Chương XIX
ĐÊM qua tôi không ngủ được. Ác mộng nối ác mộng và những bóng người đen tối liên tục phủ lên giường tôi. Mùi khói nồng, phảng phất. Tiếng meo meo của con mèo chết tiệt trước cửa phòng tôi. Cần phải làm gì đó mới được. Tôi không sợ bóng tối, lúc nào tôi cũng ngủ như chết và tôi đã từng biết đến quá nhiều nơi chốn âm u, nguy hiểm. Tôi đã thấy hầu hết những chuyện đáng sợ trên thế giới này, và nói thật thì những thứ tệ nhất lại khiến bạn phải sợ hãi trong ánh sáng ban ngày kia.
Những thứ mắt bạn trông thấy rõ mồn một và không thể quên được thì tồi tệ hơn nhiều các hình dáng tối thui lộn xộn chừa chỗ cho trí tưởng tượng. Trí tưởng tượng có trí nhớ rất tồi; nó sẽ trôi đi và nhạt mất. Thị giác nhớ lâu hơn nhiều.
Vậy thì tại sao tôi lại khiếp đảm với giấc mơ này đến thế? Bởi vì nó quá thật.
Và nó đã tồn tại quá lâu. Tôi mở mắt và không trông thấy gì, nhưng tôi biết, tôi biết, rằng nếu thò tay xuống dưới gầm giường, một cánh tay thối rữa nào đấy sẽ vùng lên và kéo tôi xuống địa ngục.
Tôi cố đổ lỗi cho Anna vì những cơn ác mộng này, rồi tôi lại cố không nghĩ về em chút nào. Để quên đi cách chúng tôi kết thúc câu chuyện lần cuối cùng.
Để quên đi việc em đã trao cho tôi nhiệm vụ thu hồi con dao tế, và sau đó, dùng nó để giết em. Không khí thoát ra khỏi hai lỗ mũi tôi thật mạnh ngay cả khi tôi nghĩ đến những lời đó. Bởi vì làm sao tôi có thể?
Nên tôi sẽ không làm. Tôi sẽ không nghĩ về chuyện đó, và tôi sẽ biến trì hoãn thành thú tiêu khiển chính thức mới của mình.
Tôi gật gà gật gù trong giờ Lịch sử Thế giới. Rất may thầy Banoff sẽ chẳng đời nào nhận ra, bởi vì tôi ngồi ở tuốt đằng sau còn ông thì ở tận trên bảng, thao thao bất tuyệt về các cuộc chiến Punic1. Tôi có thể nhập tâm vào bài giảng nếu tỉnh táo được đủ lâu để bắt nhịp. Nhưng tất cả những gì tôi nghe thấy lại là blah blah, ngủ gật, ngón tay xác chết trong tai tôi, giật mình tỉnh dậy. Và lặp lại. Khi chuông reo hết giờ tôi giật bắn người và chớp mắt một lần cuối rồi nhảy ra khỏi chỗ và chạy ra tủ đồ của Thomas.
Tôi dựa vào cánh tủ bên cạnh trong lúc nó nhét sách vào trong tủ của mình.
Nó đang tránh ánh mắt tôi. Có gì đấy đã làm phiền nó. Quần áo nó cũng bớt nhăn nhúm hơn bình thường và trông chúng sạch hơn. Mà lại còn đồng bộ. Nó đang cố tỏ ra sành điệu vì Carmel.
“Cậu bôi gel lên tóc đấy à?”, tôi trêu.
“Làm sao cậu còn vui vẻ thế được?”, nó hỏi. “Cậu chưa xem tin tức à?”
“Cậu đang nói về cái gì?”, tôi hỏi, quyết định giả vờ ngây thơ. Hay vô tâm.
Hay cả hai.
“Tin tức”, nó rít lên. Giọng trầm hẳn đi. “Người ở trong công viên ấy. Bị phanh thây ấy.” Nó liếc quanh nhưng không ai chú ý gì đến nó, như mọi khi.
“Cậu nghĩ là do Anna?”, tôi nói.
“Cậu thì không à?”, một giọng nói hỏi bên tai tôi.
