Chương 13
“Tại sao cậu không đánh thức tôi khi cậu về phòng đêm qua?”
Tôi đứng sau Pauline khi cô ấy soi gương, và tôi nhìn vào hình ảnh phản chiếu đầy muộn phiền của cô ấy. Tấm gương lốm đốm qua năm tháng, có lẽ nó bị vứt vào trong ngôi nhà này khi đã quá hư hại, nhưng tôi rất vui khi thấy chút sắc hồng đã trở lại trên má Pauline. Cô ấy chải những lọn tóc dài mượt tựa mật ong của mình khi tôi lôi bộ quần áo cưỡi ngựa ra khỏi tủ.
“Lúc đó đã khá muộn, và cậu đang ngủ rất ngon. Cũng không cần đánh thức làm gì.”
Cô ấy chải tóc chậm lại, do dự. “Tôi rất tiếc vì cậu và dì Berdi đã cãi nhau. Dì ấy chỉ thực sự đang cố –”
“Dì Berdi và tôi đều ổn, Pauline. Đừng lo lắng. Chúng tôi đã nói chuyện sau khi cậu rời đi. Dì ấy hiểu –”
“Cậu phải hiểu rằng, Lia, Terravin không giống như Civica. Cha của cậu và nội các của ông ấy không giám sát mọi người lính trong vương quốc. Dì Berdi đang làm hết sức có thể.”
Tôi quay sang định cãi nhau với cô ấy, cơn tức giận của tôi bùng lên khi bị chọc, nhưng rồi việc nhận ra sự thật lại khiến tôi khựng lại. Cha tôi hiếm khi rời khỏi những tiện nghi của Civica. Nội các của ông cũng vậy. Cha tôi chỉ cai quản mọi thứ từ xa, sắp xếp những thứ như hôn nhân để giải quyết vấn đề của mình. Lần cuối cùng ông thực sự tới thăm vương quốc của mình và nói chuyện với những người không được bảo vệ an ninh ở Civica là khi nào? Phó nhiếp chính và đoàn tùy tùng nhỏ của ông ấy là những người duy nhất rời khỏi Civica nhưng đó chỉ là những chuyến thăm ngoại giao thường lệ tới các lãnh địa nhỏ.
Tôi giơ chiếc quần ra trước mặt, cố gắng giũ phẳng những nếp nhăn, và cả hai chúng tôi nhìn cái đầu gối rách võng xuống, cùng những sợi chỉ sờn nơi có thêm hàng tá lỗ đang bắt đầu bung ra.
“Cậu nói đúng, Pauline. Terravin không giống như Civica.”
Chúng tôi trao nhau những nụ cười, biết rằng những bộ đồ rách rưới như thế này chưa bao giờ được sủng ái, ngay cả ở ngoài kinh đô, và chúng tôi đã để những điều chưa nói trôi qua. Sau ba mươi năm trị vì, cha tôi không còn hiểu vương quốc của mình nữa. Một số thứ dễ nhìn thấy từ xa hơn là khi chúng hiện diện ngay trước mặt.
Cả hai chúng tôi đều lên đồ, đóng thùng và đi ủng. Tôi đeo con dao bên hông và mặc chiếc áo chẽn bằng da mềm bên ngoài để che nó đi. Lưỡi dao dài mười lăm phân. Tôi cười. Anh ấy có tin không nhỉ? Nó thực sự chỉ dài chục phân - nhưng cũng nặng vừa đủ - và như dì Bernette nhắc, ta nên cường điệu một chút khi mô tả vũ khí, chiến công và các bộ phận cơ thể. Tôi mang theo con dao găm nạm ngọc để cảm thấy gần gũi với các anh của mình hơn là để bảo vệ, mặc dù để Rafe nghĩ vậy cũng chẳng hại gì. Anh Walther luôn mài lưỡi dao cho tôi, tự hào về những nhát chém của tôi trên cửa buồng. Mài dao giờ đã là việc của tôi. Tôi chạm vào lớp vỏ bọc, đảm bảo nó bám sát vào bên hông, tôi tự hỏi liệu các anh của tôi có nhớ tôi nhiều như tôi nhớ họ không.
