← Quay lại trang sách

Chương 28

Một làn sương mù màu hồng phấn lấp lánh trên cao, và mặt trời bắt đầu leo qua ngọn núi. Hai bên đường chật ních người, tất cả dân chúng ở Terravin đang chờ đợi để được dẫn đầu trong đám rước chào mừng những ngày thánh. Một tiếng ngân nga cung kính lướt qua đám đông, như thể thần thánh hiện thân, như thể các vị thần đứng giữa chúng tôi. Có lẽ vậy.

Lễ hội Tự do đã bắt đầu. Giữa lòng đường, đàn bà con gái, già có, trẻ có, tay trong tay, mặc quần áo rách chờ dẫn đầu đám đông.

Mọi Con gái trưởng của Terravin.

Dì Berdi và Pauline nằm trong số đó.

Đám rước mà mẹ tôi cũng đã dẫn đầu ở Civica - và hôm nay cũng sẽ như vậy. Đám rước mà tôi đã đi chỉ sau mẹ tôi vài bước vì chúng tôi là Con gái trưởng của vương quốc, được ban phước hơn cả những người khác, mang trong mình tài năng xuất chúng nhất.

Những đám rước tương tự, đôi khi lớn, đôi khi chỉ có một số ít tín hữu tham dự, dang diễn ra tại khắp các thị trấn, thôn xóm và làng mạc trên mọi miền của Morrighan. Tôi lướt qua khuôn mặt của những cô Con gái trưởng đang xếp hàng, người mong đợi, người tự tin, người tò mò, người cam chịu - một số tự cho rằng mình có năng lực, những người khác biết là họ không có, một số vẫn hy vọng nó có thể đến, nhưng hầu hết bọn họ đều đứng ở đây - vị trí trang trọng chính giữa con đường - chỉ đơn giản là vì họ không biết làm gì khác. Đó là truyền thống rồi.

Các thầy tu đã đưa ra lời kêu gọi cuối cùng cho bất kỳ người Con gái trưởng nào khác cùng tham gia với mọi người. Gwyneth đứng chen chúc bên cạnh tôi trong đám đông. Tôi nghe thấy tiếng thở dài của cô ấy. Tôi lắc đầu.

Và rồi tiếng hát vang lên.

Bài hát của Morrighan cất lên cao và hạ xuống thấp trong những nốt trầm nhẹ nhàng, một lời cầu xin thần linh dẫn lối, một điệp khúc biết ơn sự khoan hồng của họ.

Tất cả chúng tôi đều rảo bước theo nhịp phía sau họ, mặc quần áo lễ hội, bụng réo rắt vì đây là ngày nhịn ăn, và chúng tôi lên đường đến đền thờ để làm lễ thánh, tạ ơn và cầu nguyện.

Tôi cứ ngỡ Rafe và Kaden sẽ không đến. Vì đó là ngày mọi người phải nhịn ăn, nên dì Berdi không có dọn bữa sáng, và cả hai đều không ra khỏi gác xép sáng nay, nhưng ngay trước khi chúng tôi đến đền thờ, tôi phát hiện cả hai đều ở trong đám đông. Gwyneth cũng vậy. Ai nấy đều cúi đầu, giọng nói chỉ cất lên trong bài hát, vậy mà Gwyneth lại ghé sát vào tôi và thì thầm, “Họ đang ở đây,” như thể sự hiện diện của họ kỳ diệu tựa hồ những vị thần dẫn dắt Những người còn lại trỗi dậy từ sự hủy diệt. Có lẽ vậy.

Đột nhiên Gwyneth vượt lên phía trước cho đến khi cô ấy sánh bước với Simone và cha mẹ cô bé. Tóc mẹ Simone lốm đốm những sợi bạc như muối trộn tiêu, còn tóc người cha thì trắng như tuyết, cả hai đều đã già để làm cha mẹ của một đứa trẻ như vậy, nhưng đôi khi trời lại mang đến những món quà bất ngờ. Nắm lấy tay Simone, người phụ nữ gật đầu với Gwyneth, và tất cả cùng nhau bước đi. Tôi để ý rằng ngay cả cô bé Simone, người luôn ăn mặc rất chỉn chu khi tôi nhìn thấy cô bé làm việc vặt trong thị trấn, cũng xoay xở tìm quần áo rách để mặc. Và sau đó, chỉ đi bộ vài bước sau họ, lần đầu tiên tôi nhận thấy rằng những lọn tóc màu dâu tây bồng bềnh của Simone chỉ nhạt màu hơn tóc của Gwyneth một chút.