Tôi xoay lại. Carmel đang đứng ngay bên cạnh. Cô ấy đi tới đứng bên Thomas và dựa vào cái cách họ đối mặt với tôi, tôi có thể thấy rằng họ đã bàn luận vụ này từ đời nào rồi. Tôi cảm thấy bị tấn công, và hơi bị tổn thương. Họ đã cho tôi ra rìa. Tôi cảm thấy mình là một đứa trẻ con hờn dỗi, mà như thế lại càng khiến tôi tức khí hơn.
Carmel nói nốt, “Cậu không thể phủ nhận rằng chuyện này quá sức trùng hợp”.
“Mình không phủ nhận. Nhưng nó đúng là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên. Cô ấy không làm thế.”
“Sao cậu biết?”, họ đồng thanh hỏi, đáng yêu thế cơ chứ.
“Này Carmel.”
Cuộc nói chuyện bị ngắt đột ngột khi Katie tiến lại gần chúng tôi cùng một đám con gái. Vài người trong số họ tôi không biết, nhưng có hai ba cô cùng lớp với tôi. Một trong số đó một cô gái tóc nâu nhỏ nhắn với mái tóc gợn sóng và tàn nhang, cười với tôi. Tất cả bọn họ đều lờ tịt Thomas.
“Chào Katie”, Carmel bình tỉnh đáp lời. “Có chuyện gì à?”
“Bạn vẫn tham gia tổ chức Vũ hội Mùa Đông2 đấy chứ? Hay Sarah, Nat, Casey và mình phải tự làm?”
“Bạn nói ‘tham gia’ là sao? Mình là trưởng nhóm cơ mà.” Carmel nhìn khắp lượt các cô gái đang lúng túng.
“À!”, Katie nói lúc liếc sang tôi. “Đó là trước khi bạn bận rộn.”
Tôi nghĩ cả Thomas và tôi đều muốn chuồn ngay khỏi đây. Chuyện này còn phức tạp hơn nói về Anna nhiều. Nhưng Carmel là một đối thủ đáng gờm.
“Á à, Katie, bạn đang định đảo chính đấy à?”
Katie chớp mắt. “Sao cơ? Bạn đang nói gì thế? Mình chỉ hỏi thôi mà.”
“Vậy thì cứ việc thư thả. Ba tháng nữa mới tổ chức vũ hội cơ mà. Thứ Bảy này mình sẽ gặp nhau.” Carmel hơi xoay người đi trong một cử chỉ giải tán rất hiệu quả.
Katie cười bẽn lẽn. Cô lắp bắp thêm một chút nữa và thực sự đã khen chiếc áo len Carmel đang mặc rất dễ thương trước khi lục tục bỏ đi.
“Và đảm bảo là mỗi người phải có hai ý tưởng gây quỹ đấy nhé!”, Carmel gọi với theo. Cô ấy nhìn lại chúng tôi và nhún vai xin lỗi.
“Oa”, Thomas thở hắt ra. “Con gái ghê gớm thật.”
Mắt Carmel mở lớn, rồi cô ấy cười toe toét. “Tất nhiên là thế rồi. Nhưng đừng để chuyện đó làm cậu phân tâm.” Cô ấy nhìn tôi “Kể cho bọn mình chuyện gì đang xảy ra đi. Làm sao cậu biết vụ người chạy bộ ấy không phải do Anna làm?”
Tôi ước gì Katie ở lại lâu hơn một chút.
“Mình biết”, tôi trả lời. “Mình đã gặp cô ấy.”
Những cái liếc lén lút được trao đổi. Họ nghĩ tôi cả tin quá. Có thể là thế, vì đây đúng là chuyện trùng hợp quá mức. Tuy nhiên tôi đã đối mặt với ma quỷ cả đời rồi. Ý kiến của tôi cũng đáng tiền chứ.
“Làm sao cậu chắc được?”, Thomas hỏi. “Mà thậm chí chúng ta có nên mạo hiểm hay không? Tôi biết chuyện đã xảy ra với cô ấy thật kinh khủng, nhưng chính cô ấy cũng làm ra những chuyện ghê gớm, và có lẽ chúng ta nên gửi cô ấy... tới cái nơi mà cậu gửi họ đi đấy. Có lẽ như thế sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người.”
