Chương 15
Anh ấy dừng ngựa cách tôi một khoảng, như thể đang đợi một tín hiệu từ tôi để tiến lên. Bụng tôi quặn thắt. Mặt anh ấy hôm nay có nét khác thường. Vẫn đẹp trai, nhưng hôm qua anh ấy có vẻ rất tức giận và như muốn ăn tươi nuốt sống tôi.
Hôm nay anh ấy muốn một thứ gì đó khác.
Dưới ánh nắng của mặt trời trên cao, từng bóng cây hằn lên hai gò má anh ấy và đôi mắt xanh thẳm sắc lẹm kia như làm cả đất trời nín thở. Nằm gọn bên trong hàng mi đen óng là ánh mắt khiến cho bất cứ ai cũng phải nghĩ kĩ trong từng bước đi. Anh ấy khiến tôi phải suy tính kĩ bước đi của mình. Tôi nuốt khan. Một tay anh giơ cao hai cái giỏ thay lời giải thích về sự hiện diện của mình. “Pauline nhờ tôi. Cô ấy nói rằng cô quên những thứ này.”
Tôi cố không đảo mắt. Tất nhiên là cô ấy đã làm vậy rồi. Pauline chu đáo của tôi. Ngay cả trong tình trạng suy yếu, cô ấy vẫn là một thành viên trung thành trong đội hầu cận của nữ hoàng, vẫn cố gắng tạo các cơ hội từ xa, và tất nhiên, cô ấy là kiểu người mà ngay cả Rafe cũng không thể từ chối.
“Cảm ơn anh,” tôi trả lời. “Cô ấy bị ốm và phải quay về nhà trọ, nhưng tôi quên lấy giỏ trước khi cô ấy đi.”
Anh ấy gật đầu như thể tất cả đều hoàn toàn hợp lý. Sau đó, ánh nhìn của anh ấy chạy từ bờ vai qua cánh tay trần của tôi. Hóa ra chiếc áo lót trong của tôi không đứng đắn như tôi đã nghĩ, nhưng hiện giờ, tôi không làm gì để thay đổi tình hình được. Cùng với con dao, áo chẽn của tôi vẫn được treo trên yên của Otto. Tôi tiến lại gần để lấy mấy cái giỏ, đồng thời cố gắng phớt lờ làn nhiệt đang tỏa khắp ngực mình.
So với con ngựa khổng lồ của anh ấy thì con Ravian của tôi trông như ngựa Pony của trẻ con vậy. Vóc dáng của nó không phải loại chạy nhanh mà chuyên về sức khỏe và cũng có lẽ là để hăm dọa. Yên ngựa cao đến nỗi Rafe phải nghiêng sâu người xuống để đưa cho tôi cặp giỏ.
“Tôi xin lỗi nếu có xen ngang,” anh ấy nói khi tôi lấy giỏ.
Lời xin lỗi của anh ấy làm tôi ngỡ ngàng. Giọng nói lịch sự và thành thật chứ không đầy cay đắng như ngày hôm qua.
“Không ai gọi lòng tốt là xen ngang,” tôi đáp lại. Ngước nhìn anh và trước khi tôi kịp ngắt lời chính mình, tôi chợt nhận ra mình đã mời anh ở lại cho ngựa uống nước từ lúc nào không hay. “Đấy là nếu như anh có thời gian.” Tôi đã làm gì thế này? Có điều gì đó về anh ấy làm tôi rất khó chịu nhưng cũng đồng thời làm tôi say mê, đến nỗi những lời mời của tôi trở nên quá bất cẩn.
Lông mày anh nhướn lên xem xét lời đề nghị của tôi, và trong thoáng chốc tôi đã mong anh từ chối. “Tôi nghĩ là mình có thời gian,” anh ấy nói. Anh xuống ngựa và dẫn nó đến hồ nước, nhưng nó chỉ ngửi mặt hồ. Con ngựa khoang trắng đen này chắc là con ngựa đẹp nhất mà tôi từng thấy trên đời. Bộ lông của nó sáng lấp lánh, những sợi lông bồng bềnh trên chân làm nó giống như đang bước đi trên mây. Rafe buông dây buộc ngựa xuống và quay về phía tôi.
“Cô đang hái mâm xôi à?”
“Dì Berdi cần chúng cho lễ hội sắp tới.”
Anh ấy bước lại gần chỉ cách tôi một sải tay và nhìn ngắm quanh hẻm núi. “Tít tận ngoài này sao? Không có chỗ nào gần nhà trọ hơn à?”
