Chương XI
KHI mẹ đánh thức tôi dậy vào sáng hôm sau, bà bảo tôi rằng bà đã đun cho tôi một chậu nước tắm bằng lá trà oải hương và cà dược. Cà dược được cho vào để làm dịu các hành vi xốc nổi của tôi, nhưng tôi không từ chối. Tôi đau khắp mình mẩy. Đó là kết quả bạn phải gánh chịu sau khi bị một nữ thần báo tử ném khắp nhà suốt đêm.
Trong lúc chìm vào bồn tắm hết sức chậm chạp với cái mặt nhăn nhó, tôi bắt đầu nghĩ bước hành động tiếp theo. Vấn đề thực chất ở đây là tôi đã bị áp đảo.
Chuyện này không xảy ra thường xuyên, và chưa bao giờ ở mức độ này. Nhưng thi thoảng tôi cũng cần hỏi xin giúp đỡ. Tôi với tay lấy điện thoại di động trên mặt bàn và bấm số một người bạn cũ. Thực ra là một người bạn lớn tuổi. Ông biết cả cha tôi.
“Theseus Cassio”, ông nói khi nghe máy. Tôi cười mỉa. Ông không bao giờ gọi tôi là Cas. Ông thấy tên đầy đủ của tôi quá là buồn cười.
“Gideon Palmer”, tôi đáp trả và mường tượng ra ông ở đầu dây bên kia, ở bán cầu bên kia, đang ngồi trong một ngôi nhà Anh quốc đàng hoàng nhìn ra Hamstead Heath ở phía Bắc London.
“Lâu quá rồi nhỉ”, ông nói và tôi có thể thấy ông đang vắt hoặc thả chân xuống. Tôi gần như nghe được tiếng sột soạt của vải tuýt qua điện thoại. Gideon là một quý ông Anh quốc điển hình, sáu mươi lăm tuổi với mái tóc bạc trắng và cặp kính. Ông là kiểu người sở hữu một chiếc đồng hồ quả quýt và hàng dãy những cuốn sách phủ đầy bụi chất từ sàn nhà tới kịch trần. Ông thường đẩy tôi lên chiếc thang có ray hồi tôi còn bé và muốn tôi lấy một cuốn quái dị gì đấy về các yêu tinh, hoặc các câu thần chú, hay bất kỳ cái gì. Gia đình tôi và tôi nghỉ hè với ông hồi cha tôi săn lùng con ma ám White Chapel, một kiểu hàng nhái Jack Đồ tể.
“Nói cho ta biết, Theseus”, ông nói. “Khi nào cháu định quay lại London đấy? Có khá nhiều thứ lang thang ban đêm ở đây, đủ để cháu bận rộn. Vài trường đại học tuyệt vời nữa, tất cả đều bị ám đến tận ngóc ngách.”
“Ông nói chuyện với mẹ cháu đấy à?”
Ông cười phá lên, nhưng tất nhiên là thế rồi. Họ vẫn giữ liên lạc với nhau kể từ khi cha tôi mất. Ông là... tôi đoán từ thầy cố vấn của cha tôi là hợp lý nhất.
Nhưng còn hơn thế nữa. Khi cha bị giết, ông đã bay qua đại dương cùng ngày hôm ấy. Ôm lấy cả tôi lẫn mẹ. Giờ ông đang bắt đầu bài giáo huấn về chuyện năm sau là tôi phải gửi các đơn xin học đi và tôi thực sự may mắn vì cha đã chu cấp cho việc học hành của tôi, tôi cũng không cần phải dính dấp tới mấy khoản vay đi học hay đại loại thế.
Rồi là tôi thực sự may lắm đấy vì không có học bổng nào cấp cho kiểu học sinh nay đây mai đó như tôi, nhưng tôi cắt ngang lời ông. Tôi còn nhiều vấn đề cấp bách và quan trọng hơn cần nói.
“Cháu cần giúp đỡ. Cháu vướng phải một vụ cực kỳ khó xơi.”
“Kiểu khó xơi thế nào?”
“Loại chết chóc.”
“Tất nhiên rồi.”
Ông lắng nghe trong lúc tôi kể cho ông về Anna. Rồi tôi nghe tiếng thang quen thuộc và hơi thở khe khẽ của ông lúc trèo lên với tay lấy một cuốn sách.
“Cô ta không phải một con ma thông thường, việc này chắc chắn rồi”, ông nói.
“Cháu biết. Có gì đó đã làm cô ta mạnh hơn.”
“Cách cô ta chết chăng?”, ông hỏi.
“Cháu không chắc. Từ những gì cháu nghe được, cô ta cũng chỉ bị giết như rất nhiều người khác. Rạch cổ họng. Nhưng giờ cô ta lại đang ám chính ngôi nhà của mình, giết chết bất kỳ ai bước chân vào trong giống như một con nhện chết tiệt.”
“Để ý nói năng nào”, ông quở trách.
“Cháu xin lỗi.”
“Chắc chắn cô ta không chỉ là một hồn ma biến hình”, ông lẩm bẩm, hầu như là với chính mình. “Và hành vi của cô ta quá sức kiềm chế và chủ động nên khó lòng là yêu tinh...”
Ông dừng nói, tôi có thể nghe tiếng các trang sách đang được lật. Cháu nói mình ở Ontario nhỉ? Ngôi nhà ấy không nằm trên bãi tha ma địa phương nào đấy chứ?”
“Cháu không nghĩ vậy.”
“Hừm.”
Thêm vài tiếng “hừm” nữa trước khi tôi gợi ý là tôi chỉ việc đốt trụi ngôi nhà và trói chặt cô ta ở đó.
“Hoặc nó có thể là nguồn sức mạnh của cô ta.”
“Thực tế đúng thế. Nhưng cái này cần phải điều tra thêm.”