Tôi hơi bị ấn tượng khi Thomas nói năng như thế, cho dù tôi có không đồng tình. Nhưng kiểu nói này lại khiến nó không thoải mái. Nó bắt đầu giậm từ chân này sang chân kia và đẩy cái kính gọng đen lên cao hơn trên sống mũi.
“Không”, tôi trả lời cộc lốc.
“Cas”, Carmel bắt đầu. “Cậu đâu biết là cô ấy sẽ không làm hại ai nữa. Cô ấy đã giết người từ năm mươi năm nay rồi. Không phải lỗi của cô ấy. Nhưng có thể chuyện dừng lại không dễ dàng gì.”
Họ nói cứ như Anna là một con sói đã quen vị máu gà vậy.
“Không”, tôi nhắc lại.
“Cas.”
“Không. Cứ cho mình nghe lý do và sự nghi ngại của các cậu. Nhưng Anna không đáng phải chết. Và nếu mình đâm dao vào bụng cô ấy...”, tôi gần như nôn mửa khi mới nói đến đó. “Mình không biết mình sẽ đưa cô ấy đi đâu.”
“Nếu bọn mình kiếm được chứng cớ...”
Giờ đến lượt tôi thủ thế. “Tránh xa cô ấy ra. Đây là việc riêng của mình.”
“Việc của cậu à?”, Carmel quát. “Lúc cần chúng mình giúp đỡ thì đó không phải là việc riêng của cậu. Đâu phải chỉ mình cậu gặp nguy hiểm đêm hôm đó, trong căn nhà đó. Cậu không có quyền gạt chúng mình ra ngoài bây giờ.”
“Mình biết”, tôi nói và thở dài. Tôi không biết phải giải thích làm sao. Tôi ước gì chúng tôi gần gũi hơn nữa, ước gì họ đã là bạn tôi từ lâu rồi, để họ có thể biết điều tôi đang cố nói mà không cần tôi phải nói ra. Hay tôi ước Thomas giỏi đọc tâm trí hơn. Có thể nó giỏi thật, bởi vì nó đã đặt tay lên cánh tay Carmel và thì thầm rằng hai đứa nên cho tôi thêm chút thời gian.
Cô ấy nhìn nó như thể nó đã phát điên, nhưng vẫn lùi lại một bước.
“Lúc nào cậu cũng thế này với đám ma của cậu à?”, nó hỏi. Tôi nhìn vào cánh tủ đằng sau lưng nó. “Cậu đang nói gì?”
Đôi mắt hiểu biết của nó đang tìm kiếm các bí mật của tôi.
“Tôi không biết”, một giây sau nó nói. “Lúc nào cậu cũng... bảo vệ họ thế này à?”
Cuối cùng tôi nhìn thẳng vào mắt Thomas. Lời thú nhận nằm ngay trong cổ họng tôi ngay cả giữa đám học sinh đang ào ra hành lang trên đường đến tiết học thứ ba. Tôi có thể nghe lỏm được những mẩu chuyện trò khi chúng đi qua.
Nghe thật bình thường, và tôi chợt nhận ra mình chưa bao giờ có được một cuộc nói chuyện kiểu thế. Phàn nàn về các giáo viên và tự hỏi làm gì vào tối thứ Sáu đây? Ai mà có thời gian chứ? Tôi muốn được nói chuyện như thế với Thomas và Carmel. Tôi cũng muốn lên kế hoạch tiệc tùng, hay quyết định nên chọn thuê đĩa DVD nào và tới nhà ai để xem.
“Có lẽ cậu kể cho bọn mình sau vậy”, Thomas nói và giọng nó đã thể hiện tất cả. Nó biết. Tôi rất mừng.
“Chúng ta nên tập trung vào chuyện lấy lại con dao cho cậu” nó gợi ý. Tôi yếu ớt gật đầu. Cha tôi thường nói sao nhỉ? Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Ông thường cười khùng khục về chuyện sống một cuộc đời đầy rẫy cạm bẫy.
“Có ai gặp Will chưa?”, tôi hỏi.
“Mình đã cố gọi cho cậu ta vài lần, nhưng cậu ta lờ đi”, Carmel nói.