Tôi giữ vững lập trường của mình. “Không đâu như ở đây. Quả mâm xôi ở đây to gấp đôi bình thường.”
Anh ấy nhìn tôi chằm chằm như thể tôi chưa nói. Tôi biết ngay là có gì đó khác thường. Chúng tôi nhìn nhau chòng chọc như thể đang tranh đấu tại một mặt trận tâm lý nào đó, và tôi biết nếu tôi quay đi, tôi sẽ thua. Cuối cùng anh nhìn xuống một lúc, có phần hơi tội lỗi, cắn nhẹ môi dưới, tôi thở phảo nhẹ nhõm.
Vẻ mặt anh dịu đi. “Tôi giúp được gì không?” Anh ấy hỏi.
Giúp ư? Tôi lóng ngóng với mấy cái giỏ và làm rơi mất một cái. “Tinh thần anh nay có vẻ phấn chấn hơn hôm qua đấy,” vừa nói tôi vừa cong người xuống nhặt đồ.
“Hôm qua tôi đâu có sầu bi gì đâu.”
Tôi nói thẳng. “Rõ ràng. Trông anh như một tên cục mịch vô học vậy.”
Anh ấy từ từ nhếch mép lên cười mỉm, vẫn nụ cười đầy hoang đại, kiêu ngạo, bí ẩn của đêm qua. “Cô làm tôi ngạc nhiên đấy, Lia.”
“Sao lại ngạc nhiên?” Tôi hỏi.
“Về nhiều thứ. Nhất là nỗi sợ thỏ kinh hoàng của cô.”
“Sợ thỏ...” Tôi chớp mắt chậm rãi và khó nhọc. “Anh không nên tin mọi thứ người khác nói chứ. Pauline nổi tiếng là rất hào phóng trong việc thêm thắt sự thật đó.”
Anh ấy từ từ xoa cằm. “Chẳng phải ai cũng vậy sao?”
Tôi đã nghiên cứu anh ấy, nhưng so với Gwyneth thì anh ấy còn bí ẩn hơn nhiều. Từng câu từng chữ anh nói dường như đều mang theo chút hàm ý nào đó.
Tôi sẽ bắt Pauline phải trả giá, bắt đầu bằng bài giảng về thỏ. Tôi quay đi và bước đến bụi quả mâm xôi. Đặt một giỏ cạnh chân và dần vun đầy giỏ khác. Tiếng bước chân của Rafe tiến gần lại từ phía sau. Anh ấy dừng lại bên tôi và nhặt chiếc giỏ còn lại. “Đình chiến nhé? Tạm thời thôi? Tôi hứa sẽ không là một tên cục mịch vô học.”
Tôi dán mắt vào bụi quả mâm xôi nước trước mặt, cố gắng nén một nụ cười. “Đình chiến,” tôi trả lời.
Anh ấy hái vài quả mâm xôi ở cạnh tôi, thả vài quả vào giỏ của tôi như thể đang làm nhanh hơn cả tôi vậy. “Lâu lắm rồi tôi không làm chuyện này, từ hồi còn bé xíu,” anh ấy nói.
“Anh đang làm khá tốt đấy. Nãy giờ chưa có ăn vụng quả nào.”
“Ý cô là làm vậy được sao?”
Tôi cười trong lòng. Giọng anh vẻ như vui đùa, mặc dù tôi không thể tưởng tượng bất kỳ biểu cảm nào như vậy trên khuôn mặt của anh. “Cấm tuyệt đối nhé,” tôi trả lời.
“Thế lại hay. Đây không phải hương vị mà tôi nên ăn. Nơi tôi sống không có quả như thế này.”
“Chỗ đó là đâu vậy?”
Bàn tay của anh ấy dừng lại trên một quả mâm xôi như thể đang quyết định có nên vặt nó hay không. Anh rốt cuộc cũng bứt nó và kể về thị trấn nhỏ nơi mình sinh ra tại cực nam của Morrighan. Khi tôi hỏi địa danh, anh nói nơi đó rất nhỏ và không có tên.
Rõ ràng là anh ấy không muốn tiết lộ chính xác đó là chỗ nào. Cũng có thể anh đang chạy trốn quá khứ không mấy dễ chịu như tôi, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi phải tin lời anh ngay. Tôi có thể vờn anh thêm một chút. “Một thị trấn không có tên ư? Thật á? Nghe lạ quá đi.” Tôi đợi anh lúng túng, và anh đã không làm tôi thất vọng.