Chúng tôi đến đền thờ, và đám đông tản ra. Khu thánh địa khá lớn nhưng không đủ chỗ chứa toàn bộ Terravin cùng với rất đông du khách trong những ngày lễ thánh trọng thể. Người già và các Con gái trưởng được mời vào cung thánh, những người còn lại phải tìm vị trí khác, từ bậc thang, quảng trường, khoảng đất nhỏ trước các hang, hoặc nghĩa địa, nơi các thầy tu khác sẽ đọc to kinh thánh cho mọi người nghe. Đám đông thưa dần, mọi người đều tìm thấy một nơi mà họ sẽ dành phần lớn thời gian trong ngày để cầu nguyện. Tôi quay lại, hy vọng, nhưng tôi đã mất dấu Rafe và Kaden. Thế rồi tôi bước đến nghĩa địa, nơi cuối cùng còn chỗ để quỳ.

Tôi trải chiếu xuống và bắt gặp ánh mắt của vị thầy tu ở bậc sau của đền thờ. Ông ấy nhìn tôi, vẻ như chờ đợi. Tôi không biết ông ấy. Tôi chưa bao giờ gặp ông, nhưng dạo trước Pauline tới đền thờ suốt, có lẽ cô ấy đã kể điều gì đó. Ngay cả khi cô ấy thú nhận sự thật của chúng tôi, tôi biết các thầy tu bị ràng buộc, họ không thể tiết lộ bí mật của người khác. Ông ấy tiếp tục quan sát tôi, và khi tôi đã quỳ xuống, ông ấy bắt đầu cử hành các nghi lễ, bắt đầu bằng câu chuyện về ngày hủy diệt.

Tôi biết câu chuyện này. Tôi đã ghi nhớ nó. Mọi người đều làm vậy. Để lịch sử không lặp lại, những câu chuyện sẽ được lưu truyền, từ cha sang con trai, từ mẹ sang con gái. Câu chuyện được kể trong từng căn nhà lụp xụp, từng ngôi nhà tranh chật chội, từng trang viên lớn, người già truyền cho người trẻ. Regan thích kể câu chuyện đó với tôi và anh thường làm vậy, mặc dù phiên bản của anh ấy rõ ràng là thú vị hơn của mẹ, với nhiều máu, trận chiến và thú dữ hơn. Dì Cloris hào phóng thêm thắt vào đó những chi tiết về sự vâng lời và dì Bernette làm nổi bật lên một cuộc phiêu lưu của tự do, nhưng về cơ bản tất cả đều là một câu chuyện giống nhau và không khác câu chuyện mà vị thầy tu đang kể bây giờ.

Người xưa cho rằng mình chỉ thấp hơn các vị thần một bậc, tự hào về sức mạnh trên trời dưới đất của mình. Họ kiểm soát ngày và đêm bằng đầu ngón tay; họ bay giữa các cõi trời, họ chỉ cần thì thầm là giọng nói đã vang vọng qua những đỉnh núi; họ tức giận là mặt đất sẽ rung chuyển vì sợ hãi...

Tôi cố gắng tập trung vào câu chuyện, nhưng khi ông ấy nói từ sợ hãi, chính tôi cũng bị kích động. Tôi lại nhìn thấy cái nhìn trống rỗng chết chóc của một con rối dính đầy máu, con rối đã ám ảnh những giấc mơ của tôi đêm qua, nói với tôi rằng, Đừng có mà thốt ra một lời nào nữa. Ngay cả trong giấc mơ, tôi cũng không tuân theo và kêu lên thật lớn. Im lặng không phải là điểm mạnh của tôi.

Tôi luôn biết rằng Đại pháp quan và Học giả không thích tôi, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ họ sẽ cử ai đó đến giết tôi. Một thợ săn tiền thưởng được yêu cầu là phải đưa kẻ có tội trở về, đối mặt với công lý vì hành vi phản quốc. Đây không phải là thợ săn tiền thưởng. Nếu là thợ săn, hắn ta phải để tôi sống và đưa tôi về đối mặt với án hành quyết. Có lẽ nào cha là một phần trong kế hoạch của họ, mong muốn được lặng lẽ tống khứ tôi mãi mãi? Không phải cha của cậu, Pauline đã nói vậy. Nhưng tôi không chắc nữa.