Nhà trọ vẫn còn kín chỗ, không có phòng nào để dọn sáng nay, dì Berdi cử chúng tôi đi tìm kiếm những quả mâm xôi. Đó là một sự thay đổi đáng hoan nghênh, và tôi cũng háo hức muốn cho Otto, Nove và Dieci một ngày đi chơi, mặc dù tôi biết chúng chỉ cần ăn cỏ khô trong chuồng và thỉnh thoảng đưa ra những bình luận về bất kỳ ai đi ngang qua là đủ - điều mà chúng hay làm mỗi khi Enzo ở gần.
Chúng tôi sẽ đến đón Gwyneth trên đường đi và cô ấy sẽ chỉ cho chúng tôi đường đến Devil’s Canyon - Hẻm Núi Quỷ, nơi có rất nhiều mâm xôi đen. Dì Berdi khẳng định những quả mâm xôi ở đó là ngọt nhất. Chỉ còn chưa đầy hai tuần nữa là đến lễ hội, dì đang chuẩn bị làm bánh nướng, mứt và bánh flum vị mâm xôi. Ngoài ra, như Gwyneth bật mí, dì Berdi cần quả mâm xôi tươi để nấu mẻ rượu mới thay cho những chai sẽ được uống tại lễ hội năm nay.
Tôi tự hỏi không biết có gì trong những chiếc thùng tối màu được xếp ở góc hầm. Rõ ràng tất cả các thương gia đều đóng góp một thứ gì đó cho lễ hội và những món ngon từ quả mâm xôi là đặc sản của dì Berdi hết năm này qua năm khác. Truyền thống. Đó là thứ truyền thống mà tôi mong đợi.
Tôi tết tóc cho Pauline, cố gắng tết vòng quanh đầu cô ấy, nhưng tôi không giỏi nên cuối cùng phải cố gắng làm một bím tóc đơn giản nhưng gọn gàng ở giữa lưng cô ấy. Chúng tôi đổi chỗ, và cô ấy cũng làm như vậy với tôi, nhưng cô ấy làm kiểu phức tạp hơn một cách dễ dàng, bắt đầu thắt bím ở hai bên thái dương và tết chúng trên đỉnh đầu của tôi, khéo léo để lại những sợi lưa thưa trông thật mềm mại. Cô ấy tự ngâm nga một mình khi làm việc, tôi đoán cô ấy chắc hẳn vẫn đang suy ngẫm những giấc mơ về Mikael từ đêm hôm trước, nhưng rồi cô ấy lẩm bẩm ra miệng như thể cô ấy đã phát hiện ra thứ gì đó không nên có trên tóc tôi - như một con ve to béo.
“Sao vậy?” Tôi hỏi, giật mình.
“Chỉ là tôi nhớ ra hai người từ đêm qua. Họ trông rất khó chịu khi dì Berdi đuổi cậu vào bếp. Cậu có vài người hâm mộ thú vị.”
“Kaden và Rafe sao?”
“Ô! Cậu biết tên của họ?” Cô ấy giật tóc tôi, khiến tôi nhăn mặt.
“Phép lịch sự tối thiểu. Tôi hỏi trong lúc phục vụ.”
Cô ấy nghiêng người sang một bên để đảm bảo rằng tôi có thể nhìn thấy cô ấy trong gương và đảo mắt một cách thỏa mãn.
“Tôi đâu thấy cậu hỏi những tay đồ tể hói đầu tên họ là gì. Còn người thứ ba vào sau thì sao? Cậu cũng biết tên của anh ta chứ?”
“Người thứ ba?”
“Cậu không nhìn thấy anh ta sao? Anh ta bước vào ngay sau hai người kia. Một người gầy gò, cục cằn. Anh ta đánh mắt về phía cậu rất nhiều đấy.”
