Chương 10
Leng keng…
Chuông đồng treo trên cửa tiệm cà phê reo lanh lảnh. Lưu Tư Miễu ngẩng đầu khỏi cuốn sách đọc dở, thấy người bước vào không phải Quách Tiểu Phần mà là một người đàn ông trung niên đội mũ lưỡi trai, cô lại cúi đầu đọc tiếp quyển Đồng hoang bất tận của James Ellroy. Song, cô không tài nào tập trung vào con chữ trên giấy.
Khẽ thở dài, Lưu Tư Miễu gấp sách lại, hướng mắt về cửa sổ sát đất sáng trưng. Bên ngoài, trên hàng cây ngô đồng cuối thu, những chiếc lá còn sót lại co quắp thành từng quả cầu nhỏ loang lổ đen vàng, hệt những đốm lửa sắp tàn giữa bóng tối nhá nhem. Vỉa hè phía dưới có vài đôi tình nhân ăn mặc sặc sỡ khoác tay nhau đi dạo, mỗi lần bước qua quầng sáng hắt xuống từ đèn quảng cáo ở các cửa hàng, họ trở nên rực rỡ trong chớp mắt, rồi lập tức khuất bóng như bị màn đêm nuốt chửng…
Thời gian qua, biết bao cảnh sát kinh nghiệm đã hết mình cống hiến không quản ngày đêm, song công tác điều tra vụ án núi Chuột Quét vẫn đứt mạch. Tất cả bằng chứng đều chỉ ra nghi phạm lớn nhất (tức Chu Lập Bình) có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm, nên cuối cùng hắn được thả ra theo đúng quy định. Dù bất mãn, nhiều cảnh sát không sao tìm được cớ để nhốt hắn lại cho hả dạ.
Suốt quá trình làm thủ tục trả tự do, Chu Lập Bình tỏ ra rất phối hợp và bình tĩnh, chuẩn hình tượng một người vô tội đã chuẩn bị sẵn tâm lý được minh oan. Trước khi bước ra khỏi trại tạm giam, hắn cũng nói lấy lệ vài lời cảm ơn chính phủ. Theo quy định, nghi phạm trong các vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng dù được thả nhưng vẫn bị cấm đi khỏi nơi cư trú một thời gian. Theo báo cáo của cảnh sát chịu trách nhiệm giám sát, Chu Lập Bình đã về thẳng nhà và không ra khỏi cửa, đến tối chỉ gọi đồ ăn dưới cửa hàng tiện lợi Hàng Xóm Tốt.
Chu Lập Bình được trả tự do không có nghĩa bốn mạng người trên núi Chuột Quét bị bỏ quên. Các lãnh đạo nghiêm khắc phê bình tổ chuyên án với người đứng đầu là Đỗ Kiến Bình, tuy nhiên Hứa Thụy Long vẫn động viên mọi người đúc kết bài học, thay đổi phương hướng và cách tư duy để phá thế bế tắc. Thành viên tổ chuyên án hùng hồn tuyên bố sẽ bắt đầu lại từ đầu mặc mọi khó khăn, nhưng ai cũng thầm nản lòng. Sau bao vất vả, tưởng chừng thành công ngay trước mặt, nhưng họ đâu ngờ mình tấn công sai mục tiêu, công sức đổ sông đổ biển. Thời gian vàng để phá án đã trôi qua, càng để lâu, bí ẩn núi Chuột Quét càng khó giải mã, không chừng còn phải trông đợi vào ông trời…
Nghe phê bình xong, Đỗ Kiến Bình, Sở Thiên Anh và Lâm Phượng Xung rời phòng họp, lúc này họ mới phát hiện di động đang để chế độ im lặng nhận được cuộc gọi lỡ từ Lôi Dung. Cho rằng Lôi Dung có phát hiện mới về vụ án từ góc độ pháp y, Đỗ Kiến Bình gọi lại ngay và nhận được tin: kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy Trương Xuân Dương chết cóng.
“Gì cơ?” Đỗ Kiến Bình sững sờ, “Chết cóng? Không phải đột tử vì thượng mã phong à?”
“Tôi đã kiểm tra bệnh án của Trương Xuân Dương tại các bệnh viện khác. Tim hắn đúng là có vấn đề nên nhiều khả năng tối đó hắn bị thượng mã phong thật, song chưa chắc đã dẫn đến tử vong. Hắn có thể chỉ ‘chết giả’ do sốc hoặc ngất xỉu, với biểu hiện là hơi thở và nhịp tim yếu đến mức gần như ngừng hoạt động. Hình Khải Thánh không phải bác sĩ tim mạch nên chẩn đoán sai.” Lôi Dung cho hay, “Khi khám nghiệm, tôi phát hiện nhiều cơ quan nội tạng có thay đổi không đặc hiệu, tổ chức não, máu và dịch não tủy bị đông kết và nở phình khiến xương sọ nứt ra, màng ngoài tim có đốm xuất huyết, phổi bị phù, ống thận hoại tử và có trụ hemoglobin, cơ thắt lưng chậu bị xuất huyết. Tất cả đều chứng minh nạn nhân chết cóng, đặc biệt, tôi còn phát hiện vết Vishnevsky…”
“Vết gì cơ?” Đỗ Kiến Bình chóng hết cả mặt, “Cô nói chậm chút.”
“Vết Vishnevsky.” Lôi Dung giải thích, “Là vô số đốm xuất huyết đỏ sẫm hoặc nâu sẫm nằm dọc mạch máu trên niêm mạc dạ dày. Đây là dấu hiệu điển hình của việc bị chết cóng.”
“Sao lại chết cóng nhỉ…” Đỗ Kiến Bình không hiểu nổi.