“Điều tra kiểu gì?” Tôi biết ông sắp sửa nói gì. Gideon sẽ bảo tôi đừng có nằm ườn ra đó mà phải vận động và làm công việc chân tay đi. Ông sẽ bảo tôi là cha không bao giờ ngại phải đọc sách vở. Rồi ông sẽ lẩm bẩm đúng là thanh niên thời nay. Giá mà ông biết được.
“Cháu sẽ cần tìm một người cung cấp vật phẩm huyền bí.”
“Hả?”
“Cần phải ép cô gái này tiết lộ những bí mật của cô ta. Điều gì đó... đã xảy ra với cô ta, một điều ảnh hưởng tới cô ta và trước khi cháu có thể trục xuất linh hồn ấy ra khỏi ngôi nhà, cháu cần tìm hiểu xem nó là gì.”
Đó không phải việc tôi vừa nghĩ. Gideon muốn tôi thực hiện một câu thần chú. Tôi đâu có đọc thần chú.
Tôi có phải là phù thủy đâu.
“Vậy cháu cần người cung cấp để làm gì? Mẹ cháu vẫn cung cấp vật phẩm huyền bí đấy thôi.” Tôi nhìn xuống hai cánh tay mình dưới mặt nước. Da tôi bắt đầu râm ran, nhưng các cơ bắp đã có cảm giác tươi mới, thậm chí qua làn nước tối màu tôi cũng thấy được các vết thâm tím của mình đang mờ dần đi. Mẹ tôi đúng là một phù thủy chuyên về thảo dược tuyệt đỉnh.
Gideon cười khùng khục. “Cầu Chúa phù hộ mẹ cháu, nhưng bà ấy không phải là người cung cấp vật phẩm huyền bí gì cả. Bà ấy chỉ là một phù thủy trắng tài năng, nhưng bà ấy không quan tâm gì đến những việc cần phải làm ở đây.
Cháu không cần một vòng hoa dại và dầu hoa cúc. Cháu cần chân gà, một ngôi sao trục xuất, một loại nước hay gương tiên tri nào đó và một chuỗi các viên đá cúng tế.”
“Cháu cũng cần tới một phù thủy nữa.”
“Sau từng ấy năm, ta tin là cháu có đủ nguồn lực, ít nhất cũng đủ để tìm được người đó.”
Tôi nhăn mặt, nhưng có hai người hiện ra trong tâm trí tôi. Thomas và Morfran Starling.
“Để ta nghiên cứu nốt cái này đã, Theseus, rồi một hai ngày nữa ta sẽ gửi email cho cháu nghi thức hoàn chỉnh.”
“Được ạ Gideon. Cảm ơn ông.”
“Tất nhiên rồi. Mà Theseus này?”
“Dạ?”
“Trong lúc ấy hãy ra thư viện và cố tìm hiểu những gì có thể về cái chết của cô gái nhé. Kiến thức là sức mạnh, cháu biết đấy.”
Tôi mỉm cười. “Thu thập thông tin. Phải ạ.” Tôi cúp máy. Ông ấy nghĩ tôi là một dụng cụ cùn gì, chẳng có gì ngoài đôi bàn tay, con dao và sự lợi, nhưng sự thật là tôi có thu thập thông tin chứ, có nghiên cứu chứ, thậm chí truớc cả khi bắt đầu dùng con dao tế.
Sau khi cha bị sát hại tôi đã có rất nhiều câu hỏi. Vấn đề là dường như không ai có câu trả lời. Hay như tôi nghi ngờ, không ai muốn cho tôi câu trả lời. Vì vậy tôi tự đi tìm lấy. Gideon và mẹ thu dọn đồ đạc cho chúng tôi và chuyển tôi ra khỏi ngôi nhà ở Baton Rouge mà chúng tôi đang ở khá đột ngột, nhưng không phải là trước khi tôi kịp làm một chuyến quay lại khu vườn ươm xiêu vẹo nơi cha gặp phải cái kết bất hạnh.
Nó là một ngôi nhà xấu xí khủng khiếp. Dù cho lúc ấy tôi đang giận dữ như thế, tôi cũng không muốn bước vào. Một vật thể vô tri vô giác mà biết lườm nguýt thì nó chính là việc ngôi nhà ấy đang làm. Trong tâm trí sáu tuổi của mình tôi thấy nó đang gạt những cành dây leo sang bên. Tôi thấy nó lùa đám rêu đi để nhe nanh. Trí tưởng tượng đúng là một thứ tuyệt vời, đúng không nhỉ?
Mẹ tôi và Gideon đã dọn sạch nơi ấy từ nhiều ngày trước, ném vào đó cổ ngữ Rune(1) và những ngọn nến, đảm bảo cho cha tôi được yên nghỉ và những con ma bị trục xuất.
Thế nhưng khi tôi bước chân lên hàng hiên ấy, tôi vẫn khóc nức nở. Trái tim tôi bảo rằng cha vẫn còn ở đó, rằng ông đã trốn họ để chờ tôi, rằng bất kỳ lúc nào ông cũng có thể mở cánh cửa ra, với nụ cười tươi tắn đã chết của mình. Mắt ông đã không còn và trên khắp mạng sườn lẫn hai cánh tay ông sẽ có những vết thương hình lưỡi liềm gớm ghiếc. Việc này nghe thật ngu ngốc nhưng tôi lại bắt đầu khóc lớn hơn khi mở cửa ra và ông không có ở đó.
Tôi hít thật sâu rồi ngửi thấy mùi trà và oải hương. Nó kéo tôi trở về với thân thế mình. Nhớ lại ngày hôm ấy, lúc đi khám phá ngôi nhà đó, lại làm tim tôi đập dồn. Ở phía bên kia cánh cửa chính tôi thấy những dấu hiệu của một cuộc vật lộn và phải quay mặt đi. Tôi muốn có câu trả lời nhưng không muốn tưởng tượng ra cảnh cha mình bị quăng quật đến chết.
