Chương 67
Mắt tôi mở to. Một tiếng rít chói tai vẫn còn vang lên trong tai tôi, và tôi đang đối diện với một con quái vật lông đen có nanh. Tôi cố gắng lùi lại, nhưng đã bị bao vây. Xung quanh tôi, một bầy sinh vật kêu ré lên, nhe ra những chiếc nướu màu hồng ướt át và những chiếc răng vàng hiểm ác.
Cuối cùng, khi tôi cố gắng không tập trung vào những chiếc răng nanh của chúng nữa, tôi nhận thấy những sinh vật này trông khá giống khỉ. Không phải những con khỉ với bộ quần áo nhỏ xíu, dễ thương mà tôi từng thấy trên vai những người diễn trò trong hoàng gia. Chúng gần bằng kích thước của một người đàn ông, và chúng từ từ áp sát tôi, như thể ăn tươi nuốt sống nỗi kinh hoàng trong mắt tôi. Tôi nhảy dựng lên và hét lớn, khua tay, nhưng chúng càng trở nên tức giận, gầm gừ và ré lên với tôi. Sau tất cả những gì tôi đã trải qua, tôi sắp bị xé xác bởi một bầy thú rừng.
Một tiếng gầm kinh hoàng vang lên đâu đây, thậm chí còn to hơn cả tiếng thét của chúng, và chúng hét lên những tiếng hoảng loạn ngắn ngủi, bỏ chạy theo các hướng khác nhau. Âm thanh duy nhất còn sót lại là hơi thở của chính tôi - rồi hơi thở của một sinh vật nào đó. Tiếng thở hắt ra trầm, thấp.
Một sinh vật khác đang ở đây.
Ngọn lửa đã mờ dần, chỉ thắp sáng một vòng tròn nhỏ lập lòe. Tôi nhìn vào bóng tối bên trên những tán cây. Hơi thở chậm và sâu. Một tiếng thở hắt. Một tiếng ầm ầm. Một tiếng gầm gừ. Một thứ lớn hơn và hung dữ hơn những con khỉ kia. Dõi theo tôi.
Một cơn ớn lạnh phả vào lưng tôi, và tôi quay lại. Đôi mắt màu hổ phách phát sáng đang nhìn tôi. Tôi ngay lập tức nhận ra chúng, và cổ họng tôi khô lại. Cái nhìn chằm chằm đói khát là điều mà tôi chưa bao giờ quên. Nó gầm lên một lần nữa, và một trong những bàn chân của nó tiến về phía trước. Rồi một bàn chân khác. Tôi không thể cử động. Nó gầm gừ và phun phì phì, giống như khi tôi còn nhỏ, nhưng lần này, không có ai để xua đuổi con thú. Nó đang chờ đợi điều gì? Tôi biết tôi không thể quay người và chạy. Làm thế sẽ kích động bản năng săn đuổi của con thú, nhưng nếu không định ăn tôi thì nó ở đây làm gì? Nó tiến tới, đuôi đung đưa phía sau. Nó tiến lại rất gần và bây giờ cái đầu sọc khổng lồ của nó sáng rực lên trong ánh lửa.
Trái tim tôi như một tảng đá trong lồng ngực, như thể tôi đã chết rồi. Nó nhìn tôi, và tôi thấy hình ảnh phản chiếu bất động của mình trong mắt nó. Nó lại gầm lên, nhe những chiếc răng nanh mạnh mẽ. Tôi sợ hãi đến tột cùng. Tôi mở miệng, nhưng lưỡi tôi khô đến mức không thể phát ra âm thanh nào ngoài tiếng thì thầm khàn khàn yếu ớt, “Đi đi.” Ria của nó giật giật, đuôi hất lên, và nó xoay người, biến mất vào trong rừng.
Trong vài giây, tôi run rẩy đứng đó, vẫn quá sợ hãi để di chuyển - nhưng sau đó tôi cử động nhanh chưa từng có. Tôi vội vàng thu dọn đồ ngủ và túi của mình. Cả khỉ và hổ đều không làm phiền con ngựa - có lẽ chỉ có tôi là một bữa ăn dễ dàng. Có phải chính mệnh lệnh thì thầm đơn giản của tôi đã khiến nó rời đi? Tôi sẽ không đặt câu hỏi về vận may của mình bây giờ. Tôi phải trốn thoát khi vẫn còn có thể.