“Bi thảm hơn, có thể Trương Xuân Dương đã tỉnh táo một lúc trước khi chết vì lạnh.” Lôi Dung nói, “Đầu ngón tay hắn bị rách, đồng thời, mặt trên ngăn tủ chứa xác có vết máu và biểu mô da, chứng tỏ hẳn vùng vẫy muốn thoát ra. Tiếc thay một khi đáy tủ cảm nhận được sức nặng của xác chết, tủ sẽ tự động khóa chặt, cửa nhà xác lại cách âm tốt nên hắn kêu cứu hay vẫy vùng cũng vô ích.”
Những giây phút cuối đời, nhận ra mình bị nhốt trong tủ đông lạnh lẽo chẳng khác nào bị chôn sống, chắc Trương Xuân Dương đã rất hoảng loạn, không ngừng vật lộn, gào thét trong tuyệt vọng. Nghĩ vậy, mấy cảnh sát không khỏi rùng mình.
Đỗ Kiến Bình chợt hỏi, “Nhỡ đâu trước khi đưa Trương Xuân Dương vào tủ đông, Chu Lập Bình phát hiện hắn tỉnh lại nên đánh hắn ngất xỉu?” Ông vẫn chưa chịu bỏ qua cho Chu Lập Bình.
“Thông thường có hai cách gây hôn mê trong tình huống bất ngờ, một là đánh vào vị trí có thần kinh phế vị hoặc hệ thần kinh trung ương, hai là dùng thuốc gây mê qua đường hô hấp như diethyl ete và clorofom. Xác Xuân Dương không có vết thương ngoài da do bị đánh, còn trường hợp dùng thuốc gây mê chỉ có thể xảy ra nếu Chu Lập Bình biết trước hoặc đoán được Trương Xuân Dương sẽ tỉnh lại để còn chuẩn bị sẵn, nhưng kết quả điều tra cho thấy Chu Lập Bình chỉ tình cờ tham gia sự việc xảy ra đêm hôm đó. Vả lại, thuốc mê dạng này không dễ mua, nên xét từ góc độ logic, giả thuyết của anh gần như bất khả thi.”
Đỗ Kiến Bình mở loa ngoài nên Sở Thiên Anh xen vào, “Chị Lôi Dung, lúc khám nghiệm xác Trương Xuân Dương, chị có chắc chắn hắn ngừng tim không?”
Đầu kia điện thoại thoáng im lặng. Một lúc sau, Lôi Dung cẩn trọng lên tiếng, “Nói thẳng ra, tôi không phát hiện cục máu đông mới hình thành trong động mạch vành của Trương Xuân Dương, nhưng hắn có tiền sử bệnh tim nên bề mặt tim có khá nhiều mô sẹo dạng sợi, động mạch vành và các nhánh của nó cũng bị thu hẹp đáng kể. Ngoài ra khi được phát hiện thì hắn đã chết lâu ngày, rất khó để nhận định có phải hắn ngất hoặc sốc do bệnh tim không. Chưa kể ngoài bệnh tim ra, còn rất nhiều nguyên nhân gây ngất hoặc sốc khi quan hệ tình dục như bệnh hô hấp, bệnh thuộc hệ thần kinh trung ương và bệnh dị ứng, tôi không thể kiểm tra từng cái…”
“Tôi hiểu rồi.” Sở Thiên Anh đáp.
Cúp điện thoại, Đỗ Kiến Bình hỏi Sở Thiên Anh, “Cậu nghi ngờ đêm đó Trương Xuân Dương và Hình Khải Thánh đóng kịch lừa Đào Chước Yêu à?”
Sở Thiên Anh gật đầu. “Quả thực tôi có nghĩ đến trường hợp ấy, nhưng ngẫm lại, dù đúng thế cũng chẳng nghĩa lý gì với vụ án, nhất là với Chu Lập Bình. Chị Lôi Dung nói đúng, tất cả bằng chứng đều chỉ ra Chu Lập Bình chỉ tình cờ tham gia vụ việc. Cứ cho là hắn thù hận Trương Xuân Dương, nhưng dù ta chứng minh được hắn thấy Trương Xuân Dương tỉnh lại vẫn cố tình nhét người vào tủ đông, việc này không những không thể lật đổ chứng cứ ngoại phạm của hắn trong vụ núi Chuột Quét, mà ngược lại còn củng cố thêm. Huống hồ chị Lôi Dung bảo không thấy dấu vết Trương Xuân Dương bị người khác làm bất tỉnh.”
Đỗ Kiến Bình thở dài, chán nản vì vẫn phải buông xuôi dù thâm tâm không muốn từ bỏ.
Kết thúc cuộc gọi với Đỗ Kiến Bình không lâu, Lôi Dung tới phòng thí nghiệm vật liệu sinh học. Lúc quay về, cô phát hiện di động trên bàn làm việc rung bần bật, người gọi đến là Hô Diên Vân.
“Chị, có chuyện này liên quan đến vụ án núi Chuột Quét, em muốn nhờ chị giúp đỡ.” Giọng Hô Diên Vân vô cùng gấp gáp.
“Chuyện gì thế?” Lôi Dung tò mò.
“Lúc khám nghiệm xác Trương Xuân Dương, chị để ý giúp em xem nguyên nhân tử vong thật sự là gì, liệu có phải chết cóng không.”
Lôi Dung ngỡ ngàng thốt lên, “Cậu… sao cậu đoán được hắn bị chết cóng?”
Hô Diên Vân không ngạc nhiên trước phản ứng của cô, “Em nghiền ngẫm mãi… Nếu hắn chết cóng thật, giờ em sẽ đến nhà xác bệnh viện Ái Tâm để kiểm nghiệm suy luận của mình.”
“Vừa hay, Đường Tiểu Đường đang hoàn thiện nốt vài việc ở đó, để chị bảo con bé phối hợp với cậu…” Lôi Dung chưa nói xong, Hô Diên Vân đã cúp máy.
Lôi Dung chờ mãi chẳng thấy tin gì từ Hô Diên Vân. Sắp tan làm, thấy Đường Tiểu Đường trở về, Lôi Dung hỏi cô có gặp cậu ta không, Đường Tiểu Đường đáp có, nhưng cậu ta không nói chuyện với cô mà chi hỏi han hai nhân viên nhà xác.