“Mình sẽ phải đối đầu với cậu ta”, tôi buồn bã nói. “Mình quý Will, và mình biết cậu ta hẳn rất tức tối.
Nhưng cậu ta không thể giữ con dao của cha mình.
Không đời nào.”
Chuông reo báo hiệu bắt đầu tiết học thứ ba. Sảnh trống không từ lúc nào và đột nhiên giọng chúng tôi trở nên quá to. Chúng tôi không thể đứng túm tụm ở đây; không sớm thì muộn một giám thị hăng hái nào đấy cũng sẽ đuổi chúng tôi về lớp. Nhưng tôi và Thomas chỉ còn mỗi nước vào lớp học, mà tôi thì chẳng muốn đi chút nào.
“Muốn chuồn không?”, nó hỏi, cứ như đọc tâm trí tôi - hay có lẽ chỉ là ý tưởng của một thằng nhóc mới lớn bất kỳ nào đó.
“Chắc chắn rồi. Cậu thì sao Carmel?”
Cô ấy nhún vai và kéo chiếc áo len màu kem quanh hai vai. “Mình có giờ Đại số, nhưng ai mà cần đến nó? Hơn nữa mình còn chưa bỏ tiết nào.”
“Hay. Kiếm cái gì ăn đi.”
“Sushi Bowl nhé?”, Thomas gợi ý.
“Pizza”, Carmel và tôi nói đồng thanh, Thomas thì cười toe toét. Trong lúc đi bộ trên hành lang tôi thấy nhẹ cả người. Chưa đầy một phút nữa chúng tôi sẽ ra khỏi trường, bước vào bầu không khí lạnh toát tháng Mười một và bất kỳ ai cố ngăn chúng tôi sẽ nhận được câu “biến đi”.
Rồi ai đó gõ vào vai tôi.
“Này.”
Khi quay lại tôi chỉ có thể thấy một nắm đấm trước mặt - ấy là nói lúc tôi đã cảm nhận được cú nhói hoa mày chóng mặt mà bạn vẫn gặp mỗi khi ai đó đấm thẳng vào mũi bạn. Tôi gập đôi người lại và nhắm mắt.
Có chất lỏng ấm và dính trên môi tôi. Mũi tôi đã bị chảy máu.
“Will, cậu làm cái gì đấy?”, tôi nghe tiếng Carmel quát lên rồi Thomas cũng tham gia và Chase bắt đầu gầm ghè. Có cả tiếng ẩu đả.
“Đừng có bao biện cho nó”, Will nói. “Cậu không xem tin tức à? Nó đã làm người ta bị giết.”
Tôi mở mắt. Will đang lườm tôi qua vai Thomas. Chase thì sẵn sàng nhảy bổ vào tôi, cả cái khối tóc vàng dựng ngược và áo thun cơ bắp kia, chỉ chực đẩy bật Thomas ngay khi đại ca mới của cậu ta ra hiệu.
“Không phải cô ấy.” Tôi nuốt máu xuống cổ họng. Nó mằn mặn và có vị như đồng xu cũ. Tôi dùng mu bàn tay để quệt máu trên mũi, để lại một đường đỏ tươi.
“Không phải cô ta”, cậu ta giễu cợt. “Mày chưa nghe lời các nhân chứng à?
Họ nói đã nghe tiếng gào rú và rên rỉ, nhưng là từ cổ họng một người. Họ nói đã nghe thấy tiếng không giống người chút nào. Họ nói thi thể bị xé thành sáu mảnh. Nghe có giống người quen của mày không hả?”
“Nghe giống rất nhiều người.” Tôi gầm ghè. “Nghe như bất kỳ một thằng bệnh tâm thần nào.” Chỉ có điều không phải thế. Và chuyện giọng nói nghe không giống người khiến tóc gáy tôi dựng đứng.
“Mày mờ mắt rồi”, cậu ta nói. “Đây là lỗi của mày. Kể từ lúc mày đến đây.
Mike, giờ là người lang thang trong công viên.” Cậu ta ngừng nói và thò tay vào túi lôi con dao của tôi ra.
Cậu ta chỉ nó vào tôi, một lời buộc tội. “Làm việc của mày đi!”