Tôi lắc đầu, nhớ lại cái đêm tôi lẻn vào phòng nghiên cứu của Học giả. Tại sao tôi lại để lại lời nhắn chứ? Tôi biết điều đó sẽ chỉ làm ông ta nổi giận, nhưng tôi không quan tâm. Hôm qua tôi không thể vui được khi thấy nó nằm chặt trong tay kẻ đã tấn công tôi, nhưng thề có thần linh, tôi đã cười thành tiếng khi viết nó ra bằng bút của chính Học giả. Ông ta biết thủ phạm là ai, ngay cả khi tôi không để lại lời nhắn. Tôi là kẻ trộm duy nhất trong cung thành, nhưng tôi muốn ông ta nhận ra rằng tôi đã lên kế hoạch.

Tôi có thể tưởng tượng ra vẻ mặt của Đại pháp quan khi Học giả đưa tờ giấy cho ông ta xem. Ngay cả khi những cuốn sách không có giá trị gì, bằng cách để lại lời nhắn, tôi đã chọc điên họ. Ngoài việc trốn chạy khỏi cuộc hôn nhân được sắp đặt cẩn thận của họ, tôi còn chế nhạo họ. Một việc không tưởng. Họ là những người quyền lực nhất trong nội các của cha tôi, cùng với Phó nhiếp chính, nhưng tôi đã cho cả hai thấy rằng tôi không mấy quan tâm đến quyền lực hay địa vị của họ. Tôi cảm thấy như mình đã giành lại được chút quyền lực khi để lại lời nhắn đó. Tôi đã thắng thế so với họ. Giờ đây, bí mật của họ không được giấu kín, ngay cả khi bí mật này chỉ nhỏ bằng một cuốn sách cũ mà họ không thể cất vào đúng chỗ trong văn khố của hoàng gia.

Đêm qua sau khi Pauline đã ngủ say, tôi kéo ghế đến chỗ tủ quần áo. Đứng trên đó, tôi với tay lấy cuộn giấy đặt ở phía trên và sờ thấy chiếc hộp mà tôi đã bọc vải. Tôi không chắc tại sao tôi lại cất nó ở đó. Có lẽ vì Học giả đã giấu nó đi, tôi nghĩ tôi cũng nên làm như vậy. Những cuốn sách này không dành cho mọi người. Tôi lấy những tập sách mỏng manh ra và đặt chúng lên bàn. Chiếc đèn lồng chiếu thứ ánh sáng vàng ấm áp lên những trang giấy đã ố màu.

Cả hai đều là những cuốn sách nhỏ mỏng manh, được đóng bằng da rập nổi mềm mại, có dấu hiệu bị hư hại, và có những vết cháy trên mép như thể chúng đã bị quăng vào đống lửa. Một cuốn bị cháy nhiều hơn và trang cuối cùng của nó bị mất gần như toàn bộ, có vẻ là đã bị xé vội, ngoại trừ một vài chữ cái sót lại ở góc trên. Còn cuốn kia thì được viết bằng những nét nguệch ngoạc kỳ lạ mà tôi chưa từng thấy trước đây. Không giống với bất kỳ phương ngữ nào của Morrighan mà tôi biết, nhưng có nhiều thứ tiếng lạ đã mất. Tôi đoán những từ kỳ lạ này là một trong những ngôn ngữ ấy.

Tôi lật giở những trang giấy mỏng manh một cách cẩn thận, nghiên cứu chúng trong một giờ đồng hồ, mặc dù hiểu biết nhiều về ngôn ngữ, tôi vẫn không có tiến triển gì. Một số từ dường như có cùng gốc với các từ Morrighan, nhưng dù biết từ gốc là gì thì vẫn chưa đủ. Tôi cần kiến thức chuyên sâu hơn, và văn khố duy nhất ở Terravin là đền thờ. Tôi nghĩ có lẽ tôi phải làm thân với các tu sĩ ở đây.