“Cậu ta hỏi gì?”
“Em không rõ. Nói chung sau đó Hô Diên Vân chui vào phòng đặt máy phát điện cạnh nhà xác, rất lâu không chịu ra…”
Lôi Dung ngẫm nghĩ mãi vẫn không hiểu nổi cậu ta định làm gì.
Tối đó, Lôi Dung tham gia buổi họp do thành phố tổ chức, khéo sao gặp được Lưu Tư Miễu và Lâm Phượng Xung. Lúc nghỉ giữa cuộc họp, họ ngồi lại trò chuyện với nhau, Lôi Dung buột miệng kể về hành động của Hô Diên Vân. Lưu Tư Miễu cũng không hiểu ý đồ của cậu ta, nhưng Lâm Phượng Xung lại có gợi ý. Anh nói lúc xế chiều Hô Diên Vân gọi điện xác nhận một việc nhỏ.
“Hai người nhớ không, ông Từ bảo vệ của viện bảo trợ cung cấp một manh mối: khoảng 10 rưỡi đêm xảy ra án mạng, ông ta nhìn thấy Hình Khải Thánh rời viện bảo trợ.”
“Nhớ chứ sao không.” Lưu Tư Miễu đáp. “Nghĩ lại mà nổi hết da gà, khi đó Hình Khải Thánh chết trên núi rồi.”
“Đúng, nhưng lạ lùng hơn, cô tạp vụ cũng khai khoảng 10 giờ hơn, cô ta đi vệ sinh thì thấy văn phòng giám đốc sáng đèn, trong phòng có tiếng bước chân.” Lâm Phượng Xung bất giác nhỏ giọng, “Cứ cho ông Từ mắt mờ nên nhìn nhầm đi, nhưng cô Trương là người đáng tin, vậy người ở trong văn phòng giám đốc lúc 10 giờ hơn đêm đó là ai? Tổ chuyên án mãi không làm rõ được chuyện này, có người cho là trộm tình cờ mò vào thôi…”
“Sao thế được?” Lưu Tư Miễu lắc đầu. “Trộm nào hành sự nửa đêm còn bật đèn.”
“Đúng, tóm lại đây là chuyện kì lạ không ai hiểu nổi. Có điều, hai người cũng biết đấy, trong lúc điều tra phát hiện chuyện kì lạ là rất bình thường, nên sau đó chúng tôi không tìm hiểu thêm. Xế chiều, Hô Diên Vân gọi điện hỏi tôi đầu đuôi sự việc, tôi bảo không nhớ rõ, thế là cậu ta nổi quạu. Tôi mới hỏi điều tra kĩ thế làm gì, cậu ta đáp ‘mấu chốt để phá vụ án núi Chuột Quét nằm ở đây’!”
Cả Lôi Dung và Lưu Tư Miễu đều kinh ngạc, “Hả? Chẳng lẽ Hô Diên Vân phá được án rồi?”
“Có vẻ thế. Cậu ta còn hỏi tôi cách liên lạc ông Từ và cô Trương, bảo là cần gặp họ nói chuyện.”
Lưu Tư Miễu chống cằm trầm tư, buột miệng bảo Lôi Dung, “Em phục cậu em của chị thật, chẳng biết trong đầu cậu ta chứa cái gì…”
Lôi Dung nhìn cô.
“Gì thế? Sao nhìn em kiểu đó?” Lưu Tư Miễu hơi mất tự nhiên.
Lâm Phượng Xung bật cười.
Đúng lúc ấy, một người cao to vạm vỡ tiến đến trước mặt họ, cất giọng sang sảng, “Chào cô Lưu Tư Miễu, lâu quá không gặp!”
Lưu Tư Miễu nhìn lên, thì ra là phó giám đốc Uông phụ trách điều tra tội phạm kinh tế của Sở Cảnh sát tỉnh A. Cô đứng dậy bắt tay. “Tôi nghe nói anh sẽ đến, không ngờ lại gặp anh ở đây. Vụ án kia bước vào giai đoạn thu lưới rồi à?”
“Ừ, lần này tôi đến để bàn với lãnh đạo bộ về thời gian bắt đầu và phương án hành động cụ thể.” Ông Uông làm động tác cá đã trong rọ, “Đừng hòng tên nào chạy thoát!”
⚝ ⚝ ⚝
Nhân viên phục vụ đặt chén và ấm trà thảo dược lên bàn, sơ ý khiến chúng va chạm nhau keng một tiếng, cắt ngang dòng suy nghĩ của Lưu Tư Miễu. Nâng chén trà ngấm nghía cánh hoa hồng lững lờ trôi trong làn khói mờ, cô lại chìm vào suy tưởng lúc nào không hay.
Chiều nay, Quách Tiểu Phần gọi điện thông báo mình đã trở về, hẹn gặp ở quán cà phê trên tầng hai quảng trường Thời Đại Viễn Dương lúc 7 giờ tối. Lưu Tư Miễu đang lái xe đến điểm hẹn thì phát hiện một người lảo đảo đi ra từ quán đồ nướng bên kia đường. Người này say mèm, mặt đỏ bừng, rút chìa khóa mở cửa chiếc Jeep Compass màu đen rồi trèo lên ghế lái. Lưu Tư Miễu liền quay đầu xe ở ngã tư trước mặt, phóng thẳng đến cửa quán đồ nướng. Cô nhảy xuống xe, giật mở cửa chiếc Compass, nói khẽ nhưng nghiêm khắc với người đàn ông đang siết chặt di động, nhắm mắt dựa đầu vào lưng ghế, “Đỗ Kiến Bình! Anh xuống ngay cho tôi!”
Đỗ Kiến Bình hé mí mắt nặng trịch nhìn cô, lộ vẻ ngạc nhiên và ngượng ngùng, “Lưu Tư Miễu à… Sao thế?”