Tôi cố gắng nhớ lại anh ta, nhưng tôi đang mải mê với gã lính xấu tính và sau đó phục vụ Kaden và Rafe, đến nỗi tôi thậm chí không nhớ được cánh cửa quán rượu đã mở ra.
“Không, tôi không để ý thấy anh ta.”
Cô ấy nhún vai. “Anh ấy không ở lại lâu. Thậm chí còn không uống hết rượu táo của mình. Nhưng Kaden và Reef chắc chắn vẫn ở lại. Đối với tôi, họ không giống như những con thỏ sợ sệt.”
Tôi biết cô ấy đang ám chỉ Charles và nhiều chàng trai khác đã tránh mặt tôi. “Tên anh ta là Rafe,” tôi sửa lại.
“Ồ... Rafe. Cậu có thích ai hơn ai không?”
Sống lưng tôi cứng lại. Thích sao? Đến lượt tôi đảo mắt. “Họ vừa thô lỗ vừa tự phụ.”
“Đó là lời nói của hoàng thân hay của một người sợ những chú thỏ chạy trốn?” Cô ấy kéo một lọn tóc mỏng khác.
“Tôi thề, Pauline, tôi sẽ chặt đầu cậu nếu còn kéo tóc tôi thêm một lần nữa! Cậu bị sao vậy?”
Cô ấy kiên quyết, không mấy bận tâm đến lời đe dọa của tôi. “Tôi chỉ trả ơn cậu đêm qua. Lẽ ra, tôi nên tự mình chống lại gã lính đó trước khi cậu phải xen vào.”
Tôi thở dài. “Chúng ta đều có những kỹ năng khác nhau. Cậu kiên nhẫn với lỗi lầm, điều này đôi khi không giúp ích gì cho cậu. Mặt khác, tôi có tính kiên nhẫn của một con mèo ướt rượt. Chỉ trong những dịp hiếm hoi, điều đó mới có ích.” Tôi nhún vai cam chịu, khiến Pauline cười toe toét. Tôi nhanh chóng thêm một vẻ mặt cau có. “Và trả ơn tôi bằng cách làm tôi bị hói sao?”
“Tôi đang cứu cậu khỏi chính mình. Tôi đã thấy cậu và họ đêm qua.” Tay cô ấy buông xuống vai tôi. “Tôi muốn cậu ngừng sợ hãi,” cô ấy nói nhẹ nhàng. “Những người tốt sẽ không bỏ chạy đâu, Lia à.”
Tôi nuốt khan. Tôi muốn quay đi chỗ khác, nhưng mắt cô ấy vẫn nhìn tôi. Pauline biết tôi quá rõ. Tôi luôn che giấu nỗi sợ hãi của mình với người khác bằng cách nói chuyện sắc bén và cử chỉ táo bạo. Đã bao lần cô ấy nhìn thấy tôi cố gắng điều hòa hơi thở trong dãy hành lang tối tăm sau một cuộc chạm trán khó chịu với Học giả khi ông ta nói với tôi rằng tôi kém cỏi trong học tập, khả năng xã hội, hoặc bất kỳ thứ gì mà tôi không đạt được như mong đợi. Hay đã nhiều lần tôi đứng đơ ra trước cửa sổ buồng, thẫn thờ nhìn vô định vào hư không cả tiếng đồng hồ, nước mắt lưng tròng sau một lần bị cha đuổi về một cách cộc lốc. Hay những lần tôi phải lui vào buồng thay đồ và khóa cửa lại. Tôi biết Pauline đã nghe thấy tôi khóc. Vài năm qua, tôi đã không đếm được nữa, họ càng thúc ép, nhào nặn và khiến tôi im lặng, tôi càng muốn được lắng nghe.
Tay Pauline trượt khỏi vai tôi. “Tôi nghĩ rằng cả hai đều dễ nhìn,” tôi mào đầu. Tôi nghe thấy thanh âm của sự giả vờ trong chính giọng nói của mình. Sự thật là tôi thấy cả hai đều hấp dẫn theo cách riêng của họ. Tôi không phải là xác chết. Nhưng dù họ khiến tim tôi loạn nhịp khi bước vào quán rượu, họ cũng mang đến cho tôi nhiều lo lắng.