Tôi không muốn nghĩ đên lúc ông sợ hãi. Tôi bước qua lan can và theo bản năng tìm đến lò sưởi. Căn phòng có mùi gỗ lâu ngày, giống như ẩm mục. Trong đó cũng có mùi máu, mới hơn. Tôi không biết làm sao mình ngửi ra được mùi máu, càng không biết tại sao mình cứ thẳng tiến tới lò sưởi.
Trong lò không còn gì ngoài lớp than và muội đã hàng chục tuổi. Rồi tôi trông thấy nó. Ngay ở góc lò sưởi, đen thui như than đá nhưng lại khác biệt.
Phẳng phiu hơn. Trông nó vừa đáng nghi vừa đáng sợ. Tôi vươn tay ra và cầm nó lên từ lớp tro: một cây thánh giá đen mỏng, dài khoảng mười centimet. Có một con rắn đen cuộn quanh nó, được kết tỉ mỉ bằng một thứ mà tôi ngay lập tức nhận ra là tóc người.
Cảm giác chắc chắn tôi cảm nhận khi nắm cây thánh giá ấy giống y hệt với thứ chạy qua người tôi lúc tôi lần đầu tiên cầm con dao của cha lên vào tám năm sau đó. Đấy chính là giây phút tôi đã biết chắc, là lúc tôi biết rằng bất kể trong huyết quản cha có thứ gì - một thứ ma thuật nào đấy cho phép ông đâm xuyên qua da thịt người chết và gửi họ ra khỏi thế giới của chúng tôi - thứ ấy cũng đang chảy trong các mạch máu tôi.
Khi tôi cho ông Gideon và mẹ xem cây thánh giá và kể với họ việc mình vừa làm, cả hai đã hoảng hồn. Tôi tưởng họ sẽ an ủi tôi, âu yếm tôi như một đứa bé rồi hỏi tôi có bị làm sao không. Thay vào đó, Gideon nắm lấy hai vai tôi.
“Đừng bao giờ quay lại đó nữa!”, ông hét lên và lắc người tôi mạnh đến nỗi hai hàm răng của tôi va vào nhau lập cập. Ông giật lấy cây thánh giá đen khỏi tay tôi và không bao giờ tôi trông thấy nó lần nữa. Mẹ thì chỉ đứng từ xa mà khóc. Tôi sợ chết khiếp; Gideon chưa bao giờ làm thế với tôi. Ông đã luôn là người ông thân thương, lén tuồn kẹo cho tôi cùng với cái nháy mắt hay đại loại như vậy. Tuy nhiên, cha vừa mới bị giết và tôi đang rất giận dữ. Tôi hỏi Gideon cái thánh giá là gì.
Ông lạnh lùng nhìn xuống tôi rồi đưa tay ra sau và vả vào mặt tôi mạnh đến mức tôi ngã lăn ra sàn. Tôi nghe mẹ mình thút thít gì đó, nhưng bà không can thiệp. Rồi cả hai bước ra khỏi phòng và để mặc tôi ở đó.
Khi họ gọi tôi vào ăn tối, hai người lại mỉm cười và thản nhiên, như chưa từng có chuyện gì xảy ra.
Việc ấy đủ làm tôi sợ tới mức phải giữ im lặng. Tôi không bao giờ nhắc lại đề tài đó nữa. Nhưng không có nghĩa là tôi quên, và trong mười một năm qua tôi đã đọc, nghiên cứu bất kể khi nào có thể. Cây thánh giá đen là bùa chú của thuật phù thủy Voodoo(2). Tôi vẫn chưa tìm hiểu được ý nghĩa của nó, hay lý do tại sao nó lại được tết bằng một con rắn tóc. Theo tất cả những gì tôi biết được thì con rắn thiêng sẽ thu năng lượng từ việc nuốt trọn các nạn nhân của nó. Còn cha tôi lại bị ăn từng miếng một.
Vấn đề với cuộc nghiên cứu này là tôi không thể hỏi ở những nguồn mình tin cậy nhất. Tôi buộc phải lén lút và nói quanh nói co, nhằm giữ bí mật với mẹ và ông Gideon. Để làm cho mọi chuyện khó khăn hơn, cái thứ tôn giáo Voodoo kia vô cùng không nhất quán. Dường như tất cả mọi người đều thực hành nó theo cách khác nhau và gần như không thể phân tích nó được.
Tôi chợt nghĩ hay là hỏi lại ông Gideon lần nữa, sau vụ việc với Anna lần này. Giờ tôi đã lớn hơn và đã chứng tỏ được mình. Lần này sẽ không giống trước nữa. Thậm chí chỉ nghĩ thôi tôi cũng đã dìm người xuống bồn tắm thảo dược sâu hơn. Bởi vì tôi vẫn còn nhớ rõ cảm giác bàn tay Gideon in trên má mình và cơn giận trong mắt ông, nó vẫn còn khiến tôi cảm thấy như mình mới sáu tuổi đầu.
Mặc quần áo xong xuôi, tôi gọi Thomas và bảo nó đến đón rồi đưa tôi tới cửa hàng. Nó rất tò mò nhưng tôi đã ngăn được. Câu chuyện này tôi cần phải nói với cả Morfran nữa, và tôi không muốn phải nhắc lại lần thứ hai.
Tôi gồng mình chuẩn bị chịu trận bài thuyết giảng của mẹ và những câu hỏi vì sao tôi cần phải gọi cho ông Gideon, không nghi ngờ gì chuyện bà đã nghe lỏm điện thoại, nhưng khi bước xuống cầu thang tôi lại nghe thấy nhiều giọng nói. Hai giọng nữ. Một là của mẹ tôi. Giọng kia là của Carmel.
Tôi lê bước xuống nhà và họ hiện ra trong tầm mắt, trông rất tâm đầu ý hợp.
Họ ngồi trong phòng khách trên hai chiếc ghê kê sát nhau, nghiêng đầu về phía nhau với cái khay đặt bánh quy ở giữa. Khi cả hai chân tôi đều đã chạm mặt đất, họ ngừng nói và mỉm cười với tôi.
“Chào Cas”, Carmel nói.