Cậu ta là đồ ngốc chắc? Hẳn là cậu ta đã rối trí rồi nên mới lôi nó ra giữa trường như thế. Nó sẽ bị tịch thu và cậu ta sẽ phải đăng ký tham vấn tâm lý hàng tuần hoặc bị đuổi học, rồi tôi sẽ phải đột nhập vào nơi chỉ có Chúa mới biết để lấy lại nó.
“Đưa nó cho tôi”, tôi nói. Giọng tôi là lạ; mũi tôi đã ngừng chảy máu nhưng tôi vẫn còn cục máu đông.
Nếu tôi thở mạnh để nói lại bình thường thì sẽ phải nuốt nó xuống và mọi chuyện quay lại từ đầu.
“Tại sao?”, Will hỏi. “Mày không dùng nó. Nên có khi tao sẽ dùng.” Cậu ta giơ con dao ra trước mặt Thomas. “Mày nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu tao cắt phải người sống? Nó có gửi họ tới cùng một nơi với những kẻ đã chết không?”
“Tránh xa cậu ấy ra”, Carmel rít lên. Cô ấy đưa người vào giữa Thomas và con dao.
“Carmel!”, Thomas kéo cô ấy lùi lại.
“Giờ lại trung thành với nó hả?”, Will hỏi và cong môi lên như chưa từng gặp chuyện gì ghê tởm hơn.
“Trong khi cô chưa bao giờ trung thành với Mike.”
Tôi không thích chuyện diễn biến thế này. Thực ra mà nói, tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu dùng con dao trên người sống. Theo chỗ tôi được biết thì chưa bao giờ có việc ấy. Tôi không muốn nghĩ về vết thương nó có thể gây ra, hay nó có thể kéo da Thomas lên tận mặt và để lại một hố đen trên đường đi.
Tôi phải làm gì đó, và đôi khi như thế tức là phải trở thành một tên khốn.
“Mike là đồ khốn”, tôi nói to. Will bị sốc đến mức bất động, đúng như tôi dự liệu. “Nó không đáng nhận lòng trung thành. Không phải của Carmel hay các cậu.”
Giờ thì mọi sự chú ý của Will đã đổ về phía tôi. Con dao lóa lên, sáng quắc dưới ánh đèn neon. Tôi không muốn da mình cũng bị kéo căng lên quá đầu, nhưng tôi tò mò. Tôi tự hỏi liệu mối liên kết của tôi với con dao, quyền năng bẩm sinh của tôi để sử dụng nó có bảo vệ được mình không. Một đống khả năng quay mòng mòng trong đầu tôi. Tôi có nên lao vào cậu ta? Có nên giằng nó ra khỏi tay cậu ta?
Nhưng thay vì tỏ ra tức giận Will lại chỉ cười.
“Tao sẽ giết cô ta, mày biết không”, cậu ta nói. “Anna bé nhỏ ngọt ngào của mày.”
Anna bé nhỏ ngọt ngào của tôi. Chẳng lẽ tôi lộ liễu đến thế. Chẳng lẽ nó rõ ràng đến thế với tất cả mọi người, suốt từ đầu ngoại trừ chính tôi?
“Cô ấy không còn yếu ớt nữa, đồ ngốc”, tôi thổ ra. “Mày không thể lại gần cô ấy trong vòng hai mét, dù có hay không có con dao thần kỳ.”
“Để xem”, cậu ta đáp lời và tim tôi chùng xuống khi chứng kiến con dao của mình, của cha mình, lại biến mất bên trong chiếc áo khoác của cậu ta. Hơn tất cả, tôi muốn lao tới chỗ Will, nhưng không thể mạo hiểm để ai bị thương được.
Để nhấn mạnh quan điểm, Thomas và Carmel đi tới đứng hai bên vai tôi, sẵn sàng kéo tôi lùi lại.
“Không phải ở đây”, Thomas nói. “Chúng ta sẽ lấy lại nó, đừng lo. Chúng ta sẽ tìm được cách.”
“Tốt hơn là nhanh lên”, tôi nói, bởi tôi không biết mình có vừa nói sự thật hay không. Anna đã có ý tưởng là mình đáng chết. Có khi em sẽ để Will bước vào cửa nhà mình và tha cho tôi không phải tự ra tay.