Pauline vẫn chờ đợi một thứ gì đó khác, mặt ngây ra. Có vẻ như điều này vẫn chưa đủ với cô ấy, vì vậy tôi đã kể thêm một điều chắc chắn rằng tôi sẽ hối hận. “Tôi có thể cũng thích một người trong số họ hơn.”
Mặc dù tôi không hoàn toàn chắc chắn. Tìm thấy một điểm hấp dẫn của một trong số họ không nhất thiết có nghĩa là tôi thích anh ấy. Tuy nhiên, anh ấy đã ám ảnh giấc mơ của tôi đêm qua một cách kỳ lạ. Những cái nhìn thoáng qua về khuôn mặt anh ấy tan biến và nó hiện đi hiện lại như một bóng ma, hiện trong bóng tối nơi rừng sâu, nơi những bức tường tàn tích đổ nát, và đôi mắt anh lóe lên trong một đốm lửa hồng.
Anh ấy đi theo bất cứ nơi nào tôi đến, tìm kiếm tôi như thể tôi đã đánh cắp một bí mật thuộc về anh. Đó là những giấc mơ đáng lo, hoàn toàn không phải kiểu mà Pauline mơ về Mikael, tôi cho là vậy. Có thể những giấc mơ không yên của tôi chỉ đơn giản là do món ăn của dì Berdi gây ra, nhưng sáng nay khi tôi thức dậy, suy nghĩ đầu tiên của tôi là về anh ấy.
Pauline mỉm cười và buộc bím tóc của tôi bằng một sợi dây raffi. “Quả mâm xôi đang chờ công chúa.”
✽ ✽ ✽
Khi chúng tôi buộc ba chú lừa, Kaden bước ra khỏi quán rượu. Dì Berdi phục vụ món ăn đơn giản vào buổi sáng - pho mát cứng, trứng luộc, cá trích, bánh mì nướng nóng, bánh mì dẹt, và nước diếp xoăn nóng - tất cả đều được bày trên tủ. Đó là một bữa ăn tự phục vụ đơn giản, hoặc một vị khách có thể gói nó vào túi để mang đi. Không ai bị đói ở quán của dì Berdi - kể cả những người ăn mày hay những vị công chúa xuất hiện ở cửa sau nhà dì.
Tôi kéo cương của Otto và tiếp tục kiểm tra dây của Nove khi tôi liếc trộm Kaden từ dưới hàng mi của mình. Pauline hắng giọng như thể cô đột nhiên bị vướng gì đó trong cổ. Tôi đưa mắt nhìn cô ấy đầy nghiêm khắc. Mắt cô ấy đảo về phía Kaden - người đang đi thẳng tới chỗ chúng tôi. Miệng tôi đột nhiên khô khốc, và tôi nuốt khan, cố gắng tiết ra một chút gì đó ẩm. Anh ấy mặc một chiếc áo trắng, và đôi ủng anh lấm lem bùn đất khi đến gần.
“Chào buổi sáng các cô gái. Hai người đi sớm ghê.”
“Anh cũng vậy,” tôi trả lời.
Chúng tôi bắt đầu những câu chuyện xã giao, và anh ấy giải thích rằng anh ấy đi giải quyết một số chuyện và anh ấy phải ở nhà trọ vài ngày nữa, mặc dù anh ấy không nói cụ thể chuyện gì.
“Anh có phải là một người buôn da thuộc như Gwyneth đoán không?” Tôi hỏi.
Anh ấy mỉm cười. “Đúng là vậy. Da động vật nhỏ. Thường thì tôi buôn bán ở Piadro, nhưng tôi hy vọng sẽ tìm được giá tốt hơn ở phía bắc. Khá khen bạn của cô về khả năng quan sát tinh tế của cô ấy.”