“Sao trăng cái gì?!” Lưu Tư Miễu giận dữ, “Tôi mà đến chậm, anh định lái xe trong tình trạng say rượu đúng không? Anh không cần lương hưu nữa chứ gì?!”
Đỗ Kiến Bình ì ạch lết ra khỏi ghế lái, gục đầu nín thinh. Lưu Tư Miễu nhác thấy tên và số mình hiển thị trên màn hình điện thoại trong tay ông, “Anh định gọi cho tôi à?”
Đỗ Kiến Bình lẩm bẩm, giọng lè nhè. Xung quanh rộn rã tiếng chào mời khách vào quán nướng và tiệm cơm nên Lưu Tư Miễu chẳng nghe rõ. Cô chỉ luôn vào chiếc Camry của mình, “Anh lên đi, tôi đưa anh về! Có chuyện gì lên xe hẵng nói!”
Đỗ Kiến Bình lên xe, hơi rượu trào lên làm ông phải dựng cổ áo khoác da, che miệng nấc liên tục. Cơ thể cao to của ông co quắp trên ghế phụ lái, mắt nhắm nghiền. Lưu Tư Miễu tưởng ông ngủ nên không làm phiền, nhưng trong lòng nhộn nhạo thắc mắc vì sao ông uống say lại định gọi cho mình. Xe lăn bánh, len lỏi giữa phố xá đông đúc giờ cao điểm. Dưới bầu trời đêm, ánh đèn từ đuôi xe đằng trước đan xen với ánh đèn đường rọi vào làm lóa mắt, khiến hình ảnh cây cối, nhà cửa, cầu vượt, bến xe buýt và cả hành khách đứng chờ đều mờ nhòa như phủ một lớp hơi men.
“Tôi xin lỗi.” Đỗ Kiến Bình mở mắt thì thào rồi nhắm lại.
Lưu Tư Miễu nhìn ông, “Rốt cuộc anh sao vậy?”
“Không sao…” Đỗ Kiến Bình xốc áo, tiếp tục chìm trong im lặng.
Lưu Tư Miễu cho xe tấp vào lề, từ từ dừng lại. Ánh mắt cô chĩa thẳng vào Đỗ Kiến Bình, “Anh biết tôi không thích nghe lời nửa vời, tôi cũng biết anh không phải người chỉ nói nửa lời. Có gì anh nói thẳng ra xem nào.”
Không co ro nữa, Đỗ Kiến Bình chậm chạp ngồi thẳng dậy, khẽ bộc bạch, “Lưu Tư Miễu, thật ra có dạo cô làm tôi rất phật ý. Hồi ấy con gái tôi vừa qua đời, anh chị em trong sở đều đến hỏi thăm, nhưng cô không tới cũng không nhắn tin, tôi chạnh lòng hết sức. Thật đấy, dù là đàn ông thô thiển, nhưng tôi cũng có lúc nhạy cảm. Vợ tôi mất sớm, một tay tôi chăm bẵm nuôi con gái lớn khôn, cho nó đi học đại học ở tỉnh khác. Đang yên đang lành tự nhiên trường nó gọi bảo tôi tới nhận xác. Chắc cô nghe kể rồi, khi đó tôi ngã ngồi xuống sàn nhà ăn tập thể, cả thế giới đột nhiên trở nên xa lạ. Suốt một thời gian, đến khóc tôi cũng không khóc nổi, tim quặn thắt lại, cả người như bị đốt cháy…
“Lúc tôi đi nhận xác có Lâm Phượng Xung đi cùng. Đến nơi, tìm hiểu đầu đuôi câu chuyện, tôi mới biết con bé ngốc nghếch nhà tôi mắc bẫy bọn ‘câu cá’. Nó cầm căn cước công dân đi vay tiền công ty vay vốn sinh viên để giúp một người bạn mắc ‘bệnh hiểm nghèo’, chẳng ngờ đứa bạn trốn mất, món nợ của nó lãi mẹ đẻ lãi con lên đến cả tỉ, bán nhà cũng không trả nổi, nên nó nghĩ quẩn…”
Nói đến đây, Đỗ Kiến Bình giơ bàn tay to lớn lên mắt dụi lấy dụi để, sau đó mới kể tiếp, “Sau chuyện này, nhiều anh em ngầm trách tôi hèn, là trưởng phòng điều tra hình sự đáng lẽ phải bắt bằng được lũ ác ôn và chủ mưu cho vay chứ. Có mấy anh em nhiệt tình còn bảo nếu tôi ra tay thì họ sẽ theo đến cùng! Thực ra tôi tính chuyện này phải tự mình xử lý, không thể để ảnh hưởng anh em. Tôi quyết tâm dùng mọi hình phạt tàn khốc nhất để lột da rút gân bọn Quỹ từ thiện Ái Tâm khốn nạn nhưng không được tốn viên đạn nào! Ngay khi tôi chuẩn bị động thủ, giám đốc sở là Hứa Thụy Long đột nhiên tìm tới, nói rằng bên trên đang bí mật điều tra hành vi phạm tội hình sự và tội kinh tế của Quỹ từ thiện Ái Tâm. Họ muốn hốt cả mẻ nhưng giờ chưa đủ bằng chứng, phải chờ thêm một thời gian mới thu lưới được. Vậy nên dù rất thông cảm cho nỗi đau mất con gái của tôi, anh ấy vẫn hi vọng tôi tuân thủ kỉ luật của tổ chức, tạm thời nhẫn nhịn không báo thù riêng kẻo đánh rắn động cỏ, phá hoại cả quá trình điều tra khiến bọn tội phạm lọt lưới.”