C húng tôi quyết định bỏ qua pizza. Thực ra, chúng tôi quyết định bỏ học nốt các tiết còn lại và đến thẳng nhà tôi. Tôi đã biến Thomas và Carmel thành một cặp đôi chểnh mảng học hành đúng điệu. Trên đường về, tôi đi cùng Thomas trong chiếc Tempo hai hay ba tông màu của nó còn Carmel thì lái theo phía sau.
“Vậy là”, nó nói rồi dừng lại và cắn môi. Tôi chờ nó kết thúc, nhưng nó lại bắt đầu lúng ta lúng túng với ống tay của chiếc áo len có mũ màu xám của mình, nhân tiện cái áo quá dài và đã bắt đâu sờn gấu.
“Cậu biết chuyện về Anna”, tôi nói ra luôn cho dễ. “Cậu biết tôi cảm thấy sao về cô ấy.”
Thomas gật đầu.
Tôi thọc tay gạt tóc nhưng nó vẫn xõa ngay vào mắt tôi. “Đó là vì tôi không thể không nghĩ về cô ấy à?”, tôi hỏi. “Hay là cậu thực sự nghe thấy những ý nghĩ trong đầu tôi?”
Thomas trề môi. “Cả hai đều không phải. Tôi đã cố tránh xa đầu óc cậu kể từ khi cậu bảo thế. Chỉ vì chúng ta là...” Nó dừng nói và trông lại giống cừu, môi thì mấp máy còn mắt thì chớp chớp.
“Vì chúng ta là bạn”, tôi nói và thúc cánh tay nó. “Cậu nói ra có sao đâu.
Chúng ta là bạn. Có lẽ cậu còn là bạn thân nhất của tôi. Cậu và Carmel.”
“Ừ”, Thomas nói. Cả hai chúng tôi đều có biểu cảm giống nhau: hơi xấu hổ, nhưng vui. Nó hắng giọng.
“Dù sao thì. Tôi biết chuyện cậu và Anna vì nguồn năng lượng đấy. Vì khí của các cậu.”
“Khí à?”
“Nó không phải là thứ gì huyền bí lắm. Có lẽ hầu hết mọi người đều cảm nhận được. Nhưng tôi trông thấy nó rõ ràng hơn. Đầu tiên tôi tưởng đó chỉ là cách cư xử của cậu với mọi hồn ma. Cậu có một thứ ánh sáng phấn khích mỗi khi nhắc đến cô ấy, đặc biệt là mỗi lần cậu đến gần ngôi nhà. Nhưng giờ thì lúc nào nó cũng ở quanh cậu.”
Tôi âm thầm mỉm cười. Em ở bên tôi mọi lúc mọi nơi. Giờ tôi thấy mình thật ngu ngốc vì đã không phát hiện ra sớm hơn. Nhưng này, ít nhất chúng tôi cũng có một câu chuyện kỳ lạ để kể, nào là tình yêu, cái chết, máu và sự thiếu vắng các ông bố. Trời đất quỷ thần ạ, tôi là giấc mơ ướt át của nhà tâm thần học.
Thomas rẽ vào lối lái xe lên nhà tôi. Carmel bắt kịp chúng tôi ở cửa chính vì chỉ đi sau có vài giây.
“Cứ để đồ của các cậu thoải mái”, tôi nói lúc chúng tôi đi vào. Chúng tôi cởi áo khoác và ném cặp sách lên sô pha. Tiếng lộp độp của những cái chân nhỏ màu đen báo hiệu sự xuất hiện của Tybalt, và nó trèo lên đùi Carmel để được ôm ấp vuốt ve. Thomas lừ mắt với nó nhưng Carmel thì bế nó lên ngay, đúng là đồ bốn chân lả lơi.
Tôi dẫn cả hai vào bếp và họ ngồi quanh chiếc bàn gỗ sồi tròn của chúng tôi.
Tôi chúi đầu vào tủ lạnh.
“Có pizza đông lạnh, hoặc rất nhiều thịt và phô mai từ bữa trưa trong này.
Mình có thể làm một ít hoagie3 nóng trong lò.”