Vậy là tôi đã nhầm. Anh ấy đúng là kinh doanh da động vật. Ấn tượng ban đầu không phải lúc nào cũng đúng. “Phải vậy,” tôi đồng ý. “Gwyneth khá nhạy bén.”
Anh ấy cởi dây cho con ngựa của mình. “Tôi hy vọng rằng khi tôi trở lại vào chiều nay, sẽ có một căn phòng đàng hoàng.”
“Ít nhất cũng phải đợi đến khi lễ hội kết thúc,” Pauline đáp. “Nhưng trong thị trấn chắc vẫn còn quán trọ khác có phòng.”
Anh ấy trầm ngâm như thể đang suy tư gì đó rất sâu xa. Ánh mắt ấy chạm vào tôi và lưu lại lâu hơn bình thường vài nhịp khiến tôi cảm thấy không thoải mái. Giữa ban ngày, mái tóc vàng hoe của anh ấy bóng mượt óng ả, đôi mắt nâu sẫm còn ánh lên nhiều sắc màu hơn, cái thứ màu đồng lốm đốm nổi bật, tựa hồ một vốc đất màu mỡ nóng hổi vừa được xới lên, nhưng vẫn có chút gì đó âu lo dưới cái vẻ bình thản ấy. Một cọng râu ngắn trên cằm anh ấy ngẩn ngơ bắt gặp ánh nắng ban mai ngay dưới đôi môi nam tính đang kéo lên thành một nụ cười thích thú khiến tôi nhận ra mình đang ngắm nghía quá lâu. Tôi nhanh chóng quay về phía Nove, cảm thấy hai gò má mình ửng đỏ.
“Tôi sẽ ở lại đây,” anh ấy trả lời.
“Còn bạn của anh thì sao? Anh ấy sẽ ở lại chứ?” Tôi hỏi.
“Tôi không biết kế hoạch của anh ấy là gì, nhưng tôi đồ là cái mũi khó tính của anh ấy không thể ở lâu trong căn gác xép đó đâu.” Anh chào tạm biệt, và tôi nhìn anh cưỡi con ngựa đen như màn đêm rời đi, một con mãnh thú, đến hơi thở của nó cũng đáng sợ, như thể dòng dõi của loài rồng. Con quái vật này có thể phá tan chuồng ngựa thành vụn vỡ và không ai có thể nhầm nó với một con ngựa cái cả. Tôi mỉm cười nghĩ về cách Rafe đã lừa anh ấy. Đúng là một đôi bạn kỳ quặc.
Khi anh ấy đã khuất bóng, Pauline nói, “Vậy đó là Rafe.”
Tôi đu lên Otto và không trả lời. Hôm nay Pauline dường như thức dậy để vun đắp các mối quan hệ, đầu tiên là tôi và dì Berdi, giờ là tôi và... ai đó. Có phải vì cô ấy đã từng sống chết muốn củng cố mối quan hệ của bản thân với Mikael? Thường thì tôi không cầu khấn thần linh nếu không phải là trong một nghi lễ bắt buộc, nhưng tôi đã chạm hai ngón tay lên môi và cầu trời rằng Mikael sẽ sớm trở lại.
✽ ✽ ✽
Terravin nhỏ bé và điều đó phần nào làm nên nét quyến rũ của nó. Từ khu nhà trọ khuất sau những ngọn đồi của dì Berdi ở đầu phía nam đến khu hàng quán đầu tiên ở đầu phía bắc, chỉ mất mười lăm phút là tới nơi, nhanh hơn nếu bạn không cưỡi ba con lừa thong dong. Tất cả những ngôi nhà và cửa hàng đều có màu sắc rực rỡ khiến tôi rất tò mò, và Pauline nói với tôi rằng đó là một truyền thống đã có từ nhiều thế kỷ. Những người phụ nữ làng chài nhỏ dùng màu sắc tươi sáng để sơn nhà, họ mong người chồng khi ra khơi có thể nhìn thấy ngôi nhà của mình từ xa và nhớ rằng người vợ chờ họ trở về. Người ta cho rằng làm vậy là một cách để bảo vệ tình yêu đích thực của họ khỏi bị lạc lối trên biển.