“Đó chỉ là một vùng với vài ngôi nhà rải rác. Người chỗ tôi toàn nông dân. Còn cô thì sao? Cô đến từ đâu?”
Một vùng không tên? Cũng có thể. Anh ấy khỏe mạnh, rắn chắc với làn da rám nắng của một người nông dân, nhưng cũng có nhiều điều về anh không dân dã chút nào, ví như cách ăn nói, thần thái và cả đôi mắt xanh đầy vẻ hăm dọa kia nữa. Đôi mắt dũng mãnh như của một chiến binh vậy. Đó không phải cặp mắt của một người nông dân an phận xới đất qua ngày.
Tôi lấy quả trên tay anh bỏ vào mồm. Tôi đến từ đâu nhỉ? Tôi nheo mắt cười. “Một thị trấn nhỏ ở cực bắc của Morrighan. Hầu hết là nông dân. Chỉ là một vùng, thực sự đấy. Một vài nhà ở rải rác. Bất quá chỉ có vài nhà. Không có tên.”
Tiếng cười khúc khích bật ra khỏi anh ấy. “Vậy thì chúng ta đến từ hai cực của một thế giới nhỉ?”
Tôi nhìn chằm chằm vào anh, thích thú vì có thể làm anh cười. Tôi quan sát nụ cười tan dần trên khuôn mặt của anh. Đôi mắt vẫn giữ được nét ân cần. Nụ cười đã làm cho anh ấy thư giãn hơn. Anh ấy trẻ hơn tôi nghĩ, có lẽ tầm mười chín. Tôi luôn bị tò mò bởi –
Đồng tử tôi giãn ra. Ham mê nghiên cứu anh quá lâu mà tôi quên mất không trả lời câu hỏi. Tôi ngoảnh mặt đi, lồng ngực như trống đánh, và quay trở lại với cái giỏ đầy một nửa của mình, tuốt vài quả mâm xôi xanh trước khi tay anh ấy vươn ra và chạm vào giỏ của tôi.
“Chúng ta đi bộ một chút nhé?” Anh ấy đề nghị. “Tôi nghĩ bụi này trơ trọi hết rồi, trừ khi dì Berdi muốn cả những quả xanh.”
“Vâng, có lẽ chúng ta nên đi thôi.”
Anh ấy buông tay ra, và chúng tôi đi xa một chút xuống hẻm núi và hái quả trên đường đi. Anh ấy hỏi tôi đã làm ở nhà trọ bao lâu, và tôi nói với anh ấy chỉ vài tuần. “Trước đó cô làm gì?”
Bất cứ điều gì tôi đã làm ở Civica đều không đáng nói ra. Hầu hết là vậy. “Tôi đi ăn trộm” tôi nói, “nhưng giờ tôi muốn dùng đôi tay này để kiếm những đồng tiền lương thiện. Đến giờ thì vẫn ổn.”
Anh ấy mỉm cười. “Ít ra thì cũng không phải đi ăn trộm nữa?”
“Chính xác.”
“Còn gia đình thì sao? Cô có thường xuyên gặp cha mẹ không?”
Kể từ ngày bỏ trốn với Pauline, tôi không kể chuyện này với bất kỳ ai. Trước sau gì tôi cũng sẽ bị treo thưởng. “Cha mẹ tôi mất rồi. Anh có thích món thịt nai hôm qua không?”
Anh ấy gật đầu thể hiện sự đồng tình với thái độ thay đổi chủ đề nhanh chóng của tôi.
“Món đó ngon tuyệt luôn. Gwyneth đã rất hào phóng giúp đỡ tôi.”
Không biết cô ấy còn hào phóng thêm gì khác ngoài thịt nai không. Không phải là cô ấy đã từng phá lệ trước đây, nhưng mà nhìn cách cô ấy đã đưa với một vài khách hàng, tôi tự hỏi liệu Rafe đã từng là một trong số họ chưa.
“Anh sẽ tiếp tục ở lại à?”
“Một thời gian nữa. Ít nhất là hết lễ hội.”
“Anh sùng đạo chứ?”
“Về một số thứ.”
Cách né tránh câu hỏi gọn gàng đó khiến tôi tò mò liệu anh ấy thích lễ hội là vì đồ ăn hay đức tin. Lễ hội hàng năm chủ yếu là về đồ ăn và các lễ nghi tôn giáo. Sẽ có người thích cái này hơn cái kia.