“Chào Carmel. Bạn làm gì ở đây thế?”
Cô ấy với tay ra sau và lôi cái gì đó ra khỏi cặp xách. “Mình mang cho cậu bài tập môn Sinh học. Đây là bài tập nhóm. Mình nghĩ hai đứa mình có thể làm chung.”
“Bạn con tốt quá phải không Cas?”, mẹ nói. “Con không muốn bị tụt hậu đâu.”
“Mình có thể bắt đầu luôn”, Carmel gợi ý trong lúc đưa tờ giấy ra.
Tôi bước đến nhận lấy nó, liếc qua một cái. Tôi không biết tại sao đây lại là bài tập nhóm. Nó chỉ là việc tìm một đống câu trả lời trong sách giáo khoa thôi mà. Nhưng mẹ nói đúng. Tôi không nên để mình tụt lại phía sau. Bất kể chuyện sống còn mà tôi đang làm ngoài lề là gì đi nữa.
“Bạn tuyệt lắm”, tôi nói, và thực sự có ý ấy, cho dù trong vụ này Carmel còn có động cơ khác. Cô ấy không quan tâm quái gì đến Sinh học cả. Tôi sẽ ngạc nhiên nếu chính cô ấy đến lớp học này. Carmel lấy bài tập về chỉ vì cô ấy muốn có một cái cớ để nói chuyện với tôi. Cô ấy muốn các câu trả lời.
Tôi liếc sang mẹ và bà đang nhìn tôi bằng cái kiểu sởn cả tóc gáy. Mẹ đang đoán định xem các vết thâm tím mờ đi thế nào. Mẹ sẽ thấy nhẹ nhõm vì tôi đã gọi cho ông Gideon. Khi về nhà đêm qua trông tôi như bị đánh gần chết rồi.
Trong một giây, tôi tưởng mẹ sẽ khóa trái tôi trong phòng mình, vùi tôi vào trong dầu hương thảo. Nhưng mẹ tin cậy tôi. Bà hiểu việc tôi phải làm. Và tôi biết ơn mẹ vì cả hai điều ấy.
Tôi cuộn tròn tờ bài tập Sinh học và gõ nó vào bàn tay mình.
“Ừ, đi thôi”, tôi bảo Carmel và cô ấy khoác túi lên vai, mỉm cười.
“Mang thêm vài cái bánh để ăn trên đường đi hai đứa”, mẹ nói. Cả hai chúng tôi đều lấy bánh, Carmel có vẻ hơi dè dặt, rồi đi ra cửa.
“Bạn không cần phải ăn đâu”, tôi bảo Carmel khi hai đứa đã ra ngoài hiên.
“Bánh hạt hồi của mẹ mình phải ăn nhiều mới quen được.”
Carmel cười phá lên. “Mình ăn thử một cái trong kia và suýt không nuốt trôi.
Chúng có vị như rau câu bẩn vậy.”
Tôi mỉm cười. “Đừng bảo mẹ mình thế nhé. Mẹ tự sáng tạo ra công thức đấy. Bà rất tự hào về nó. Nó được cho là sẽ mang lại may mắn hay cái gì đấy.”
“Vậy thì có lẽ mình nên ăn.” Carmel nhìn xuống cái bánh một lúc lâu rồi ngước mắt lên và chăm chú nhìn vào má tôi. Tôi biết trên đó bây giờ là cả một vệt tím thẫm. “Cậu đã quay lại đó mà không có bọn này.”
“Carmel.”
“Cậu điên à? Cậu có thể đã bị giết!”
“Còn nếu tất cả cùng đi thì đã chết hết rồi. Nghe này, cứ tin theo lời của Thomas và ông nội cậu ấy. Họ sẽ nghĩ ra cái gì đó. Bạn cứ thong thả thôi.”
Làn gió mang hơi lạnh nhất định, một chút mùi vị chớm thu, cào vào tóc tôi bằng những ngón tay hơi nước buốt giá. Trong lúc nhìn đăm đăm ra phố, tôi thấy chiếc Tempo của Thomas giật cục chạy tới, đầy đủ lệ bộ đến cả chiếc cửa đã thay thế và nhãn dán Willy Wonka(3) ở cái hãm va đập. Thằng nhóc đi lại cũng điệu bộ quá, và việc ấy khiến tôi cười toe toét.
“Một tiếng nữa mình gặp bạn ở thư viện được không?”, tôi hỏi Carmel.
Cô ấy dõi theo ánh mắt tôi và trông thấy Thomas đang lại gần.
“Chắc chắn là không. Mình muốn biết đang có chuyện gì? Nếu có phút nào cậu nghĩ mình tin vào ba chuyện lăng nhăng họ kể cho Will và Chase tối qua thì... mình không ngu, Cas ạ. Mình biết mùi đánh lạc hướng chứ.”
“Mình biết là bạn không ngu, Carmel. Và nếu bạn thông minh như vẫn nghĩ, bạn sẽ tránh xa chuyện này và gặp mình ở thư viện trong một giờ nữa.” Tôi bước xuống bậc thềm ở hiên và đi bộ trên lối lái xe, dùng tay làm cử chỉ xoay vòng để Thomas khỏi phải rẽ vào. Nó nhìn thấy và đi chậm lại vừa đủ để tôi mở cửa và nhảy phóc vào trong. Rồi chúng tôi lái đi, bỏ lại Carmel nhìn chằm chằm phía sau.
“Carmel làm gì ở chỗ cậu đấy?”, Thomas hỏi. Giọng nó không chỉ là một thoáng ghen tị đâu.
“Tôi muốn được chà lưng rồi sau đó chúng tôi âu yếm nhau khoảng một tiếng đồng hồ”, tôi nói rồi đấm vào vai nó. “Thomas. Thôi đi. Cô ấy chỉ mang bài tập Sinh học qua cho tôi thôi. Chúng ta sẽ gặp lại cô ấy ở thư viện sau khi nói chuyện với ông cậu. Giờ kể cho tôi chuyện với hai thằng kia tối qua đi.”