Đỗ Kiến Bình gắng sức nuốt khan, xòe hai bàn tay. “Tôi bảo anh ấy, ba mươi năm nay lúc nào tôi cũng là người của tổ chức, răm rắp nghe theo chỉ đạo cấp trên. Nhưng giờ bảo tôi đừng trả thù cho con thì tôi không làm được! Tôi nức nở trong văn phòng giám đốc sở, ‘Làm cảnh sát, anh em mình đều biết án hình sự càng ngâm càng nguội. Chính anh cũng dõi theo con Oanh lớn khôn, từng đặc cách cho tôi dẫn nó theo khi trực đêm vì sợ nó ở nhà một mình không an toàn, còn cho hai cảnh sát hình sự đưa đón hằng ngày khi thấy nó bị du côn bắt nạt… Thế mà giờ anh nỡ trơ mắt nhìn nó chết sao?’ Hứa Thụy Long tuy cứng nhắc và rập khuôn như người máy nhưng cũng rơi nước mắt, luôn miệng an ủi, ‘Đỗ Kiến Bình, anh phải tin vào tổ chức…’ Tôi biết anh ấy cũng khó xử nên chỉ hỏi chính xác phải chờ bao lâu? Anh ấy giơ hai ngón tay, tôi bảo được, tôi chờ hai năm. Rồi tôi làm thủ tục ngừng công tác không hưởng lương, về thẳng nhà…”
Nhìn ông, đôi mắt bình thản của Lưu Tư Miễu ánh lên vẻ xót xa.
“Cô không biết hai năm nay tôi sống thế nào đâu. Tôi lật từng tấm hình của Oanh, nhớ về nó hồi nhỏ, vừa khóc vừa đấm ngực thùm thụp. Ngày nào tôi cũng phải khóc mới sống tiếp được, vì quá đau đớn, ngực ứ lại như thợ mỏ mắc kẹt dưới hầm sâu bị nghẹn muội than. Ban ngày tôi nhắc nhở bản thân rằng mình là cảnh sát, phải hiểu và tuân thủ pháp luật. Nhưng cứ đến tối tôi lại nằm mơ thấy mình nghiền xương lũ cặn bã đó…
“Ngày qua ngày, càng chờ tôi càng cảm thấy việc này chắc nguội rồi, lắng xuống rồi, chẳng còn ai nhớ đến cái chết của Oanh, chẳng còn ai trừng trị bọn người đã hại nó. Oanh sẽ như vô số thanh niên bị bức tử bao năm qua vì khoản vay sinh viên, cứ thế bị chôn vùi, bị lãng quên, bị xóa sổ. Trong khi bọn quỷ hút máu kia vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, sống thảnh thơi sung sướng. Tôi hận chính mình vì sao lại nhu nhược nghe lời…”
Nước mắt lã chã, Đỗ Kiến Bình vừa quệt đi vừa cười cay đẳng, “Cứ nhắc đến chuyện này là tôi lại thế… Dạo gần đây, trên sở gọi tôi về vì không đủ nhân lực. Lúc núi Chuột Quét xảy ra án mạng, mới đầu chưa tường tận ngọn ngành nên Hứa Thụy Long chỉ đích danh tôi làm tổ trưởng tổ chuyên án. Đến khi biết Quỹ từ thiện Ái Tâm có dính líu, anh ấy bàn với tôi là để cô thay thế. Sau đó lại nghe nói nghi phạm có thể liên quan đến Lâm Hương Minh, anh ấy đâm ra khó xử, sợ cô làm theo cảm tính…
“Vụ án này quá lớn, chức tổ trưởng tổ chuyên án bắt buộc phải giao cho người cùng cấp bậc với tôi và cô. Anh ấy quyết định cứ để tôi làm trước, dặn đi dặn lại: chỉ cần điều tra Chu Lập Bình, không được động vào quỹ từ thiện. Tôi đồng ý, dù sao cũng nhẫn nhịn hai năm ròng, thêm mấy ngày nữa có sá gì… Hôm đó trong phòng họp, cô nói tôi hèn nhát, yếu đuối, sợ bóng sợ gió, không dám đối diện cũng không dám điều tra và báo thù cho con gái. Cô hỏi tôi rốt cuộc có còn là một người cha không. Những lời ấy đâm vào tim tôi đau nhói. Nhưng tôi không thể phản bác hay giải thích, vì tôi biết thật ra cô nói đúng…”
Đỗ Kiến Bình ngoảnh mặt đi khóc nức nở. Nước mắt mài mòn các góc cạnh trên gương mặt rắn rỏi, tóc mai bạc màu và nếp nhăn thô ráp khiến ông trông càng già nua và bất lực.
Lưu Tư Miễu rút khăn giấy đưa cho ông, “Tôi xin lỗi…”
“Không không!” Một tay Đỗ Kiến Bình nhận khăn giấy lau bừa lên mặt, tay kia xua xua, “Lưu Tư Miễu, mãi đến hôm nay tôi mới biết mình thật sự đã nghĩ oan cho cô… Anh Hứa Thụy Long cùng anh Uông bên tỉnh A đi họp với lãnh đạo trên bộ về đã truyền đạt với tôi chỉ thị của cấp trên. Sau hai năm ráo riết điều tra, đội hình sự và đội kinh tế đã thu thập đủ bằng chứng để tiến hành khởi tố Quỹ từ thiện Ái Tâm. Theo nguồn tin đáng tin cậy, lãnh đạo chủ chốt của quỹ sẽ tổ chức lễ viếng cho Hình Khải Thánh tại nhà tang lễ thành phố vào sáng mai, lúc đó cảnh sát thành phố và cảnh sát tỉnh A sẽ phối hợp tiến hành kế hoạch ‘Xuyên Thủng’, quăng lưới bắt sạch bọn tội phạm, không để bất cứ tên nào chạy thoát! Lúc hay tin, tôi xúc động nắm tay Hứa Thụy Long, luôn miệng cảm ơn lãnh đạo và tổ chức. Anh Uông đứng bên cạnh bảo tôi còn phải cảm ơn một người nữa, người suốt hai năm nay nhiều lần gửi báo cáo lên lãnh đạo, yêu cầu điều tra toàn diện Quỹ từ thiện Ái Tâm. Sau khi nghe lãnh đạo bộ nói rõ ngọn ngành, cô ấy lập tức đề nghị hỗ trợ công tác thu thập bằng chứng từ góc độ kĩ thuật hình sự, đã được lãnh đạo phê duyệt. Tôi hỏi là ai, Hứa Thụy Long trả lời chính là cô. Anh ấy bảo, cô từng tìm gặp anh ấy vì chuyện của Oanh, đập bàn tuyên bố tuyệt đối không chấp nhận nhắm mắt làm ngơ khi người nhà đồng nghiệp bị lũ bất lương hãm hại…”
Lưu Tư Miễu nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời lúc này tối mịt, các lớp dạy thêm vừa tan học, học sinh và phụ huynh nườm nượp túa ra đường. Có người cha bế cô con gái mặc áo khoác xanh nhạt lên ghế an toàn sau xe đạp, vất vả đẩy xe ngược gió, ngang qua đầu xe họ.