Liệu có ai đi xa đến mức không tìm được đường về nhà không? Mực nước biển sâu nhất đối với tôi là qua đầu gối của mình, bấy giờ tôi lội xuống làn nước lạnh cóng ở biển Safran trong một chuyến du ngoạn hiếm hoi cùng gia đình, nơi tôi đuổi theo các anh trên bãi biển và nhặt vỏ sò với... cha tôi. Kỷ niệm xưa ùa qua tâm trí tôi như một cơn gió lạnh. Hàng tá ký ức khác chồng chất lên và dập tắt nó. Tôi chắc chắn rằng cha tôi không hề nhớ chuyện đó. Ông đã khác xưa rất nhiều. Tôi cũng khác.
Pauline và tôi đi về phía bắc dọc theo con đường nhỏ phía trên song song với con đường chính bên dưới. Những vằn ánh sáng đủ mọi hình thù len lỏi qua tán cây và hắt bóng trên con đường chúng tôi đi. Bên cạnh đường chính, còn có hàng chục con đường nhỏ hẹp như thế này vòng quanh Terravin và các sườn đồi, mỗi con đường đều dẫn đến một khám phá độc đáo. Chúng tôi men theo một con đường đến trung tâm thị trấn, và đền thờ dần hé lộ, một công trình kiến trúc thật hùng vĩ so với một ngôi làng nhỏ như vậy. Tôi đoán rằng người dân Terravin hẳn rất thành tâm trong việc sùng kính các vị thần.
Một bên là nghĩa địa, chằng chịt những bia mộ cũ kĩ làm từ những phiến đá mỏng. Mọi nét chạm trổ tên tuổi hay lời tưởng niệm đều đã phai mờ theo năm tháng cùng với danh tính những người bên dưới. Tuy nhiên, trước vài phiến đá rải rác vẫn có những ngọn nến tưởng nhớ được thắp lên le lói trong lồng đèn kính màu đỏ.
Tôi nhìn ánh mắt của Pauline lướt qua bia mộ và những ngọn nến. Ngay cả Otto cũng chậm lại khi chúng tôi đi qua, tai nó giật giật như thể đang được những người dân bên dưới tung hồ. Một cơn gió nhẹ lướt qua những bia mộ, kéo những lọn tóc quấn quanh cổ tôi.
Mất rồi... đã xa mất rồi...
Tôi dựng hết tóc gáy. Nỗi sợ làm cổ họng tôi nghẹn cứng. Mikael. Có điều gì đó không ổn. Có điều gì đó sai lầm, vô vọng và vô phương cứu chữa.
Nỗi sợ hãi choán lấy tôi đầy bất ngờ. Tôi buộc mình phải nhớ lại sự thật: Mikael chỉ đang đi tuần. Walther và Regan đều đã thực hiện hàng tá các cuộc tuần tra, và đôi khi họ trở về muộn do thời tiết, nhu yếu phẩm hoặc một số chuyện nhỏ nhặt. Đi tuần không nguy hiểm. Đôi khi có những cuộc giao tranh, nhưng hiếm khi họ gặp phải một kẻ ngoại xâm. Vết thương duy nhất mà một trong hai người từng mang về là ngón chân bị giập nát khi một con ngựa giẫm lên chân trần của Regan.
Tuần tra chỉ là một biện pháp phòng ngừa, một cách để khẳng định biên giới không bị xâm phạm và một cách để đảm bảo không có khu định cư lâu dài nào được thiết lập ở Cam Lanteux - vùng trung lập giữa các vương quốc. Họ đánh đuổi các băng nhóm man di về đất của chúng. Walther gọi đó là diễu võ dương oai. Theo anh ấy, phần tệ hơn của nó là phải chịu đựng mùi cơ thể của những gã không tắm rửa. Thực sự tôi không chắc rằng lũ man di là một mối đe dọa. Đúng, tôi từng nghe từ những báo cáo trên triều và từ cả những người lính, chúng dã man vô cùng, nhưng cũng đã bị giữ lại sau biên giới hàng trăm năm rồi. Chúng có thể hung hãn đến mức nào cơ chứ?