“Hoagie nóng”, cả Thomas và Carmel đều đồng ý. Một thoáng cười ngượng nghịu và đỏ mặt. Tôi khẽ lẩm bẩm về chuyện khí tỏa sáng, và Thomas tóm lấy cái khăn lau bát trên quầy để ném vào tôi. Khoảng hai mươi phút sau thì cả ba đã ngồm ngoàm bên những chiếc bánh hoagie khá tuyệt vời, khói bốc lên từ bánh của tôi có vẻ như đã làm loãng bớt cục máu đông trong mũi.
“Nó có để lại vết bầm không?”, tôi hỏi.
Thomas ghé mắt nhìn tôi. “Không”, nó nói. “Will đánh đấm chả ra sao, tôi đoán thế.”
“Tốt”, tôi trả lời. “Mẹ tôi chán chuyện làm bác sĩ cho tôi lắm rồi. Tôi nghĩ trong chuyến này mẹ đã phải làm nhiều thần chú chữa lành hơn cả mười hai chuyến đi trước cộng lại.”
“Lần này rất khác với cậu đúng không?”, Carmel hỏi giữa những lần cắn gà và Monterey Jack4. “Anna thực sự làm cậu ngạc nhiên.”
Tôi gật đầu. “Cả Anna, bạn và Thomas nữa. Mình chưa bao giờ gặp phải đối thủ nào như cô ấy. Và mình chưa bao giờ phải yêu cầu người thường cùng đi săn ma với mình.”
“Tôi nghĩ đấy là một dấu hiệu”, Thomas nói trong lúc vẫn nhai nhõm nhoàm.
“Tôi nghĩ như thế tức là cậu nên ở lại. Cho mấy con ma nghỉ ngơi một lát.”
Tôi hít một hơi dài. Đây có lẽ là lần duy nhất trong đời tôi thực sự bị cám dỗ bởi điều đó. Tôi nhớ lúc mình còn nhỏ hơn, trước khi cha bị giết, và chính tôi cũng đã nghĩ sẽ rất tuyệt nếu cha chịu nghỉ việc một thời gian. Sẽ rất tuyệt nếu được ở lại đâu đó kết bạn và cùng cha chơi bóng chày mỗi chiều thứ Bảy thay vì cảnh ông ngồi bên điện thoại với một nhà huyền bí học nào đấy hay chúi mũi vào một cuốn sách mốc meo. Nhưng đứa trẻ nào mà chẳng có chung cảm nhận như thế với bố mẹ mình và nghề nghiệp của họ, không phải chỉ những đứa có bố mẹ làm nghề trừ ma.
Giờ thì tôi lại có cảm giác ấy lần nữa. Sẽ thật tuyệt khi ở lại ngôi nhà này.
Nó ấm cúng và có cái bếp rất đẹp. Và được đi chơi cùng Carmel với Thomas cũng rất hay, cả Anna nữa.
Chúng tôi có thể cùng nhau ra trường, hay đi học đại học ở gần nhau. Cuộc sống sẽ gần như bình thường.
Chỉ có tôi, hai người bạn thân và bạn gái ma của tôi.
Ý tưởng ấy lố bịch đến mức tôi cũng phải khịt mũi.
“Sao?”, Thomas hỏi.
“Không còn ai làm việc tôi đang làm đâu”, tôi trả lời. Ngay cả khi Anna không giết ai nữa, những con ma khác vẫn làm. Tôi cần phải lấy lại con dao. Và dần dần tôi sẽ quay lại làm việc.”
Thomas buồn hẳn. Carmel hắng giọng.
“Vậy làm sao chúng ta lấy lại được con dao?”, cô ấy hỏi.
“Rõ ràng thằng ấy không có tâm trạng tự nguyện trả lại nó”, Thomas dằn dỗi nói.
“Các Cậu biết không, bố mẹ mình là bạn với bố mẹ cậu ta”, Carmel gợi ý.
“Mình có thể dựa vào bố mẹ, cậu biết đấy, bảo họ là Will đã ăn trộm một báu vật gia truyền. Như thế cũng chẳng phải là nói dõi.”