“Tay anh có nhiều vết xước vậy. Có phải tai nạn trong lúc làm việc không?”
Anh ngắm nghía đôi tay như thể vừa mới nhận ra chúng vậy. “Ồ, mấy vết này. Sắp lành rồi mà. Tôi bị vậy do khi trước làm việc trên nông trại, mà giờ tôi đang thất nghiệp.”
“Nếu anh không thể trả tiền, dì Berdi sẽ lột da anh đấy.”
“Dì Berdi không phải lo gì cả. Thiếu việc làm chỉ là tạm thời thôi. Tôi có đủ để trang trải.”
“Vậy thì da anh được bảo toàn. Quanh nhà trọ luôn có vài việc mà anh có thể làm để kiếm tiền. Chẳng hạn như ngôi nhà tranh đang cần lợp lại mái. Sau đó dì Berdi có thể cho thuê đàng hoàng và kiếm được nhiều tiền hơn.”
“Vậy cô sẽ ở đâu?”
Làm sao anh ấy biết tôi ở trong ngôi nhà tranh? Hướng đi tối qua của tôi lộ liễu vậy sao? Tuy nhiên, theo hướng đó thì tôi có thể đi lối sau vào bất cứ căn nhà nào ở gần quán trọ - trừ khi tối qua anh ấy theo đuôi tôi tới tận cửa phòng.
Như thể nhìn thấy những hoài nghi đang dấy lên trong đầu tôi, anh ấy thêm ngay, “Pauline bảo tôi rằng cô ấy đến căn nhà tranh để nghỉ khi nhờ tôi mang giỏ đến cho cô.”
“Tôi chắc căn gác xép sẽ hợp với tôi và Pauline như với các vị khách thôi. Tôi đã từng ở trong tình trạng tệ hơn thế nhiều.”
Anh ấy hằm hừ như thể không tin tôi, khiến tôi tự hỏi anh ấy nhìn nhận tôi như thế nào. Chẳng lẽ nét vương giả hiện rõ trên khuôn mặt và lời nói của tôi? Không thể có điểm nào khác biệt được. Móng tay sứt mẻ, bàn tay nứt nẻ, và quần áo thì rách rưới. Tôi đột nhiên cảm thấy tự hào về chuyến hành trình từ Civica đến Terravin. Xóa dấu vết luôn là ưu tiên và hết lần này đến lần khác chúng tôi phải ngủ trên mặt đất sỏi đá, thậm chí không hề có lửa trại ấm nóng.
Hẻm núi càng lúc càng hẹp, và chúng tôi men theo một lối nhỏ mở ra một cao nguyên xanh ngắt hướng ra bờ biển. Gió trên này mạnh đến nỗi tóc tôi quất tứ tung. Tôi vén tóc và chiêm ngưỡng đại dương tím biếc bên dưới một màu ngọc trai, một cơn vũ bão hoang dã, đầy lôi cuốn nhưng cũng thật đáng sợ: Nhiệt độ ấm áp của hẻm núi đã không còn mà thay vào đó là những cơn gió lạnh trên bờ vai trần của tôi. Những con sóng cuồn cuộn lao mình vào những phiến đá gồ ghề bên dưới rồi tan thành từng đợt bọt trắng bồng bềnh.
“Cẩn thận đừng đến gần,” Rafe cảnh báo. “Vách đá có thể lở.”
Tôi nhìn xuống vách đá vươn ra bên ngoài như móng vuốt mọc từ hẻm núi và lùi lại một bước. Xung quanh chúng tôi chỉ toàn là cỏ. “Chắc trên này không có bụi mâm xôi nào rồi, tôi nói điều hiển nhiên.
“Ừ,” anh trả lời. Đôi mắt anh ngước từ khe núi lên nhìn tôi, những giây dài trôi qua, và tôi cảm nhận được sức nặng của sự chú ý đó, như thể anh đang nghiên cứu tôi vậy. Anh chợt nhận ra và nhìn ra xa xuống cuối bờ biển.
Dọc theo ánh nhìn của anh, ở phía xa, những tàn tích khổng lồ của hai mái vòm lớn cũ kĩ đã sụp đổ ở phía đón gió nhưng vẫn vươn cao hơn những ngọn sóng trông như xác những sinh vật biển khổng lồ dạt vào bờ.
“Chắc hẳn một thời chúng từng rất hoành tráng,” tôi nói.
