và cuối cùng là những ngón tay rừng xanh thẫm vươn xuống từ những ngọn đồi để nắm giữ những quả ngọt đa sắc màu trong lòng bàn tay.
Bây giờ tôi đã hiểu tại sao Pauline luôn mơ ước được trở về ngôi đền thời thơ ấu mà cô đã từng phải rời bỏ khi mẹ qua đời. Cô ấy đã được gửi đến sống với một người cô họ xa ở miền Bắc và rồi, khi người cô đó bị bệnh, cô lại được giao cho một người cô khác mà cô ấy thậm chí không biết, người hầu gái của mẹ tôi. Pauline từng là một người tha hương, nhưng cuối cùng cô ấy đã được trở về nơi cội nguồn của mình, quê hương của mình. Đó là nơi mà tôi chỉ cần nhìn thoáng qua cũng mong có thể là nhà của tôi, một nơi mà việc tôi phải trở thành ai không hề quan trọng. Niềm vui của tôi òa lên bất ngờ. Tôi ước gì anh trai Bryn của tôi ở đây với tôi. Anh ấy yêu biển.
Giọng của Pauline cuối cùng đã chen vào suy nghĩ của tôi. “Có chuyện gì không? Người không nói một lời nào. Người nghĩ sao?”
Tôi nhìn cô. Mắt cay cay. “Tôi nghĩ... nếu nhanh chân, chúng ta có thể tắm trước khi ăn tối.” Tôi đánh vào mông của Otto. “Tôi xí trước!”
Pauline không chịu thua kém, và với một tiếng hét vui sướng cô thúc vào mạng sườn con lừa, cho nó chạy đua trước tôi.
Chúng tôi đã thực sự liều lĩnh khi rẽ vào con đường chính đi qua thị trấn. Chúng tôi trùm mũ kín đầu, qua cả mắt. Terravin nhỏ bé và cô lập, nhưng không hẻo lánh đến mức không trở thành điểm dừng cho Đội cận vệ Hoàng gia - hay một kẻ theo dõi. Nhưng ngay cả khi cằm gập sát vào ngực, tôi vẫn tiếp nhận tất cả. Điều kỳ diệu! Những âm thanh! Những mùi hương! Ngay cả tiếng vó của những con lừa mà chúng tôi cưỡi trên đoạn đường lát gạch đỏ cũng nghe như âm nhạc. Nó rất khác với Civica về mọi mặt.
Chúng tôi đi ngang qua một khu chợ rợp bóng cây sung khổng lồ. Trẻ con nhảy dây dưới tán ô lớn, nhạc công thổi sáo và một ban nhạc cất lên những giai điệu vui tươi cho những người dân thị trấn trò chuyện bên những chiếc bàn nhỏ xếp quanh vành đai.
Tiến sâu hơn vào thị trấn, hàng hóa tràn từ các cửa hàng sang các lối đi lân cận. Một dải cầu vồng kết từ khăn tay tung bay trong gió, và ở một cửa hàng khác, những thùng cà tím tươi bóng, bí sọc, thì là, và củ cải hồng mập mạp được bay thành hàng ngay ngắn, rực rỡ. Ngay cả cửa hàng quần áo cũng được sơn màu xanh vỏ trứng vui mắt. Không thể tìm thấy tông màu trầm buồn của Civica đâu cả. Ở đây mọi thứ đều ca vang sắc màu.
Không ai để ý tới chúng tôi. Chúng tôi hòa vào những người khác đang đi ngang qua. Chúng tôi chỉ đơn giản là đang trên đường về nhà sau một ngày dài ở bến tàu, hoặc có thể chỉ là những người lạ mệt mỏi đang tìm kiếm một nhà trọ thân thiện. Mặc quần và đội mũ khiến chúng tôi trông có vẻ giống những người đàn ông gầy gò. Tôi cố gắng không cười khi nhìn vào thị trấn mà Pauline đã mô tả rất nhiều lần. Nụ cười tắt ngóm khi tôi nhìn thấy ba vệ binh hoàng gia đang tiến đến trên lưng ngựa. Pauline cũng phát hiện ra họ và kéo dây cương lại, nhưng tôi khẽ thì thầm với cô ấy. “Tiếp tục đi. Đừng gây sự chú ý.”
Chúng tôi tiến về phía trước, mặc dù tôi không chắc bọn tôi có dám thở hay không. Những người lính đang cười với nhau, ngựa của họ di chuyển với tốc độ nhàn nhã. Một chiếc xe đẩy do một người lính khác lái lững thững theo sau.