“Cô ấy thực sự thích cậu, cậu biết không.”
“Ừ, nhưng cậu thích cô ấy hơn”, tôi nói. “Thế có chuyện gì rồi?” Nó cố gắng tin tôi, rằng tôi không quan tâm tới Carmel, và tình bạn của chúng tôi đủ lớn để tôi phải tôn trọng cảm xúc của nó dành cho cô ấy. Kỳ lạ là cả hai điều trên đều đúng.
Cuối cùng Thomas thở dài. “Bọn tôi dẫn họ đi hú họa, y như cậu nói. Rất thành công. Ông cháu tôi thực sự đã thuyết phục được hai đứa nó tin rằng nếu chúng treo các túi lưu huỳnh trên đầu giường thì cô ấy sẽ không thể tấn công chúng trong lúc ngủ.”
“Chúa ơi. Đừng có làm quá lên như thế. Chúng ta cần giữ cho chúng bận rộn.”
“Đừng lo. Ông nội Morfran diễn hay lắm. Ông gọi lên ngọn lửa xanh, đọc thần chú giả, bia bia... Nói với chúng là ông đang thực hiện một câu thần chú trục xuất, nhưng phải cần tới ánh sáng của kỳ trăng tròn tiếp theo mới hoàn tất được nghi lễ. Nghĩ thế là đủ thời gian chưa?”
Thường thì tôi sẽ nói là đủ. Rốt cuộc tôi đâu cần phải đi tìm Anna. Tôi biết cô ta ở đâu rồi mà.
“Tôi không chắc”, tôi trả lời. “Đêm qua tôi quay lại đó và cô ta đá đít tôi vòng quanh phòng.”
“Vậy cậu định làm gì?”
“Tôi đã nói chuyện với một người bạn của cha. Ông ấy nói chúng ta cần tìm hiểu xem cái gì đã cho cô ta chỗ sức mạnh dư thừa ấy. Có quen phù thủy nào không?”
Nó nheo mắt với tôi. “Mẹ cậu còn không phải à?”
“Có quen phù thủy đen nào không?”
Nó ngọ ngoạy một lát rồi nhún vai. “Chậc, chắc là tôi rồi. Tôi không giỏi lắm, nhưng có thể làm phép ngăn chặn và làm các việc râu ria. Ông Morfran thì đích thị rồi, nhưng ông không còn thực hành nhiều nữa.” Nó rẽ trái và tấp vào bên ngoài cửa hàng đồ cổ. Qua cửa kính tôi có thể trông thấy con chó đen xám, mũi nó đang hếch lên cửa còn đuôi thì đập đập xuống đất.
Chúng tôi vào trong và tìm thấy Morfran đang đứng sau quầy định giá một chiếc nhẫn mới, một thứ xinh đẹp và cổ kính với một viên đá đen lớn.
“Ông có biết gì về thần chú và trừ tà không ạ?”, tôi hỏi.
“Biết chứ”, ông nói mà không ngước mắt lên khỏi công việc của mình. Con chó đen của ông đã xong phần việc chào mừng Thomas và di chuyển tới nằm ịch lên đùi ông. Chỗ này bị ám tới tận nóc khi ta mua lại.
Đôi lúc vẫn còn bị.
Các thứ đến đây kèm theo người chủ cũ của nó, nếu cháu hiểu ý ta là gì.”
Tôi nhìn quanh cửa hàng. Tất nhiên rồi. Đồ cổ gần như lúc nào cũng mang một hai mối thâm thù quẩn quanh. Mắt tôi rớt trên một chiếc gương dài hình oval gắn ở sau lưng một cái tủ quần áo bằng gỗ sồi. Bao nhiêu khuôn mặt đã nhìn vào đó? Bao nhiêu hình phản chiếu của hồn ma đang chờ ở đó và thì thầm với nhau trong bóng tối?
“Ông kiếm cho cháu ít vật phẩm được không ạ?”, tôi hỏi.
“Loại nào?”
“Cháu cần chân gà, một chuỗi đá cúng tế, một ngôi sao trục xuất và một thứ gì đấy để tiên tri.”
Ông lườm tôi. “Thứ gì đấy tiên tri à? Nghe có vẻ kỹ thuật quá nhỉ?”
“Cháu chưa biết chi tiêu thế được chưa? Ông có tìm được hay không nào?”
Morfran nhún vai. “Ta có thể cử Thomas xuống Superior với một chiếc túi.
Lôi mười ba viên đá lên khỏi lòng hồ. Không tìm được cái gì thánh hóa hơn thế đâu. Chân gà thì có thể đặt hàng, còn thứ tiên tri thì, xem nào, ta cá là cháu sẽ cần một loại gương gì đấy, hoặc một cái bát bói toán.”
“Một chiếc bát bói toán nhìn vào tương lai”, Thomas nói. “Cậu ấy muốn cái đó làm gì cơ ạ?”
“Chiếc bát bói toán nhìn thấy bất kể thứ gì cháu muốn thấy”, Morfran chữa lại cho nó. “Còn về ngôi sao trục xuất, ta nghĩ như thế thì thái quá. Chỉ cần đốt một ít hương trầm bảo vệ, hoặc loại thảo dược nào đó là dư dả rồi.”
“Ông biết chúng ta đang phải đối đầu với thứ gì ở đấy đúng không ạ?”, tôi hỏi. “Cô ta không chỉ là một con ma. Cô ta là cả một cơn bão cuồng nộ. Cháu thà làm quá còn hơn.”
“Nghe này nhóc. Những gì cháu vừa mô tả chẳng qua chỉ là một lễ cầu hồn giả tạo. Triệu hồi con ma và trói nó vào một vòng tròn đá. Dùng chiếc bát bói toán để moi câu trả lời cháu cần. Ta nói đúng chưa?”