Tôi tự nhủ rằng tình yêu đích thực của Pauline vẫn ổn, nhưng cảm giác nặng trĩu khôn nguôi vẫn không rời. Tôi chưa gặp Mikael bao giờ cả. Anh ấy không đến từ Civica, chỉ được quân đội luân chuyển đến đó, và Pauline đã tuân theo các quy định của hoàng gia đối với bức thư, rất kín đáo, đến mức cô ấy thậm chí không bao giờ đề cập đến anh ấy cho đến khi chúng tôi quyết định rời đi. Bây giờ tôi sợ rằng tôi sẽ không bao giờ gặp được người đàn ông trẻ tuổi này, người khiến cô ấy rạng rỡ mỗi khi nhớ về.
“Cậu có muốn dừng lại không?” Tôi thốt lên quá to khiến cô ấy giật mình. Tôi kéo dây cương của Otto lại.
Cô ấy dừng lại, những nếp nhăn lo lắng hằn rõ trên trán. “Nếu cậu không phiền. Chỉ một lát thôi.”
Tôi gật đầu và cô ấy trượt khỏi Nove, rút một đồng xu từ túi yên ngựa của mình. Cô ấy vội vã vào đền thờ. Một ngọn nến. Một lời cầu nguyện. Một niềm hy vọng. Một ánh sáng le lói thắp lên cho Mikael. Một ngọn đèn hiệu dẫn anh ấy đến Terravin an toàn.
Vậy là tạm ổn cho tới khi một điềm báo khác của những người đã chết lại réo gọi. Pauline giữ lời, như mọi khi, chỉ một lát là cô ấy đã quay lại, khuôn mặt cứng ngắc đầy lo lắng của cô ấy vài phút trước phần nào đã dịu đi. Pauline đã gửi những âu lo cho các vị thần. Trái tim tôi nhẹ đi phần nào.
Chúng tôi đến con đường chính và đi theo chỉ dẫn của dì Berdi đến căn phòng thuê nhỏ của Gwyneth phía trên tiệm bào chế thuốc. Đó là một cửa hàng nhỏ nằm kẹp giữa những cửa hàng lớn hơn nhiều. Chiếc cầu thang hẹp ôm sát một bờ tường và dẫn lên một căn phòng trên tầng hai. Chắc đó là phòng của Gwyneth. Nó thụt hẳn vào trong so với phần còn lại của cấu trúc và không rộng hơn một sải tay, chắc chắn không có nước và không thoải mái như trong một phòng thay đồ. Tôi vô cùng tò mò về cuộc sống của Gwyneth bên ngoài quán rượu. Cô ấy không bao giờ nói về nó ngay cả khi được hỏi, luôn đưa ra những câu trả lời mơ hồ và chuyển sang chủ đề khác, điều này càng làm trí tưởng tượng của tôi bay cao hơn. Tôi đã mong đợi cô ấy sống ở một nơi nào đó thú vị hoặc bí ẩn hơn nhiều chứ không phải một căn phòng nhỏ trên một cửa hàng giữa con phố chính đông đúc.
Chúng tôi trượt khỏi những con lừa của mình, và tôi đưa dây cương của Otto cho Pauline, nói với cô ấy rằng tôi sẽ lên lầu gọi Gwyneth, nhưng đột nhiên Gwyneth xuất hiện từ hàng đóng giày bên kia đường với một đứa trẻ chừng sáu hoặc bảy tuổi, trông khá xinh xắn với những lọn tóc màu dâu tây sậm xõa qua vai và những hạt bụi của nắng mai đậu lại trên mũi và má. Cô bé ôm một gói nhỏ sát ngực bằng tất cả sự trân quý. “Cảm ơn cô, cô Gwyneth! Cháu nóng lòng muốn được cho mẹ xem!”