Họ không nhìn về phía chúng tôi, Pauline thở phào nhẹ nhõm sau khi họ đi qua. “Tôi quên mất. Cá hun khói. Họ đến một tháng một lần từ một đồn tiền tuyến phía đông để lấy đồ tiếp tế, nhưng chủ yếu là cá.”
“Một lần một tháng thôi sao?” Tôi thì thầm.
“Tôi nghĩ vậy.”
“Vậy thì chúng ta tới đúng lúc rồi. Chúng ta sẽ không phải lo lắng về họ thêm lần nào nữa. Bọn họ cũng không biết tôi mà.”
Pauline mất một lúc để quan sát tôi rồi day trán. “Không ai có thể biết Người, có lẽ ngoại trừ con lợn ở nhà.”
Như thể được ra hiệu, Otto kêu lên tán thành câu nói đó khiến cả hai chúng tôi bật cười và đua nhau xem ai được tắm trước.
✽ ✽ ✽
Tôi nín thở khi Pauline gõ lên cánh cửa nhỏ phía sau của quán trọ. Nó ngay lập tức mở ra, nhưng chỉ có cái vẫy tay nhanh gọn của một người phụ nữ chào đón chúng tôi khi bà ấy lao đi và hét toáng lên, “Đặt ở đó! Ở trên bàn!” Bà ấy trở lại phía một lò sưởi bằng đá khổng lồ, sử dụng một mái chèo bằng gỗ để kéo bánh mì dẹt ra khỏi lò. Pauline và tôi không di chuyển, điều này cuối cùng đã thu hút sự chú ý của người phụ nữ. “Tôi đã nói là –”
Bà ấy quay lại và cau mày khi nhìn thấy chúng tôi. “Hừm. Không phải mang cá tới cho tôi hả? Chắc là ăn xin rồi.” Bà ra hiệu về phía một cái giỏ bên cửa. “Lấy một quả táo cùng một chiếc bánh quy rồi đi đi. Quay lại khi tôi bớt bận nhé, và tôi sẽ có một chút món hầm nóng hổi cho hai người.” Sự chú ý của bà đã ở nơi khác, và bà hét lên với một người ở phòng trước của quán trọ. Một cậu chàng cao lớn lấm lét bước qua cánh cửa đong đưa, tay cậu ta quấn vải bố, đuôi cá ngoe nguẩy một bên.
“Đầu bánh mì! Cá tuyết của tôi đâu? Tôi làm món hầm với con crappie này chắc?” Dù sao thì bà cũng chộp lấy con cá từ tay cậu ta, đập nó xuống bàn chặt thịt, và bằng một nhát dứt khoát, bà dùng dao chém đứt đầu nó. Tôi đoán là dùng cá crappie cũng được.
Đây là dì Berdi. Amita của Pauline. Dì của cô ấy. Không phải là dì ruột, mà là người phụ nữ đã cho mẹ Pauline công việc và nơi ở khi chồng bà qua đời và bà phải nuôi một đứa con thơ. Con cá được rút ruột và xương một cách khéo léo chỉ trong vài giây và được thả vào một nồi nước sủi bọt. Kéo tạp dề lên để lau tay, dì ấy nhìn lại chúng tôi, nhướn một bên mày. Dì ấy thổi một lọn tóc muối tiêu trên trán. “Hai người vẫn còn ở đây à? Tôi tưởng tôi nói rồi–”
Pauline lê người về phía trước hai bước và kéo mũ trùm ra khỏi đầu để mái tóc dài màu mật ong xõa xuống vai. “Amita?”
Tôi nhìn khuôn mặt đầy biểu cảm của người đàn bà ngây ra. Đi đến gần một bước, nheo mắt. “Pollypie?”
Pauline gật đầu.
Cánh tay của dì Berdi dang rộng, kéo Pauline vào ôm thật chặt. Sau những cái ôm và lời nói không thành câu, Pauline cuối cùng cũng thu người lại và quay về phía tôi. “Và đây là Lia, bạn của con. Con e rằng cả hai đứa con đều gặp một chút rắc rối.”
Dì Berdi đảo mắt và cười toe toét. “Không có gì mà nước nóng và một bữa ăn nóng hổi ngon lành không giải quyết được cả.”