Tôi gật đầu. Nghe ông nói thì dễ lắm. Nhưng với một người không biết đọc thần chú và suốt đêm qua vừa bị quật như một quả bóng cao su thì chuyện ấy gần như không khả thi chút nào.
“Cháu có một người bạn ở London đang thảo các chi tiết. Chúng ta sẽ có câu thần chú trong vài ngày nữa.
Cháu có thể cần thêm một số vật phẩm, còn phải xem đã.”
Morfran nhún vai. “Dù sao thời điểm tốt nhất để thực hiện thần chú trói buộc là trong kỳ trăng xanh”, ông nói.
“Như thế cháu sẽ có một tuần rưỡi nữa. Khá nhiều thời gian.”
Ông nheo mắt với tôi và trông giống hệt cháu nội mình. “Cô ta đang thắng thế cháu phải không?”
“Không lâu nữa đâu ạ.”
Thư viện công cộng ở đây trông cũng không có gì ấn tượng lắm, mặc dù tôi cho là mình đã bị làm hư khi lớn lên cùng cha tôi và những bộ sưu tập sách bụi bặm của bạn bè ông.
Tuy nhiên, ở đây có khá đủ kiến thức về lịch sử địa phương, và đó mới là điều thực sự quan trọng. Vì tôi phải tìm Carmel và làm cho xong vụ bài tập sinh học, tôi bảo Thomas ngồi vào một cái máy tính, tìm trên cơ sở dữ liệu trực tuyến bất kỳ một thông tin nào liên quan đến Anna và kẻ giết cô ta.
Tôi thấy Carmel đang ngồi chờ ở một cái bàn đằng sau các kệ sách.
“Thomas làm gì ở đây?”, cô ấy hỏi khi tôi ngồi xuống.
“Nghiên cứu”, tôi nhún vai. “Thế bài tập Sinh học về cái gì?”
Cô ấy cười mỉa với tôi. “Phá hoại cácnhóm sinh vật sống.”
“Dài. Và chán ngấy.”
“Chúng ta sẽ phải lập một biểu đồ từ ngành cho đến loài. Chúng ta được phân ốc mượn hồn và mực.” Cô ấy cau mày. “Số nhiều của danh từ mực (octopus) là gì? Không phải là ‘octopuses’.”
“Mình nghĩ là ‘octopi’”, tôi nói, xoay cuốn sách giáo khoa đang mở về phía mình. Chúng tôi nên bắt đầu làm bài, dù đó là điều cuối cùng tôi muốn làm. Tôi muốn sờ vào các bản báo in như Thomas, tìm kiếm cô gái bị sát hại của chúng tôi. Tôi có thể thấy nó đang ngồi ở máy tính từ chỗ mình, gò lưng về phía màn hình, nôn nóng click chuột. Rồi nó viết cái gì đấy xuống giấy và đứng lên.
“Cas”, tôi nghe Carmel nói và từ giọng điệu ấy tôi biết là cô đã nói được một lát rồi. Tôi gắn lên nụ cười quyến rũ nhất của mình.
“Hửm?”
“Mình vừa bảo, cậu muốn làm về mực hay về ốc?”
“Mực”, tôi bảo. “Dùng thêm một chút dầu ô liu và chanh nữa thì tuyệt ngon.
Rán sơ.”
Carmel nhăn mặt. “Nghe kinh chết được.”
“Không đâu. Mình ăn kiểu ấy với cha suốt hồi còn ở Hy Lạp.”
“Cậu từng đến Hy Lạp rồi à?”
“Ừ”, tôi nói một cách lơ đãng trong lúc lật giở tới trang nói về các loài không xương sống. Nhà mình từng sống ở đó vài tháng hồi mình bốn tuổi. Mình không nhớ lắm.”
“Cha cậu đi đây đi đó nhiều lắm à? Vì công việc hay gì?”
“Ừ, ít nhất là từng thế.”
“Giờ thì không à?”
“Cha mình mất rồi”, tôi nói. Tôi ghét phải kể với mọi người chuyện này. Tôi không bao giờ biết chính xác giọng mình khi nói thế sẽ ra sao, và tôi ghét cái nhìn khựng lại trên mặt họ khi không biết phải nói gì với tôi. Tôi không nhìn Carmel. Tôi chỉ tiếp tục đọc về các giống khác. Cô ấy nói rất tiếc và hỏi chuyện gì đã xảy ra. Tôi kể rằng cha bị sát hại, và cô ấy há hốc miệng.
Đó là những phản ứng đúng kiểu. Tôi nên thấy cảm động vì nỗ lực thông cảm của cô ấy. Đâu phải lỗi của cô khi tôi không thấy vậy. Chỉ là vì tôi đã trông thấy những khuôn mặt kiểu thế và tiếng thở gấp kiểu thế quá nhiều rồi. Không còn điều gì trong vụ sát hại cha tôi mà không làm tôi tức giận được nữa.
Đột nhiên tôi nhận ra Anna sẽ là nhiệm vụ huấn luyện cuối cùng của tôi. Cô ta khỏe kinh hoàng. Cô ta là thứ khó nhằn nhất mà tôi từng đụng phải. Nếu đánh bại được cô ta, tôi sẽ sẵn sàng. Tôi sẽ sẵn sàng đi trả thù cho cha.
Ý tưởng ấy làm tôi bị khựng lại. Cái ý nghĩ sẽ quay về Baton Rouge, về ngôi nhà nọ, đã luôn có vẻ phi thực tế. Chỉ là một ý nghĩ, kế hoạch dài hơi. Tôi cho là dù có cả quá trình nghiên cứu đạo Voodoo, một phần trong tôi đã chần chừ. Sau cùng thì mọi việc cũng không đặc biệt hiệu quả lắm. Tôi vẫn không biết kẻ nào đã giết cha mình. Tôi không biết mình có khả năng triệu hắn tới không và lần này tôi phải làm một mình. Không có chuyện đưa mẹ theo. Sau ngần ấy năm giấu giếm sách vở và bí mật thoát ra khỏi những website khi mẹ bước vào phòng như thế. Mẹ sẽ cấm túc tôi suốt đời nếu biết là tôi nghĩ về chuyện đó.