“Cảm ơn cô, Lưu Tư Miễu, cảm ơn cô rất nhiều…” Đỗ Kiến Bình nghẹn ngào, “Đây có lẽ sẽ là vụ án cuối cùng trong sự nghiệp làm cảnh sát của tôi. Khi nào bọn Quỹ từ thiện Ái Tâm bị bắt hết, tôi sẽ nộp đơn từ chức. Coi như con tôi đã có thể nhắm mắt, cái thân già cứng ngắc của tôi, sau ba năm đông đá rốt cuộc cũng được mặt trời sưởi ấm, để rồi tan chảy, rệu rã và cạn kiệt sức lực… Lưu Tư Miễu, tôi không trách nếu cô cho rằng tôi trốn chạy khỏi vụ núi Chuột Quét. Tôi có lỗi với những đứa trẻ đã chết trong hầm thông gió. Nhưng cô biết không, phần đời còn lại của tôi sẽ chẳng khác nào người ngã xuống hầm thông gió ấy, cô độc ngồi dưới đáy giếng lạnh lẽo, tăm tối và tuyệt vọng, chờ ngày bị một mồi lửa thiêu rụi…”
Dứt lời, Đỗ Kiến Bình bưng mặt, mười ngón tay như muốn khảm vào da thịt, cơ thể khẽ run rẩy. Ông gắng sức lắm mới kìm được tiếng khóc.
Lưu Tư Miễu nhìn ông, trước mắt cô như hiện ra hình ảnh người cha đẩy xe đạp ngược gió, vất vả đi giữa màn đêm, nhưng ghế sau lại trống không…
⚝ ⚝ ⚝
“Đang nghĩ gì thế?”
Thấy có người ngồi xuống ghế đối diện, Lưu Tư Miễu bừng tỉnh. Cô quan sát Quách Tiểu Phần, nhận ra cô gái ấy hơi khang khác. Tuy cách ăn mặc vẫn đáng yêu, nụ cười vẫn tươi tắn, song gương mặt không còn nét căng thẳng vì áp lực công việc, đôi mắt sáng ngời không còn ánh lên vẻ sắc lẹm của người phóng viên. Cô ấy hôm nay rất bình thản, dịu dàng thậm chí hơi e thẹn. Dưới ánh sáng đèn lưu ly bảy màu, gò má cô ấy ửng hồng như người say rượu.
“Quách Tiểu Phần, cô có chuyện gì vui lắm à?”
“Biết ngay không giấu được cô mà.” Quách Tiểu Phần cắn môi cười ngại ngùng, lấy từ trong túi xách một cuốn sổ màu đỏ, “À thì… chiều nay tôi đi đăng kí rồi.”
Nhìn dòng chữ “Chứng nhận kết hôn” lấp lánh vàng, Lưu Tư Miễu tròn mắt sửng sốt. Cô mở sổ, há hốc mồm khi thấy hình chụp chung của Quách Tiểu Phần và Mã Tiếu Trung. Rất lâu sau mới hiểu ra vấn đề, cô nở nụ cười mừng rỡ và chân thành nhất, “Hay quá, chúc mừng cô và anh Mã Tiếu Trung! Chúc hai người hạnh phúc!”
Quách Tiểu Phần ngại ngùng kẹp hai tay vào khoeo chân, kể lại, “Cô nhìn cái tướng anh ấy đi. Lúc chụp hình cưới, thợ chụp bảo đừng cười ngơ ngáo thế, anh ấy nói trước lạ sau quen, lần sau sẽ sửa, nên bị tôi nhéo cho một cái!”
“Rồi rồi, khó khăn lắm Mã Tiếu Trung mới rước được người về dinh mà! Có điều sau này cô phải uốn nắn anh ấy nhiều đấy… Nhất định không được nương tay nghe chưa.” Lưu Tư Miễu cười trêu. “À đúng rồi, khi nào tổ chức đám cưới?”
“Ờm… chúng tôi chưa quyết định có tổ chức không…” Quách Tiểu Phần bĩu môi, “Thật ra tôi không muốn lắm, nhưng anh ấy cứ khăng khăng hôn lễ có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tư nhân, phải hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ.”
“Làm chứ! Phải tổ chức chứ! Đám cưới là sự ‘chứng nhận’ trước toàn thể người thân bạn bè, là sự ràng buộc với chú rể, sự đảm bảo cho cô dâu. Tuy Mã Tiếu Trung hay ăn nói linh tinh, nhưng thật ra anh ấy chín chắn hơn cô nhiều.”
“Không ngờ cô thấu đáo ghê! Thế cô thì sao?”
“Tôi á?”
“Ừ, cô chứ ai.” Quách Tiểu Phần cười. “Cô định khi nào mới tìm người để cùng đi đăng kí kết hôn giống tôi?”
Lưu Tư Miễu thoáng xịu mặt, nụ cười tuy vẫn trên môi nhưng rất miễn cưỡng, “E rằng cả đời tôi không có cơ hội này…”
Cả hai chìm vào im lặng. Bản nhạc Hàn Quốc êm ái vang lên giữa không gian yên tĩnh của quán cà phê, ngân nga về cảnh cô đơn chán chường trong tiếng đệm của piano và kèn clarinet.