Tôi đi như cách tôi đến, hít một hơi thật sâu khi thoát khỏi khu rừng địa ngục. Tôi men theo đường biên của cánh rừng, thấy rằng đường chân trời đã có màu hồng và thúc ngựa phi nước đại. Mặt trời sẽ sớm lên, và bọn chúng sẽ dễ tìm thấy tôi trên đồng cỏ.
Nơi khu rừng kết thúc, một mỏm đá nhô lên, và tôi rẽ xuống một con đường xuyên qua đó, chưa kịp biết ơn vì sự che chở này thì đã nhận ra nó là đường cụt. Những tảng đá rải rác bao la dẫn ra một cao nguyên, gần như chia đôi thung lũng bên dưới. Tôi thấy một con đường uốn lượn cắt ngang qua nó. Tôi xuống ngựa và bước lên mỏm đá, tự hỏi liệu tôi có thể đi xuống đáy thung lũng không. Gió giật mạnh, quất vào tóc và váy của tôi. Tôi phát hiện thứ gì đó ở đằng xa, bụi bay lên giống như một vật đang chạy. Và rồi tôi nhận ra. Binh lính. Không chỉ là một cuộc tuần tra nhỏ mà là một đoàn binh lớn và kỳ lạ!
Khi họ đến gần hơn, tôi có thể thấy họ có ít nhất hai trăm người, nhưng tôi vẫn không thể nhìn thấy cờ hiệu của họ. Hoặc có thể họ không giương cờ? Là lính của Morrighan hay Dalbreck đây? Lính bên nào cũng được. Tôi tìm kiếm một con đường xuống thung lũng, nhưng ở phía bên này, mỏm đá dựng đứng hoàn toàn. Tôi leo sang phía bên kia, tìm đường khác đi xuống, và thấy thêm nhiều binh sĩ từ hướng khác đến, nhưng họ chỉ là một đại đội nhỏ không quá ba mươi ngươi. Tôi nheo mặt, cố gắng nhìn màu sắc, và thoáng thấy màu đỏ. Morrighan! Và sau đó tôi thấy những con ngựa của họ, một con ngựa đốm trắng và đốm hạt dẻ khác biệt dẫn đoàn. Walther. Tôi trở nên phấn khích. Nhưng niềm vui cũng nhanh chóng bị dập tắt. Vậy những người kia là –
Những người khác. Tôi chạy về phía bên kia, nhìn chằm chằm vào đội quân đông đảo đang nhanh chóng tiến đến. Không, không phải hai trăm. Ba trăm trở lên. Không có cờ hiệu.
Venda.
Hai đội quân đang tiến về phía nhau, họ sẽ không được cảnh báo về những gì họ sắp đối đầu. Walther cần phải được cảnh báo.
“Lia.”
Tôi quay người lại. Là Kaden, Eben, và Finch.
“Không!” Tôi nói. “Không phải bây giờ!”
Tôi chạy đi, về phía đội quân của Walther, nhưng Kaden ở ngay sau, chộp lấy tay tôi. Anh ta nắm lấy vai áo của tôi, và xé toạc vải ra.
“Không!” Tôi hét lên. “Ta phải ngăn họ lại!”
Anh ta nắm lấy tôi, vòng tay từ phía sau và siết chặt tôi vào ngực anh ta. “Không!” Tôi hét lên. “Anh trai ta ở dưới đó! Buông ra! Họ sẽ bị giết mất!”
Quân đội Venda đã gần đến điểm giao. Trong vài giây, họ sẽ giáp chiến với quân đội của anh trai tôi, ba trăm so với ba mươi. Tôi đã cầu xin Kaden để tôi đi. Vật lộn. Van xin. Khóc nấc lên.