Dì lao tới cánh cửa đang đung đưa, đẩy nó ra và hét lên ra lệnh, “Gwyneth! Tôi đi có chuyện năm phút. Enzo sẽ giúp cô!” Dì ấy quay đi trước khi cánh cửa kịp đóng lại và tôi để ý rằng, đối với một người phụ nữ nhiều năm mang theo một bộ đồ nấu ăn khổng lồ quanh lưng, dì ấy vẫn thật dẻo dai. Tôi nghe thấy tiếng cằn nhằn yếu ớt vọng qua cánh cửa từ phòng trước và tiếng bát đĩa lạch cạch. Dì Berdi phớt lờ. Dì ấy dẫn chúng tôi ra cửa sau của nhà bếp. “Đầu bánh mì - đó là Enzo - nó có tiềm năng đó, nhưng lười biếng vô cùng. Y hệt người cha lười nhác của nó. Gwyneth và ta đang cố gắng khiến nó thay đổi. Nó sẽ đồng ý thôi. Và kiếm được người giúp không phải là dễ.”
Chúng tôi đi theo dì ấy qua những bậc đá đổ nát khoét sâu vào ngọn đồi phía sau quán trọ, rồi đi xuống một con đường đầy cây lá quanh co dẫn đến một ngôi nhà tranh tối tăm nằm cách đó một khoảng. Cánh rừng kéo dài xuống tận phía sau nhà. Dì chỉ vào một cái thùng sắt khổng lồ đang sôi sục trên một lò sưởi bằng gạch trên cao. “Ít ra cậu ta cũng giữ lửa để khách có thể tắm nước nóng và đó là điều đầu tiên hai đứa cần.”
Khi chúng tôi tiến lại gần hơn, tôi nghe thấy tiếng nước chảy xiết đâu đó trong khu rừng phía sau ngôi nhà tranh, và tôi nhớ đến con lạch mà Pauline đã mô tả, những bờ kè nơi cô ấy từng nô đùa cùng mẹ, thảy những viên đá trên mặt nước hiền hòa của nó.
Dì Berdi dẫn chúng tôi vào ngôi nhà nhỏ, xin lỗi vì bụi, giải thích rằng mái nhà bị dột và căn phòng bây giờ chủ yếu được sử dụng cho những vị khách chậm chân, đó là chúng tôi. Nhà trọ đã kín chỗ, và giải pháp thay thế duy nhất là nhà kho. Dì thắp một chiếc đèn lồng và kéo một cái bồn lớn bằng đồng được giấu trong góc ra giữa phòng. Dì dừng lại để lấy viền tạp dề lau trán, lần đầu tiên dì có dấu hiệu kiệt sức.
“Được rồi, hai cô gái trẻ như các cháu có thể gặp rắc rối gì?” Ánh mắt của dì ấy nhìn xuống lưng chừng chúng tôi, và dì ấy nhanh chóng nói thêm, “Đó không phải là chuyện yêu đương phải không?”
Pauline đỏ mặt. “Không, Amita, không có gì như vậy cả. Chuyện đó thậm chí còn không phải là rắc rối. Ít nhất, chuyện không tới mức như vậy.”
“Thực ra, rắc rối là của cháu,” tôi bước tới và cất giọng lần đầu tiên. “Pauline thực ra đang giúp cháu.”
“À, vậy ra cháu cũng biết nói.”
“Có lẽ Người nên ngồi để tôi có thể –”
“Cháu cứ nói ra đi, Lia. Tên cháu là Lia, phải không? Tôi đã nghe đủ chuyện trên đời rồi.”
Dì ngồi gần bồn tắm, tay cầm cái xô, sẵn sàng cho một lời giải thích nhanh. Tôi quyết định sẽ giải thích cho dì ấy. “Đúng rồi. Lia. Chính xác là Công chúa Arabella Celestine Idris Jezelia, Con gái trưởng của Vương quốc Morrighan.”
“Công chúa hoàng gia,” Pauline dịu dàng nói thêm.
“Cựu hoàng gia,” tôi nói rõ.
Dì Berdi nghiêng đầu sang một bên, như thể dì nghe không đúng, mặt tái lại. Dì với lấy cột giường và thả mình xuống nệm. “Chuyện này là sao?”
Pauline và tôi thay phiên nhau giải thích. Dì Berdi không nói gì, hẳn là khác với cách hành xử của dì hàng ngày, và tôi nhìn Pauline trở nên khó chịu với vẻ im lặng ấy. Khi không còn gì để nói, tôi bước lại gần. “Chúng cháu chắc chắn không có ai theo dõi chúng cháu. Cháu cũng biết một chút về theo dõi. Anh trai cháu là một trinh sát được đào tạo trong Đội cận vệ Hoàng gia. Nhưng nếu sự hiện diện của cháu khiến dì không thoải mái, cháu sẽ lên đường đi tiếp.”