“Lưu Tư Miễu, có vài điều tôi đã muốn nói từ lâu.” Quách Tiểu Phần nhìn bạn mình, “Chuyện cũ người xưa, cần quên thì cứ quên đi. Cô còn trẻ, hãy cho mình và người khác cơ hội… Đôi khi chúng ta mãi chờ đợi một người, để rồi nhận lại nỗi cô độc. Sự chờ đợi không có ý nghĩa với người mà ta trông ngóng, cũng không có ý nghĩa với tuổi thanh xuân lặng lẽ trôi qua của ta.”
Lưu Tư Miễu cụp hàng mi dài, che đi đôi mắt xinh đẹp ẩn chứa bi thương. Rất lâu sau cô mới bưng chén lên nhấp một ngụm trà.
“Chẳng qua tôi không muốn thỏa hiệp.”
“Ai rồi cũng phải thỏa hiệp thôi.” Quách Tiểu Phần thì thầm, “Đời người là quá trình vừa trưởng thành vừa thỏa hiệp mà.”
“Vậy…” Lưu Tư Miễu chỉ quyển sổ chứng nhận kết hôn đặt trên bàn, “Cái này cũng là thỏa hiệp?”
“Ừ.” Quách Tiểu Phần bình thản đáp, giọng quả quyết và dứt khoát, Lưu Tư Miễu nghe cũng phải ngỡ ngàng. “Cô biết mà, người tôi yêu không phải Mã Tiếu Trung. Có điều, tôi chờ đợi mãi nhưng lòng người ta chỉ hướng về người khác.” Quách Tiểu Phần nhìn Lưu Tư Miễu, “Một mồi lửa trên núi Chuột Quét đã kéo đám bạn cũ chúng ta về lại bên nhau, lúc ấy tôi mới nhận ra, sau bao năm ai cũng thay đổi. Có người trưởng thành, có người từng trải, có người héo mòn, cũng có người như tôi… Nói tế nhị là chúng ta tỉnh táo, còn nói toạc ra là chúng ta lõi đời. Tôi không còn khao khát một mối tình cảm động trời đất, không còn mong mỏi cuộc sống bên người mình yêu nhất. Bây giờ tôi chỉ muốn có một gia đình, một mái nhà, một người yêu tôi, được sống cuộc đời bình dị êm đềm, không bị ai quấy rầy, vậy là đủ lắm rồi…” Hai mắt cô long lanh nước.
Lưu Tư Miễu cầm ấm lên châm trà, nhẹ nhàng đẩy chén tới trước mặt bạn. Quách Tiểu Phần uống vài hớp, kể lại chuyện mình cùng Mã Tiếu Trung đi tìm Đổng Nguyệt, đưa ra kết luận, “Sau khoảng thời gian đi phỏng vấn và điều tra vừa qua, tôi cho rằng Chu Lập Bình từ mười năm trước đến nay đều là người tốt, đứng đắn. Tôi không rõ vì sao hắn rơi vào cảnh này, nhưng dẫu chọn một mình một lối đi thì hắn vẫn không phải kẻ đi ngược xã hội.”
Lưu Tư Miễu nghiêm túc gật đầu.
“Đúng rồi, có điều này tôi phải xin lỗi cô. Chắc tôi không hoàn thành được bài báo cô nhờ viết đâu. Nếu thật sự tổ chức đám cưới, tôi sẽ phải bận rộn chuẩn bị rất nhiều thứ, chưa chắc có đủ thời gian và sức lực để viết bài. Đấy là chưa kể, chính tôi còn không kiên trì với lý tưởng của mình, sao dám viết bài về người luôn ‘trước sau như một’ như Chu Lập Bình chứ.”
“Không sao.” Lưu Tư Miễu cười đáp. “Với tôi, cô đã hoàn thành việc tôi nhờ rồi.”
“Hả?” Quách Tiểu Phần ngơ ngác.
“Suy cho cùng, tôi chỉ muốn chứng minh năm xưa Lâm Hương Minh không nhìn lầm người.”
Hai người rời khỏi quán cà phê khi đã 8 rưỡi tối. Lúc họ đến cửa thang máy, một bé trai kháu khỉnh bụ bẫm va phải Lưu Tư Miễu. Mẹ cậu bé rối rít xin lỗi cô, nhưng chính cậu bé chẳng buồn để ý bởi còn mải hớn hở lao về phía cung thiếu nhi ôm châm một cô bé đang cầm giấy vẽ. Cô bé cười rộ lên, quàng tay ôm lại em trai mình.
Quách Tiểu Phần sực nhớ ra, lần trước đến đây cô cũng gặp hai chị em này. Lúc đó, cậu em ngồi tần ngần trên đỉnh cầu trượt hình mũi voi không dám trượt xuống, còn cô chị mặc áo khoác hồng gọi với lên cổ vũ em dũng cảm trượt thử.
Trong khi đó, Lưu Tư Miễu lại chú ý đến bức tranh màu nước trong tay cô bé. Bức tranh vẽ một tòa nhà cao tầng thẳng đuột như ống khói, ba đứa trẻ ăn mặc sặc sỡ ngồi trên nóc nhà, ngẩng đầu ngắm trời mây. Có điều, do tranh bị cầm ngược nên ba đứa trẻ chúc đầu xuống, còn tòa nhà cao tầng lại giông giống hầm thông gió nằm sâu dưới lòng đất…
“Quách Tiểu Phần, cô còn nhớ không, hồi mới xảy ra án mạng trên núi Chuột Quét, tôi nóng lòng muốn phá án thật nhanh để tránh gây hoang mang dư luận. Cô lại bảo không gây hoang mang được đâu, vì ba đứa trẻ thiệt mạng đều là trẻ khuyết tật, ở tầng đáy xã hội, không thuộc phạm trù quan tâm của giai cấp trung lưu cũng là người dùng chủ yếu của phương tiện truyền thông. Xem ra cô nói đúng.” Lưu Tư Miễu khẽ cảm thán, “Theo báo cáo của Ban Truyền thông Sở Cảnh sát thành phố, mức độ quan tâm của công chúng với vụ án này càng lúc càng thấp, hiện tại gần như rơi xuống con số 0.”