Một cái vỗ lên vai mang tôi ra khỏi cơn mê mụ. Thomas đặt tờ báo xuống trước mặt tôi - một thứ mỏng tang, vàng úa mà tôi thấy ngạc nhiên vì họ chịu cho nó ra khỏi tấm kính.
“Đây là những gì tôi tìm được”, nó nói, và cô ta đây, ngay trên trang nhất, bên dưới dòng tít ghi, “Tìm thấy thi thể cô gái bị sát hại”.
Carmel đứng dậy để nhìn rõ hơn. “Đó có phải là...?”
“Là cô ta”, Thomas vuột miệng phấn khích. “Không có nhiều bài báo khác đâu. Cảnh sát bàng hoàng. Họ gần như chẳng thẩm vấn ai cả.” Nó lôi ra một tờ báo khác và lật giở. “Bài cuối cùng là cáo phó của cô ta: Anna Korlov, con gái yêu dấu của Malvina, được an táng tại Nghĩa trang Kivikoski ngày thứ Năm.”
“Mình tuởng cậu đang nghiên cứu bài gì chứ, Thomas”, Carmel bình luận và Thomas bắt đầu lắp bắp giải thích. Tôi chẳng quan tâm xem họ nói gì với nhau.
Tôi nhìn chằm chằm vào ảnh cô ta, bức ảnh một cô gái còn sống, với nước da trắng và mái tóc đen dài. Cô ta không hẳn là cười, nhưng đôi mắt sáng và biểu hiện tò mò, háo hức.
“Thật đáng tiếc”, Carmel thở dài. “Cô ta xinh quá.” Cô vươn tay xuống chạm vào má Anna và tôi gạt những ngón tay cô ấy ra. Có chuyện gì đấy đang xảy ra với tôi và tôi không biết là gì. Cô gái mà tôi đang nhìn vào là một con quái vật, một kẻ giết người. Vì lý do gì đó cô ta đã tha mạng cho tôi. Tôi cẩn thận dò theo mái tóc đang được buộc bằng ruy-băng. Cảm giác ấm áp lan tỏa trong ngực tôi nhưng đầu tôi thì lạnh cóng.
Tôi nghĩ mình sắp ngất mất.
“Này, anh bạn”, Thomas nói và khẽ lắc vai tôi.
“Sao thế?”
“Ừ”, tôi chỉ lí nhí, vì không biết nói gì với nó hay với chính mình. Tôi quay đi để câu giờ và nhìn thấy thứ khiến cằm mình siết lại. Hai cảnh sát đang đứng ở quầy lễ tân thư viện.
Nói gì với Carmel và Thomas lúc này cũng là ngu ngốc. Họ sẽ nhìn qua vai theo bản năng và như thế sẽ trông đáng nghi vô cùng. Vì vậy tôi chỉ đợi, bí mật xé bài cáo phó ra khỏi tờ báo màu vàng. Tôi lờ đi câu rít đầy giận dữ của Carmel, “Cậu không thể làm thế.” và nhét tờ báo vào túi quần mình.
Rồi tôi âm thầm lấy sách và hai cái cặp đè lên tờ báo, xong xuôi chỉ tay xuống một bức ảnh mực nang.
“Có biết con này xếp vào mục nào không?”, tôi hỏi. Cả hai đều nhìn tôi như kiểu tôi bị đơ. Thế cũng không sao vì người thủ thư đã quay lại và chỉ vào chúng tôi. Hai cảnh sát đang bắt đầu tiến lại bàn chúng tôi, đúng y như tôi dự liệu.
“Cậu nói cái gì đấy?”, Carmel hỏi.
“Mình đang nói về mực nang”, tôi nói nhẹ nhàng. “Và bảo bạn phải tỏ ra ngạc nhiên, nhưng đừng quá ngạc nhiên.”
Trước khi Carmel kịp hỏi thì tiếng bước chân ồn ã của hai người đàn ông mang nặng nào còng tay, đèn pin đến vũ khí đã vang lên đánh động mọi người quay lại. Tôi không thấy được mặt Carmel nhưng hy vọng cô ấy trông không quá tội lỗi như Thomas. Tôi dựa vào người nó và nó nuốt nước bọt, lấy lại bình tĩnh.
“Chào các cháu”, cảnh sát đầu tiên vừa nói vừa mỉm cười. Ông ta có vóc người khỏe khoắn, ưa nhìn và thấp hơn tôi với Carmel chừng mười phân. Ông ta xử lý việc này bằng cách nhìn thẳng vào mắt Thomas.
“Đang học bài đấy à?”
“V... vâng”, Thomas nói lắp. “Có chuyện gì ạ, chú cảnh sát”. Viên cảnh sát kia thì đi quanh bàn chúng tôi, nhìn vào những cuốn sách giáo khoa đang mở.
Ông ta cao hơn cộng sự của mình và gọn gàng hơn, với cái mũi diều hâu đầy lỗ chân lông và cái cằm nhỏ. Ông ta xấu hoắc, nhưng tôi hy vọng là không xấu tính.
“Tôi là cảnh sát Roebuck”, người thân thiện hơn nói. “Đây là cảnh sát Davis.
Có phiền nếu chúng tôi hỏi các cháu vài câu không?”
Cả nhóm cùng nhún vai.
“Các cháu đều biết một cậu tên là Mike Andover chứ?”
“Vâng”, Carmel nói.
“Vâng”, Thomas đồng tình.
“Biết sơ ạ”, tôi nói. “Cháu mới gặp cậu ta vài ngày trước. Việc này khó chịu thật đấy. Mồ hôi đang vã ra trên trán và tôi không thể làm gì được. Tôi chưa từng phải làm việc này. Tôi chưa bao giờ khiến ai bị giết cả.
“Các cháu có biết cậu ta biến mất rồi không?”, Roebuck cẩn trọng theo dõi từng người chúng tôi. Thomas chỉ gật đầu nên tôi cũng vậy.