Thầy tu bước xuống bậc thềm, đi giữa những người thờ phượng, kể thêm về câu chuyện, giọng mạnh mẽ và hăng hái.

Họ khao khát kiến thức, và không có bí ẩn nào khuất khỏi mắt họ. Họ lớn mạnh về tri thức nhưng yếu về trí tuệ, khao khát nhiều và nhiều quyền lực hơn, đè bẹp những kẻ tay không tấc sắt.

Các vị thần nhìn thấy lòng tự phụ và trái tim trống rỗng nơi họ, nên đã cử thiên thần Aster kéo một ngôi sao từ trên trời và thả nó xuống cõi đất, cát bụi và biển cả dâng cao đến mức bóp nghẹt những kẻ bất chính. Nhưng một số ít được tha - không phải những kẻ mạnh mẽ về thể xác hay tinh thần, mà là những kẻ có trái tim thuần khiết và khiêm nhường.

Tôi nghĩ về Pauline, không ai có trái tim thuần khiết và khiêm nhường hơn cô ấy, điều khiến cô ấy trở thành con mồi cho những kẻ có trái tim đen tối nhất. Mặc dù đó là ngày linh thiêng nhất, nhưng tôi vẫn khẽ lầm bầm một lời nguyền dành tặng cho Mikael. Một người phụ nữ lớn tuổi đứng gần tôi mỉm cười, nghĩ rằng việc lẩm bẩm nghiêm túc của tôi cho thấy tôi là người sùng đạo. Tôi đáp lại nụ cười của bà ấy và chuyển sự chú ý trở lại vị thầy tu.

Chỉ còn lại một phần nhỏ Những người còn lại trên toàn cõi đất. Họ đã trải qua thử thách trong ba thế hệ, sàng lọc những người thuần khiết nhất từ những kẻ vẫn còn quay lại với bóng tối. Bóng tối nơi trái tim gieo rắc nhiều hơn những tàn phá khắp nơi. Nhưng chỉ có một người, Con gái trưởng của Harik, một cô gái khiêm nhường và thông tuệ tên là Morrighan, được các vị thần ưu ái đặc biệt. Họ chỉ cho cô thấy con đường an toàn để dẫn Những người còn lại được chọn đến một nơi, nơi cõi đất đã được chữa lành, và một thế giới mới có thể được tái tạo.

Morrighan trung thành với sự dẫn dắt của họ, và các vị thần hài lòng. Cô đã được ban hôn ước để kết hôn với Aldrid và mãi mãi về sau, các con gái của Morrighan và tất cả các thế hệ Con gải trưởng đều được ban phước, như một lời hứa và tưởng nhớ rằng các vị thần sẽ không bao giờ hủy diệt cõi đất nữa, chừng nào vẫn còn những trái tim thuần khiết nghe theo họ.

Các nghi thức tiếp tục kéo dài đến giữa trưa cho đến khi các cô Con gái trưởng thực hiện việc phá bỏ nghi thức nhịn ăn, giống như cô gái trẻ Morrighan đã làm cách đây rất lâu khi cô dẫn những người đói đến một nơi có nhiều đồ ăn. Tôi phát hiện ra Pauline trên bậc thềm dưới bóng mái vòm, đang đặt bánh mì vào tay những người thờ phượng và dì Berdi ở một phía khác của đền thờ cũng làm như vậy. Một người Con gái trưởng khác phục vụ tôi, và khi miếng bánh cuối cùng được phân phát, theo hướng dẫn của thầy tu, mọi người cùng nhau ăn uống. Đến lúc này, đầu gối tôi đau nhức và bụng tôi quặn lên những lời nguyền rủa, gầm gừ trước những mẩu bánh mì nhỏ bé. Khi vị thầy tu cất lên lời kinh cuối, “Sẽ là như vậy –” mọi người hô vang mãi mãi.

Những người thờ phượng từ từ đứng dậy, người cứng lại sau một ngày dài cầu nguyện, sẵn sàng trở về nhà để phá vỡ nghi thức nhịn ăn và bắt đầu no say trở lại theo truyền thống. Tôi quay về một mình, tự hỏi Kaden và Rafe đã đi đâu.