“Cô không thể liên lạc với họ từ đây, Lia. Khi chúng ta đến được đó thì –”
Quân đội Venda vượt qua điểm nút.
Tôi gồng mình chống lại Kaden. “Buông ta ra!” Tôi thét lên. “Anh Walther!” Nhưng gió cản lời tôi. Đã quá muộn rồi.
Thế giới quanh tôi ngay lập tức xoay chậm lại. Chuyển động và âm thanh bị bóp méo như trong một giấc mơ. Nhưng đây không phải là mơ. Tôi chứng kiến hai vương quốc gặp nhau, cả hai đều bất ngờ. Tôi thấy một chàng trai trẻ lao về phía trước trên con ngựa đốm trắng và hạt dẻ. Một chàng trai mà tôi biết là mạnh mẽ và dũng cảm. Một người đàn ông trẻ vẫn còn đang yêu, nhưng đã bị nuốt trọn bởi đau buồn. Người có nụ cười hếch mếp dễ mến đã đưa tôi đi chơi bài, véo mũi tôi, bảo vệ tôi trước những bất công và chỉ cho tôi cách ném dao. Anh trai tôi. Tôi đã thấy anh ấy rút gươm của mình để lấy lại công lý cho Greta. Tôi thấy năm vũ khí được rút ra để đáp lại, một thanh kiếm vung lên, và một thanh kiếm khác, và một vũ khí khác, và tôi nhìn anh ngã khỏi ngựa. Và rồi một nhát kiếm cuối cùng đâm vào ngực anh ấy. Tôi đã nhìn Walther chết.
Lần lượt từng người, họ ngã xuống - ba, bốn, năm người đấu với một người, đó không phải là một cuộc chiến mà là một cuộc thảm sát. Ngọn gió thật tàn nhẫn, hối hả cuốn đi mọi tiếng khóc và tiếng thét. Và rồi tất cả lặng thinh. Chân tôi mềm nhũn, như thể chúng không có ở đó, và tôi ngã xuống đất. Tiếng rên rỉ và la hét tràn ngập tai tôi. Tôi bứt tóc và xé nát quần áo của mình. Kaden vòng tay giữ tôi lại thật nhanh, không cho tôi đi qua vách đá.
Cuối cùng tôi cũng ngồi xuống và nhìn ra thung lũng. Toàn bộ đội quân đã hy sinh. Dân Venda không giữ tù nhân. Tôi co ro trên mặt đất, ôm tay mình.
Kaden vẫn ôm tôi từ phía sau. Anh ta vuốt tóc khỏi mặt tôi và cúi sát lại, thì thầm vào tai tôi, “Lia, tôi rất tiếc. Chúng ta không thể làm gì khác.”
Tôi nhìn chằm chằm vào những thi thể ngổn ngang, chân tay họ vặn vẹo theo những tư thế không tự nhiên. Con ngựa của anh Walther nằm chết bên cạnh anh ấy. Kaden từ từ thả lỏng đôi tay đang ôm lấy tôi. Tôi nhìn xuống bờ vai gầy guộc của mình, lớp vải rách nát, để lộ ra hình móng vuốt và dây nho đang bò, tôi nếm mật đắng trong cổ họng, cảm thấy nước mũi chảy ra, lắng nghe tiếng nghẹn ngào. Tôi vuốt váy, tưởng như cơ thể mình đung đưa, đung đưa, như thể gió đang thổi bay những gì còn lại của tôi.
Tôi ngồi đó, không biết bao nhiêu phút, tưởng như biết bao mùa và bao năm tháng đã qua, gió tựa như mùa đông lạnh giá phả vào da thịt tôi, ngày như trở thành đêm, rồi mọi thứ lại chói lòa, khắc nghiệt đến từng chi tiết. Tôi nhắm mắt lại, nhưng những chi tiết vẫn sáng lên và đeo đẳng phía sau mi mắt của tôi, thay thế những ký ức cả một đời bằng một hình ảnh đẫm máu duy nhất của anh Walther và rồi, thật thương xót, hình ảnh mờ dần, mọi thứ mờ đi, chỉ còn lại một màu xám buồn tẻ, tê cóng.