Dì Berdi ngồi thêm một lúc nữa, như thể bây giờ dì mới hiểu lời giải thích của chúng tôi, một bên lông mày của dì nhướn lên một đường nhăn nheo tò mò. Dì đứng dậy. “Rõ là nhảm nhí, đúng là sự hiện diện của cháu khiến ta bất tiện! Nhưng ta có nói gì về việc lên đường không? Cháu sẽ ở đây. Cả hai đứa. Nhưng ta không thể cho cháu –”
Tôi cắt lời như thể đã đọc được suy nghĩ của dì ấy. “Cháu không mong đợi và cũng không muốn có bất kỳ sự chú ý đặc biệt nào. Cháu đến đây vì cháu muốn có một cuộc sống thực sự. Và cháu biết điều đó bao gồm cả việc xứng đáng được ở lại. Dù dì có bảo cháu làm gì, cháu cũng sẽ sẵn lòng.”
Dì Berdi gật đầu. “Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề đó sau. Bây giờ ta cần cho hai đứa tắm rửa và ăn uống đã.” Dì nhăn mũi. “Theo thứ tự đó.”
“Một điều nữa.” Tôi cởi cúc áo và xoay người, thả lớp vải xuống thắt lưng. Tôi nghe thấy tiếng thở gấp của dì khi dì xem hình kavah cưới công phu của tôi. “Cháu cần phải loại bỏ cái này càng sớm càng tốt.”
Tôi nghe thấy tiếng dì ấy bước lại gần và sau đó cảm thấy những ngón tay của dì ấy trên lưng tôi. “Hầu hết các kavah sẽ phai đi sau vài tuần, nhưng hình này... có thể lâu hơn một chút.”
“Họ đã dùng những nghệ nhân và thuốc nhuộm tốt nhất.”
“Tắm ngâm tốt mỗi ngày sẽ có ích,” dì đề nghị. “Và ta sẽ mang cho cháu một cái bàn chải lưng cùng xà phòng loại mạnh.”
Tôi kéo áo lại và cảm ơn dì. Pauline ôm dì ấy trước khi dì rời đi rồi nắm lấy cái xô trên sàn nhà.
“Mời Người trước, thưa công chúa –”
“Đừng thế nữa!” Tôi giật chiếc xô từ tay cô ấy. “Từ hôm nay, không còn có công chúa nữa. Phần đó trong đời tôi đã ra đi vĩnh viễn. Bây giờ tôi chỉ là Lia. Cậu hiểu không, Pauline?”
Mắt cô ấy chạm mắt tôi. Đây chính là thời khắc đó. Cả hai chúng tôi đều hiểu đây là khởi đầu thực sự mà chúng tôi đã lên kế hoạch. Điều mà cả hai chúng tôi đều hy vọng nhưng không chắc có thể có được. Bây giờ nó đã ở đây. Cô ấy mỉm cười và gật đầu.
“Cậu vào tắm trước đi,” tôi nói thêm.
Pauline dỡ một số đồ đạc của chúng tôi trong lúc tôi chạy đi chạy lại để đổ đầy nước nóng vào bồn tắm. Tôi chà lưng cho Pauline theo cách mà cô ấy đã chà cho tôi rất nhiều lần trước đó, nhưng khi cô ấy ngâm mình, đôi mắt nặng trĩu vị mệt mỏi, tôi quyết định ra tắm ngoài con lạch để cô ấy có thể thưởng thức sự xa hoa này bao lâu cũng được. Tôi sẽ không bao giờ có thể trả ơn cho cô ấy tất cả những gì cô ấy đã làm cho tôi. Đây chỉ là một điều nhỏ mà tôi có thể làm.
Sau khi phản đối không thành, cô ấy chỉ đường cho tôi đến con lạch cách có một đoạn đi bộ ngắn sau ngôi nhà của chúng tôi, dặn dò tôi chỉ nên ở gần chỗ nông. Cô nói có một hồ bơi nhỏ được bao bọc trong những bụi cây rậm rạp. Tôi hứa hai lần sẽ cẩn thận, dù cô ấy cũng thừa nhận chưa bao giờ thấy nơi đó có người. Đây đang là giờ ăn tối, chắc chắn sẽ chỉ có mình tôi.
Tôi tìm thấy chỗ đó, nhanh chóng lột quần áo và để lại bộ đồ bẩn cùng một bộ đồ mới để thay trên bờ cỏ. Tôi rùng mình khi trượt xuống mặt nước, nhưng nó không lạnh bằng những dòng suối ở Civica. Vai tôi đã ấm dần lên khi tôi trầm mình xuống nước. Tôi hít vào một hơi thật sâu, một hơi thở mới, một hơi thở mà tôi chưa từng thở qua trước đây.
Bây giờ tôi chỉ là Lia thôi. Từ hôm nay trở đi.