Tôi vươn vai, nhăn mặt. Vẫn còn việc phải làm ở nhà trọ cho bữa tối. Đó là một bữa tiệc thánh, và hầu hết mọi người đều thực hiện ở nhà. Nhiều tín đồ từ vùng khác tới tham dự bữa ăn cộng đồng tại đền thờ, vì vậy chỉ có một số khách trong quán trọ sẽ dùng bữa ở đó. Món ăn bao gồm chim bồ câu nướng, các loại hạt, đậu bụi, mâm xôi, rau rừng, tất cả đều được chia ra từ một đĩa, giống như bữa ăn đơn giản đầu tiên mà Morrighan đã phục vụ Những người còn lại được chọn, nhưng có những nghi lễ khác phải tiến hành, đặc biệt là khâu chuẩn bị phòng ăn. Dạ dày tôi réo âm ĩ đòi đồ ăn, cơ thể bầm tím của tôi khao khát được tắm nước nóng, và tôi không chắc mình thèm gì hơn. Những bậc nhỏ cuối cùng để leo lên nhà trọ khiến mắt cá chân của tôi đau đớn.

Giữa thức ăn và bồn tắm, tôi nghĩ đến Rafe và những vòng hoa anh ấy mang tới. Mang cho tôi những đồ bị rơi là một chuyện, nhưng chuyện anh nỗ lực tìm những vòng hoa giống hệt để thay thế những vòng hoa bị nát vẫn khiến tôi thắc mắc - đặc biệt là khi anh vẫn còn việc khác phải làm. Anh ấy thật khó hiểu. Có lúc đôi mắt anh ấy đầy ấm áp, nhưng rồi ngay tức khắc, nó lại lạnh như băng - có lúc anh ấy chăm chú nhìn tôi, lúc sau anh ấy đã ngay lập tức ngó lơ tôi và rời đi. Điều gì xảy ra trong đầu anh vậy? Thay những vòng hoa là một cử chỉ trên cả thân ái. Có một vẻ gì đó dịu dàng không nói nên lời trong mắt anh khi anh đưa chúng ra cho tôi. Tại sao tôi không thể –

“Cô vẫn tập tễnh kìa.”

Hơi ấm tràn qua người, các khớp xương của tôi đồng thời trở nên lỏng lẻo và nóng bừng lên. Giọng anh nhẹ nhàng bên tai, vai anh thản nhiên lướt qua vai tôi. Tôi không quay lại nhìn anh, chỉ cảm thấy anh sánh bước với tôi, ở gần tôi.

“Hóa ra anh cũng mộ đạo,” tôi nói.

“Hôm nay tôi cần phải nói chuyện với các vị thần,” anh trả lời. “Đền thờ cũng là một nơi tuyệt vời.”

“Anh tới để cảm tạ họ?”

Anh hắng giọng. “Không, để bày tỏ sự tức giận của tôi.”

“Anh dũng cảm đến mức gây gổ với các vị thần sao?”

“Người ta nói rằng các vị thần ca ngợi những cái lưỡi trung thực. Tôi cũng vậy.”

Tôi nhìn anh. “Mọi người nói dối hàng ngày. Đặc biệt là với thần linh.”

Anh nhoẻn miệng cười. “Quả đúng là vậy.”

“Và anh đã cầu nguyện với vị thần nào?”

“Điều đó có quan trọng không? Không phải tất cả các vị thần đều lắng nghe sao?”

Tôi nhún vai. “Capseius là vị thần của sự bất bình.”

“Vậy thì chắc hẳn ngài ấy đã lắng nghe.”

“Tôi chắc rằng tai ngài đang bỏng rát.”

Rafe bật cười, nhưng tôi vẫn nhìn thẳng về phía trước. Không có vị thần bất bình nào được gọi là Capseius. Các vị thần không có tên, chỉ có thuộc tính. Thần Sáng tạo, Thần Từ bi, Thần Cứu rỗi và Thần Tri thức. Rafe không sùng đạo. Anh thậm chí còn không được học những nguyên lý cơ bản nhất của Chân lý thánh Morrighan. Có phải anh ấy đến từ một nơi lạc hậu thậm chí không có lấy một đền thờ nhỏ? Có lẽ đó là lý do tại sao anh ấy không muốn nói về nguồn gốc của mình. Có lẽ anh ấy xấu hổ.