“Các chú tìm được cậu ấy chưa ạ?”, Carmel hỏi. “Cậu ấy có sao không?”
“Chúng tôi vẫn chưa tìm được. Nhưng theo các nhân chứng thì hai cháu nằm trong số những người cuối cùng đi cùng cậu ta. Muốn cho chúng tôi biết có chuyện gì không?”
“Mike không muốn ở lại bữa tiệc”, Carmel nói dễ dàng.
“Bọn cháu định đi chơi chỗ khác, nhưng không xác định là đi đâu. Will Rosenberg lái xe. Chúng cháu ra chỗ đường nhỏ ngoài Dawson. Chẳng bao lâu sau thì Will tấp vào lề và Mike đi ra.”
“Cậu ta cứ thế đi ra à?”
“Cậu ta bực vì cháu chơi với Carmel”, tôi chen vào.
Will và Chase đã cố giàn hòa và làm cậu ta bình tĩnh lại, nhưng cậu ta không chịu. Cậu ta bảo sẽ đi bộ về nhà. Bảo là muốn ở một mình.”
“Các cháu có biết là Mike Andover sống cách nơi các cháu đang tả tới mười sáu kilomet không thế”, cảnh sát Roebuck nói.
“Không, cháu không biết”, tôi trả lời.
“Bọn cháu đã cố ngăn cậu ấy”, Carmel phát biểu, “nhưng Mike không chịu nghe. Thế là bọn cháu bỏ đi.
Cháu tưởng sau đấy cậu ấy sẽ gọi bọn cháu quay lại để đón. Nhưng cậu ấy không bao giờ gọi”. Lời nói dối không trơn tru lắm, nhưng ít nhất nó cũng giải thích được biểu cảm tội lỗi trên mặt tất cả chúng tôi.
“Cậu ấy thực sự bị mất tích rồi ạ?”, Carmel hỏi bằng giọng nheo nhéo. “Cháu tưởng... cháu đã hy vọng đấy chỉ là tin đồn thất thiệt.”
Cô ấy đã thuyết phục thay cả bọn. Rõ ràng hai cảnh sát mềm mỏng hơn trước nỗi lo của cô ấy. Rochuck bảo chúng tôi rằng Will và Chase đã đưa họ tới nơi chúng tôi thả Mike, và rằng đội tìm kiếm đã được thiết lập. Chúng tôi hỏi liệu mình có giúp gì được chăng nhưng ông ta vẫy tay giống như nói tốt hơn chúng tôi nên để những người chuyên nghiệp lo.
Vài giờ nữa khuôn mặt Mike sẽ xuất hiện đầy trên các bản tin. Cả thành phố đáng lẽ phải lên đường vào rừng cùng với đèn pin và đồ đi mưa, lần theo từng bước chân cậu ta. Nhưng bằng cách nào đó tôi biết rằng họ sẽ không làm vậy.
Mike Andover sẽ chỉ nhận được chừng này sự quan tâm thôi. Một đội tìm kiếm lỏng lẻo và vài câu hỏi của cảnh sát.
Tôi không biết sao mình lại biết. Có điều gì đó trong mắt họ, giống như họ đang vừa đi vừa ngủ vậy. Giống như họ không thể đợi để làm xong việc này, hòng về nhà với bữa cơm ấm cúng và đặt chân lên ghế sô pha. Tôi tự hỏi họ có cảm nhận được ở đây có thứ vượt ra khỏi tầm xử lý của họ không, liệu có phải cái chết của Mike đã được phát trên một tần số thấp nào đó của những vụ việc quái đản và không giải thích được, khẽ thì thầm với họ rằng cứ để mặc mọi chuyện như thế đi.
Vài phút sau cảnh sát Roebuck và Davis chào tạm biệt và chúng tôi ngồi sụp xuống ghế của mình.
“Đúng là...”, Thomas mở lời nhưng không nói nốt.
Carmel nhận được một cuộc gọi đến trên di động và nghe máy. Trong lúc cô ấy quay đi nghe điện thoại tôi thấy cô ấy thì thầm những câu như là, “Mình không biết” và “Mình chắc là họ sẽ tìm được cậu ấy”. Sau khi Carmel cúp máy mắt cô ấy có vẻ căng thẳng.
“Mọi chuyện đều ổn chứ?”, tôi hỏi.
Cô ấy cầm điện thoại hờ hững. “Nat đấy”, cô nói. “Bạn ấy cố an ủi mình, mình đoán vậy. Nhưng mình không có tâm trạng để đi xem phim với các bạn gái tối nay, bạn biết không?”
“Bọn mình có thể làm được gì không?”, Thomas hỏi nhẹ nhàng và Carmel bắt đầu lật qua trang sách.
“Mình chỉ muốn làm bài tập Sinh học này cho xong đi, thật đấy”, cô ấy nói và tôi gật đùa. Giờ chúng tôi nên dành chút thời gian để làm người bình thường.
Chúng tôi nên ôn tập, học bài và chuẩn bị để đạt điểm cao trong bài kiểm tra ngày thứ Năm này. Bởi tôi có thể cảm nhận sức nặng ngàn cân của mảnh báo trong túi mình. Tôi có thể cảm nhận được bức ảnh chụp Anna từ sáu mươi năm trước ấy, và không thể ngăn mình muốn bảo vệ cô ta, muốn cứu cô ta thoát khỏi số phận đã an bài.
Tôi không nghĩ rằng từ đây về sau đời tôi sẽ còn nhiều lúc bình thường được nữa.
Chú thích:
(1) Chữ viết của các dân tộc Bắc Âu vào thế kỷ thứ II.
(2) Tôn giáo vùng Caribê, kết hợp các nghi thức Thiên chúa giáo và tín ngưỡng vật linh, có dùng bùa phép, thần chú.
(3) Nhân vật trong truyện thiếu nhi Charlie và nhà máy Chocolate.