Cuối cùng, tôi trượt tay xuống đầu gối, lấy đó làm điểm tựa, buộc cơ thể tôi phải đứng vững. Tôi quay người đối diện với chúng. Eben nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt mở to và buồn bã. Finch vẫn há hốc mồm.
Tôi nhìn Kaden. “Ta sẽ chôn cất anh trai ta,” tôi nói. “Tất cả bọn họ. Ta sẽ không để xác của họ ở đây cho thú rừng.”
Anh ta lắc đầu. “Lia, chúng ta không thể –”
“Chúng ta có thể đi con đường phía đông xuống,” Finch nói.
✽ ✽ ✽
Sự tàn độc tràn ngập khắp dãy thung lũng với mùi hồi tanh của máu vẫn còn thấm vào đất, ruột của động vật và người xổ ra, tiếng khịt mũi và tiếng kêu của những con vật chưa chết và không ai thèm giúp chúng thoát khỏi cảnh khốn cùng. Mùi vị của sự kinh hoàng vẫn còn tươi mới đâu đây –
Thế giới này, nó hít thở cháu... san sẻ cháu. Hôm nay thế giới khóc thương những hơi thở cuối cùng của anh tôi và đồng đội. Mẹ tôi đã về phòng ngủ của bà chưa? Bà đã biết sự đau buồn này chưa?
Một gã đàn ông cao lớn dữ tợn cùng một toán lính cưỡi ngựa đến gặp chúng tôi, kiếm của chúng rút ra. Tôi cho rằng hắn ta là chỉ huy của binh đoàn tàn bạo này. Hắn ta bện râu thành hai sợi dài. Đó là cái nhìn đầu tiên của tôi về những kẻ man di thực sự. Kaden và những người khác phải ăn vận để hòa nhập với người Morrighan. Chúng không giống thế. Những chiếc đầu lâu động vật nhỏ được treo ở thắt lưng của chúng, tạo ra một tiếng động khi chúng đến gần. Những sợi dây thừng dài được tết thành viền quanh mũ giáp bằng da, và khuôn mặt chúng được tạo vẻ đáng sợ với những sọc đen dưới mắt.
Khi tên chỉ huy nhận ra Kaden và những người khác, hắn ta hạ thanh kiếm xuống và chào chúng như thể chúng đang gặp nhau để đi dã ngoại trên đồng cỏ. Hắn ta phớt lờ những thi thể bị chặt đầu và nát bươm xung quanh mình, nhưng rất nhanh chóng tiếng chào chấm dứt và mọi ánh nhìn đổ dồn về phía tối. Finch nhanh chóng giải thích rằng tôi không nói được ngôn ngữ của chúng.
“Ta ở đây để chôn cất những người đã hy sinh,” tôi nói.
“Chúng ta không có ai hy sinh cả,” tên chỉ huy trả lời bằng tiếng Morrighan. Giọng hắn ta đặc sệt phương ngữ, và lời nói đầy khó chịu, như thể tôi đã gợi ý một điều thô tục.
“Những người khác,” tôi nói. “Những người ngươi đã giết.”
Hắn ta cười nhếch mép. “Chúng ta không chôn xác lợn của kẻ thù. Xác chúng dành cho lũ thú vật.”
“Lần này thì không,” tôi trả lời.
Hắn ta nhìn Kaden với vẻ kinh ngạc. “Con nhóc đi cùng là ai đây?”
Eben nhảy vào. “Cô ta là tù nhân! Công chúa Arabella của Morrighan. Nhưng bọn tôi gọi là Lia.”
Sự khinh bỉ hiện lên trên khuôn mặt của gã chỉ huy và hắn ta ngồi trở lại yên ngựa, đẩy tấm che mũ giáp nạm đinh của mình lên.
“Ra là Lia, ” hắn ta mỉa mai. “Như ta đã nói, lính của ta không chôn lợn.”
“Ngươi có vẻ không giỏi lắng nghe, chỉ huy ạ. Ta không yêu cầu những người man di của ngươi phải chôn họ. Ta không cho phép những bàn tay không xứng đáng chạm vào những người lính Morrighan cao quý.”