Cô bé chạy bay đi và khuất dạng phía sau con đường nhỏ. “Tạm biệt, Simone!” Gwyneth nói vọng theo và tiếp tục hướng về con đường nơi bé gái đã vụt đi mất. Một nụ cười hé thắp sáng đôi mắt cô làm cả không gian trở nên dịu dàng hơn. Đó là mặt dịu dàng mà tôi chưa bao giờ thấy ở Gwyneth.
“Bé gái xinh quá,” tôi đánh động cô ấy về sự hiện diện của chúng tôi.
Cô ấy đánh mắt về phía cả hai, dáng người có phần cứng lại. “Các cô đến sớm đấy,” cô nói cộc lốc.
Cô ấy sang đường cùng chúng tôi, kiểm tra con Dieci răng hô một cách kĩ lưỡng, lớn tiếng tự hỏi liệu con thú này đã từng được cưỡi chưa. Trên thực tế, chúng tôi không biết, mặc dù nó khá ngoan ngoãn để chúng tôi lắp yên. Khi cô ấy đang kiểm tra dây đai của nó thì một xe đẩy lớn chở đồ ăn trưa trên đường đến bến tàu lạch cạch ngang qua, và hương thơm nồng nàn của món lươn rán béo ngậy bủa vây quanh chúng tôi. Mặc dù tôi không thích đặc sản của vùng này lắm, tôi vẫn cho rằng mùi của nó không đến nỗi nào, nhưng bàn tay của Pauline đã đưa ngay lên miệng. Mặt cô ấy tái đi, người cúi gập, bữa sáng của cô ấy theo mùi lươn bắn tung tóe khắp phố. Tôi cố quay ra giúp, nhưng cô ấy gạt tôi ra và ôm chặt bụng khi một tràng khác tuôn trào mãnh liệt hơn lần đầu. Tôi chắc chắn lúc này bụng cô ấy đã trống rỗng. Cô ấy đứng thẳng dậy, run rẩy hít một hơi, nhưng tay vẫn ấn vào bụng. Tôi nhìn chằm chằm vào đôi tay của cô ấy, và ngay lập tức mọi thứ khác như bay biến hết.
Ôi, thần linh phù hộ.
Pauline?
Tôi giật mình như bị đánh trực diện vào bao tử. Bảo sao cô ấy trông xanh xao vàng vọt đến vậy. Bảo sao cô ấy sợ hãi đến vậy.
“Pauline,” tôi thì thầm.
Cô ấy lắc đầu, cắt lời tôi. “Tôi ổn! Tôi sẽ ổn thôi. Món cháo chắc là chưa được nấu chín.” Cô ấy nhanh chóng gửi cho tôi một ánh nhìn khẩn cầu với đôi mắt ngấn nước.
Chúng ta có thể nói chuyện này sau. Khi Gwyneth đang nhìn, tôi vội vàng cố gắng che đậy, giải thích rằng Pauline luôn có một thể trạng đặc biệt.
“Bụng yếu hay không thì cô ấy cũng không đủ sức để đi xuống một hẻm núi nóng hái mâm xôi,” Gwyneth khẳng định chắc nịch và tôi rất biết ơn vì Pauline đã đồng ý. Trông vẫn nhợt nhạt, cô ấy khẳng định mình có thể một mình trở về được. Tôi lưỡng lự để cô ấy đi.
“Sau tránh món cháo yến mạch ra nhé.” Gwyneth nói vọng theo sau khi cô ấy cưỡi lừa ra về.
Nhưng cả tôi và Pauline đều biết bữa sáng chẳng phải nguyên nhân khiến cô ấy nôn nao.
.
Hậu thế của kẻ trộm
Hiện thân thành giống Rồng,
Lòng tham vô bờ bến,
Trẻ nhỏ là điểm tâm,
Uống cạn nước mắt người mẹ.
– Bài hát của Venda