Đây như một lễ rửa tội vậy. Một sự thanh tẩy sâu sắc hơn. Nước chảy xuống mặt tôi và nhỏ giọt từ cằm. Terravin không chỉ là một ngôi nhà mới. Dalbreck có thể đã cho tôi một ngôi nhà mới, nhưng ở đó tôi chỉ tò mò về một vùng đất xa lạ, không có tiếng nói trong số phận của chính mình. Terravin cho tôi một cuộc đời mới. Nó vừa phấn khích vừa đáng sợ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không bao giờ gặp lại các anh của mình nữa? Nếu tôi cũng thất bại trong cuộc đời này thì sao? Nhưng mọi thứ tôi thấy cho đến nay đều khích lệ tôi, kể cả dì Berdi. Bằng cách nào đó, tôi sẽ làm chủ được cuộc đời mới này.
Con lạch lớn hơn tôi tưởng, nhưng tôi vẫn ở trong những vùng nông yên tĩnh như Pauline đã chỉ dẫn. Đó là một hồ bơi trong veo, thoai thoải sâu không quá vai, đá sông trơn trượt rải rác dưới đáy. Tôi lật người lại và thả nổi cơ thể mình, mắt dừng lại trên những tán cây sồi và cây thông xanh biếc. Khi hoàng hôn lắng xuống, bóng tối càng hun hút. Qua những thân cây, ánh đèn vàng bắt đầu le lói trong những ngôi nhà trên sườn đồi khi Terravin chuẩn bị cho những lời cầu nguyện buổi tối. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy mình chờ đợi lắng tai nghe những bài hát báo hiệu đêm tối trên khắp Morrighan, nhưng chỉ thoảng qua một chút giai điệu.
Ta sẽ tìm thấy em...
Nơi chân trời góc bể...
Tôi dừng lại, nghiêng đầu sang một bên để nghe rõ hơn, giọng điệu cháy bỏng của lời nguyện khẩn thiết hơn bất kỳ lời thánh ca tưởng nhớ nào về quê hương. Tôi cũng không thể nhớ vị trí của chúng, nhưng Thánh văn rất bao la.
Giai điệu biến mất, như bị gió thổi đi xa, thay vào đó tôi lắng nghe tiếng soạt soạt phát ra từ chiếc bàn chải của dì Berdi khi tôi chà mạnh vào lưng. Vai trái của tôi bỏng rát khi xà phòng tiếp xúc hình kavah cưới, như thể một trận chiến bùng lên vậy. Mỗi lần lướt qua nét vẽ, tôi lại tưởng tượng ra chiếc bờm của con sư tử Dalbreck đang thu bé lại vì sợ hãi và sắp biến mất khỏi cuộc đời tôi mãi mãi.
Tôi rửa sạch đám bọt bằng cách ngâm mình nhanh chóng, sau đó xoay người lại, cố gắng nhìn ngó sự tàn lụi của sư tử, nhưng tôi chỉ thấy một phần nhỏ của hình kavah trong ánh sáng lờ mờ - những sợi dây nho quấn quanh móng sư tử trên vai tôi - nó vẫn hiên ngang trong tất cả vinh quang của nó. Mười ngày trước, tôi đã khen ngợi các nghệ nhân. Bây giờ tôi muốn nguyền rủa họ.
Rắc!
Tồi ngồi thụp xuống dưới nước và quay người lại, sẵn sàng đối đầu với kẻ đột nhập. “Ai đang ở đó?” Tôi nói to, cố gắng che đậy bản thân.
Chỉ có một khu rừng trống và sự im lặng trả lời tôi. Có lẽ là một con nai chăng? Nhưng nó đã đi đâu nhanh chóng như vậy? Tôi tìm kiếm bóng cây, nhưng không thấy bất kỳ chuyển động nào.
“Đó chỉ là một cành cây gãy thôi,” tôi tự trấn an mình. “Bất kỳ con vật nào cũng có thể làm được.”
Hoặc có thể là một người khách lang thang trong quán trọ, ngạc nhiên khi gặp tôi? Tôi mỉm cười, thích thú rằng tôi có thể đã làm ai đó sợ hãi - trước khi họ bắt gặp bóng lưng của tôi, tôi hy vọng. Kavah là biểu tượng của địa vị và sự giàu có, và hình vẽ này, nếu nhìn kĩ, sẽ tỏa ra quyền lực hoàng gia.
Tôi bước ra khỏi mặt nước, mặc vội bộ quần áo mới, và phát hiện một con thỏ nhỏ màu xám đang phóng sau gốc cây.
Tôi thở phào nhẹ nhõm.
Chỉ là một con vật nhỏ. Đúng như tôi nghĩ.