“Hơn một tháng nữa là sang năm mới, sau đó là đến Tết, khắp nơi rồi sẽ tràn ngập tiếng cười, còn mấy ai nhớ đến những đứa trẻ đã chết đây…” Quách Tiểu Phần buồn bã tiếp lời, “Thật ra, ngay cả tôi cũng chẳng còn nhớ tên bọn trẻ. Sẽ không còn ai nhớ đến chúng, không còn ai nhớ rằng chúng từng đến với cuộc đời này…”
Cảm giác như bị đập mạnh vào đâu, Lưu Tư Miễu choáng váng nhận ra chính mình cũng đã quên tên họ bọn trẻ. Đứng trên thang cuốn xuống tầng, cô vắt óc cố nhớ lại, nhưng đến tận khi rời thang máy cô vẫn chưa nhớ ra.
Ra khỏi quảng trường Thời Đại Viễn Dương, Quách Tiểu Phần gọi xe. Trong lúc đứng chờ, họ lại nghe văng vẳng bài hát thiếu nhi êm tai lần trước. Những đứa trẻ tham gia buổi tập hợp xướng cùng cao giọng hát:
“Chim líu lo, đỉnh núi đã tan băng, sông ngân nga khúc dân ca nhịp nhàng, chú hươu nhỏ tung tăng trong màu nắng, ôi mắt chú trông mới đẹp làm sao. Hoa trong rừng thức dậy thật là sớm, gió mùa xuân ấm áp khẽ mơn man, lá trên cành cùng chào ông mặt trời.”
Bọn trẻ hát không đều, song giọng hát véo von và trong trẻo. Hai người nghe một hồi mà thẫn thờ. Đột nhiên di động của Quách Tiểu Phần đổ chuông, chiếc xe cô gọi đã đến nơi, đang đỗ bên đường gần đó. Cô vừa chạy xuống bậc thang vừa vẫy tay chào tạm biệt Lưu Tư Miễu, “Để về tôi gửi thiệp mời điện tử cho cô, cô nhớ phải đến dự đám cưới đấy!” Lưu Tư Miễu gật đầu, hét lên nhận lời, “Tôi chắc chắn sẽ đến!”
Nhìn chiếc xe đi xa dần, Lưu Tư Miễu đứng bất động tại chỗ, chợt thấy buồn bã và phiền muộn. Tại khoảnh khắc này, cô có cảm giác vụ án núi Chuột Quét đã khép lại. Tuy chưa tìm ra chân tướng, chưa bắt được hung thủ, mọi việc vẫn còn dang dở, nhưng thật ra không có kết thúc cũng là một cách kết thúc…
Không có kết thúc chính là một cách kết thúc.
Giọng ca của bọn trẻ tràn ngập niềm vui. Chúng hát về một thế giới tươi đẹp như chuyện cổ tích, một tuổi thơ hạnh phúc không cần lo ăn lo mặc cùng một tương lai vô vàn ước mơ. Lắng nghe hồi lâu, Lưu Tư Miễu chợt nhớ tới một bài viết sáo rỗng có tiêu đề “Cách duy nhất để tìm thấy hạnh phúc chính là không ngừng tưởng tượng ra hạnh phúc”. Nhưng trong đêm cuối thu này, khi nhìn bóng mình đổ dài dưới đất nhờ ánh đèn trung tâm thương mại hắt sang, cô bỗng cảm thấy bài viết đó không hắn vô nghĩa. Hạnh phúc là lãng quên, là thỏa hiệp, là thuận theo số đông, là cất cao tiếng hát, là mặc kệ những việc không liên quan đến mình, là dứt khoát kết thúc lúc cần kết thúc chứ đừng mãi so đo… Lưu Tư Miễu đút tay túi áo, bước từng bước xuống thang, vừa về nhà vừa khẽ ngâm nga theo tiếng ca của bọn trẻ. Đây là lần đầu tiên sau nhiều năm, cô thấy như trút được gánh nặng trên vai, ngay cả bước chân cũng nhẹ nhàng theo lời hát.
“Đầy những nụ cười, với những nỗi buồn, biết bao giấc mơ chờ ta thực hiện, biết bao bè bạn đang ở quanh ta, hạnh phúc làm sao khi bạn bên ta, cùng biến giấc mơ thành hiện thực nào.”
Ra đến ngã tư, tiếng hát đã dần xa nhưng Lưu Tư Miễu hãy còn ngâm nga. Tự nhiên cô nhớ ra tên ba đứa trẻ: Triệu Vũ, Lý Dĩnh, Đổng Tâm Lan. Chiếc hộp kí ức thình lình mở khóa, cô nhớ lại tấm thân bé nhỏ bị thiêu cháy, nhớ đến chỗ cơm thừa canh cặn đựng trong “bát cơm” bằng hộp mì ăn liền. Cô thậm chí nhớ cả tuổi của bọn trẻ: 12 tuổi, 9 tuổi, đứa nhỏ nhất 5 tuổi. Khi còn sống, phải chăng chúng cũng “đầy những tiếng cười, vơi những nỗi buồn”, phải chăng chúng cũng có biết bao giấc mơ đang chờ thực hiện…
Cô cứ đứng đó đăm chiêu suy nghĩ, không buồn cất bước ngay cả khi đèn đã xanh. Đèn chuyển sang đỏ, chẳng bao lâu sau lại chuyển sang xanh, rồi đỏ, rồi xanh, rồi đỏ…
Người qua lại ngã tư tò mò nhìn cô gái đứng mãi bên cột đèn giao thông không chịu qua đường, chẳng hiểu vì sao mặt cô đẫm lệ.