“Đã từng ư? Không phải vẫn rất ấn tượng hay sao?”
Tôi nhún vai. Các văn bản của Morrighan đều cẩn trọng khi nói về Người xưa. Tôi thấy buồn khi nhìn đống tàn tích của họ. Các á thần từng làm chủ cõi trời đã suy vi, bị đánh bại đến mức phải chết. Tôi luôn tưởng tượng rằng những kiệt tác vụn vỡ của họ sẽ hát lên một bản bi ca trường tồn. Tôi quay lại, nhìn đám cỏ dại đang run rẩy giữa cao nguyên. “Tôi chỉ thấy một lời nhắc nhở rằng không có gì là mãi mãi, kể cả sự vĩ đại.”
“Có những thứ vẫn trường tồn đó.”
Tôi đối mặt với anh. “Có thật không? Và nó là gì?”
“Những điều quan trọng.”
Câu trả lời của anh ấy làm tôi ngạc nhiên cả về nội dung lẫn cách truyền tải. Nó lôi cuốn một cách kỳ lạ, thậm chí ngây thơ, nhưng chân thành. Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ nghe được những lời như vậy từ một người gai góc như anh. Tôi có thể dễ dàng phản biện lại anh. Những điều quan trọng đối với tôi đều không được lâu dài. Tôi mong muốn khôn xiết được thấy các anh của mình ở Terravin này cũng như thấy tình yêu thương trên khuôn mặt cha mẹ tôi một lần nữa. Và những thứ quan trọng đối với cha mẹ tôi cũng không kéo dài, như truyền thống của Con gái trưởng. Tôi là nỗi thất vọng ê chề đối với họ. Phản ứng duy nhất của tôi dành cho anh ấy là một cái nhún vai hời hợt.
Anh cau mày. “Cô coi thường mọi thứ của thế hệ trước à? Tất cả truyền thống của cha ông để lại sao?”
“Hầu hết. Đó là lý do mà tôi tới Terravin. Mọi thứ ở đây đều khác.”
Đầu anh nghiêng sang một bên và nhích lại gần. Tôi không thể di chuyển mà không tiến về phía những vết nứt chỗ vực đá. Anh ấy chỉ cách tôi một gang tay khi anh ấy đưa tay ra, ngón tay anh ấy lướt qua vai của tôi. Hơi nóng chảy dọc cơ thể tôi.
“Vậy đây là gì?” Anh ấy hỏi. “Trông nó có nét tương tự với một truyền thống. Để đánh dấu một dịp nào đó phải không?”
Tôi nhìn xuống nơi anh ấy chạm vào. Chiếc áo đã trượt khỏi vai tôi, để lộ một phần móng vuốt sư tử và những dây nho của Morrighan. Họ đã làm gì mà tôi không thể thoát khỏi con thú này? Mấy nghệ nhân khốn kiếp!
Tôi kéo mạnh chiếc áo lót trong của mình để che đi. “Đó là một sai lầm khủng khiếp. Chỉ vậy thôi. Chẳng khác vết tích của mấy tên mọi rợ là mấy!”
Tôi cáu điên vì cái hình kavah khốn kiếp này không chịu buông tha tôi. Tôi cố bỏ đi nhưng bị kéo giật lại và phải đối mặt anh một lần nữa, bàn tay anh vòng qua eo tôi một cách chắc chắn. Không ai nói gì. Anh ấy chỉ nhìn tôi chằm chằm, quai hàm căng ra như thể đang giữ lại điều gì đó không nói.
“Nói đi,” tôi dứt khoát.
Anh thả tay ra. “Tôi đã nói với cô rồi. Hãy cẩn thận với những bước chân của mình.”
Tôi chờ đợi, nghĩ rằng anh ấy sẽ nói nhiều hơn, làm nhiều hơn. Tôi muốn nữa. Nhưng anh không tiến thêm.
“Chỉ có vậy thôi sao?” Tôi hỏi.
Lỗ mũi anh ấy phập phồng, hít một hơi thật sâu và thở ra. “Vậy thôi,” anh nói. Rồi anh đi bộ trở lại con đường hướng tới hẻm núi.
.
Vết cắn tàn nhẫn, miệng lưỡi gian xảo,
Hơi thở mê hoặc, kìm kẹp chết người,
Con rồng chỉ biết đói, không bao giờ biết no,
Chỉ khát, không bao giờ nguôi.
– Bài hát của Venda