Tên chỉ huy lao về phía trước trên yên ngưa, tay hắn ta giơ lên định tấn công tôi, nhưng Kaden đã đưa tay ra ngăn lại. “Cô ta đang đau buồn, Chievdar. Đừng trừng phạt cô ta vì những lời nói đó. Anh trai cô ta cũng đã hy sinh.”
Tôi thúc ngựa về phía trước, ngang hàng với tên chỉ huy. “Ta sẽ nói lại lần nữa, Chievdar. Ta sẽ chôn họ.”
“Tất cả sao? Cô sẽ chôn tất cả chúng sao?” Hắn ta cười lớn.
Lính của hắn ta cũng cười. “Ai đưa cho công chúa một cái xẻng đi,” hắn ta nói. “Cho cô ta đào.”
✽ ✽ ✽
Tôi quỳ giữa khu đất. Việc đầu tiên tôi làm là cầu thần phù hộ cho người đã khuất khi cơ thể họ vẫn còn ấm. Truyền thống mà tôi từng trốn tránh bây giờ là tất cả những gì giúp tôi đứng vững. Tôi đưa tay lên trước các vị thần, những bài hát của tôi tuôn trào thành một điều gì đó mới mẻ, những từ ngữ của một ngôn ngữ khác, chỉ các vị thần và người chết mới có thể hiểu được, một câu hát vang lên từ máu và linh hồn, sự thật và thời gian. Giọng tôi cất lên, văng vẳng, đau buồn, cắt ngang qua những cơn gió, và rồi trở thành một phần của chúng, bện lại với những lời ngàn năm, một ngàn giọt nước mắt, lấp đầy thung lũng không chỉ bằng giọng của tôi mà bằng lời than thở của những người mẹ, người chị, và người con gái của thời quá khứ. Đó là một sự tưởng nhớ khiến cho bầu trời xa xăm và mặt đất dưới chân cũng phải quặn đau, một bài hát của sự khinh miệt và tình yêu, sự cay đắng và lòng thương xót, một lời cầu nguyện được dệt nên không chỉ bằng âm thanh mà bằng các vì sao và cát bụi và nhiều thứ khác nữa.
“Sẽ là như vậy,” tôi kết thúc, “mãi mãi về sau.”
Tôi mở mắt ra, và xung quanh tôi là những tên lính đã tạm dừng nhiệm vụ của chúng để quan sát tôi. Tôi đứng dậy nhặt cái xẻng và đi về phía Walther trước. Kaden đã ngăn tôi lại trước khi tôi tiếp cận cơ thể anh ấy. “Lia, cái chết không hề thanh nhã hay dễ thứ tha. Cô không muốn nhớ tới anh ấy theo cách này đâu.”
“Tôi sẽ tưởng nhớ anh ấy theo đúng cách này. Tôi sẽ ghi nhớ tất cả. Không bao giờ quên.” Tôi buông lỏng cánh tay.
“Tôi không thể giúp cô. Việc chôn kẻ thù cũng được coi là phản bội. Đó là bất kính với những đồng đội đã ngã xuống của chính chúng tôi.”
Tôi bỏ đi mà không trả lời và bước quanh các thi thể cho đến khi tìm thấy anh Walther. Tôi quỳ xuống bên cạnh anh ấy và vuốt tóc trên mặt anh ấy. Tôi nhắm mắt và hôn lên má anh, thì thầm lời cầu nguyện của riêng tôi với anh, cầu chúc anh hạnh phúc trên hành trình của mình vì giờ đây anh sẽ ôm Greta một lần nữa, và nếu các vị thần thương xót, hãy nâng niu đứa con chưa chào đời của anh. Môi tôi run rẩy đặt lên trán anh ấy, không muốn tách khỏi anh ấy, biết rằng đó sẽ là lần cuối tôi chạm vào anh ấy.
“Tam biệt, hoàng tử tốt bụng,” cuối cùng tôi thì thầm vào da anh ấy.
Sau đó tôi đứng dậy và bắt đầu xúc đất.