“Mình không muốn phải trả lời các câu hỏi về chuyện tại sao báu vật gia truyền nhà mình lại là một con dao trông có vẻ nguy hiểm”, tôi nói. “Hơn nữa, mình không nghĩ lần này các bậc phụ huynh đủ sức gây áp lực đâu. Chúng ta sẽ phải đánh cắp lại nó.”
“Đột nhập và ăn cắp à?”, Thomas hỏi. “Cậu điên rồi.”
“Không điên lắm”, Carmel nhún vai. Mình có chìa khóa nhà đó. Bố mẹ mình là bạn với bố mẹ cậu ta, nhớ không? Họ có chìa khóa nhà của nhau phòng khi ai đó bị nhốt bên ngoài hoặc bị mất chìa, hoặc cần nhờ người trông nhà lúc ra khỏi thành phố.”
“Lạ quá nhỉ”, tôi nói và cô ấy cười nhếch mép.
“Bố mẹ mình có chìa khóa của một nửa số hàng xóm. Tất cả mọi người đều tha thiết mong đổi chìa với nhà mình. Nhưng nhà Will là gia đình duy nhất có chìa khóa sơ cua của nhà mình.” Cô ấy lại nhún vai. “Đôi khi được cả thành phố bợ đỡ cũng vui. Nhưng đa phần thì khó chịu lắm.”
Tất nhiên Thomas và tôi chẳng hiểu cô ấy có ý gì. Chúng tôi lớn lên cùng với những ông bố bà mẹ hay cười, kỳ quái và là phù thủy mà. Người ta sẽ không trao đổi chìa khóa nhà với chúng tôi trong một triệu năm nữa.
“Vậy khi nào chúng ta làm?”, Thomas hỏi.
“Ngay lập tức”, tôi nói. “Lúc nào không có ai ở nhà. Trong ngày. Sớm thôi, ngay sau khi cậu ta đi học.”
“Nhưng nó có thể mang theo con dao lắm chứ”, Thomas nói.
Carmel lôi điện thoại của mình ra. “Mình sẽ tung tin nhắn là cậu ta mang dao đến trường và ai đó nên báo cáo thầy cô. Đến sáng cậu ta sẽ nghe thấy và chọn cách an toàn.”
“Trừ khi nó quyết định ở nhà luôn”, Thomas nói.
Tôi lừ mắt với nó. “Cậu đã bao giờ nghe câu Thomas đa nghi chưa?”
“Không liên quan”, nó vênh mặt trả lời. “Câu đó áp dụng với những người lúc nào cũng nghi ngờ. Tôi không thể. Tôi chỉ bi quan thôi.”
“Thomas”, Carmel khẽ ngân nga. “Mình không hề biết cậu lại suy nghĩ nhiều thế đấy.” Ngón tay cô đang lướt như máy trên phím điện thoại. Cô ấy đã gửi đi được ba tin và nhận lại hai.
“Đủ rồi, hai cậu”, tôi nói. “Sáng mai chúng ta sẽ đi. Mình đoán là mình sẽ cúp tiết một, có thể cả tiết hai.
“Chẳng sao”, Carmel nói. “Hai tiết đó hôm nay bọn mình học rồi.”
Sáng hôm sau tôi và Thomas túm tụm trong chiếc Tempo ba tông màu của nó, đậu xe ở khúc quanh gần nhà Will. Chúng tôi kéo mũ áo xuống thật thấp và mắt thì láo liên. Trông chúng tôi chính xác như những kẻ chuẩn bị thực hiện một tội ác ghê gớm trong vài phút tới.
Will sống ở một khu dân cư giàu hơn và được bảo tồn tốt hơn của thành phố.
Tất nhiên rồi. Bố mẹ cậu ta là bạn với bố mẹ Carmel cơ mà. Đó là lý do chúng tôi có một chùm chìa khóa sơ cua nhà cậu ta, đang để trong túi áo trước của tôi.
Nhưng không may điều đó có nghĩa là sẽ có rất nhiều bà vợ lăng xăng hay người giúp việc nhìn lén qua cửa sổ để xem chúng tôi định làm gì.
“Đã đến giờ chưa?”, Thomas hỏi. “Mấy giờ rồi?”
“Chưa đến lúc”, tôi nói, cố ra vẻ bình tĩnh như đã làm việc này cả triệu lần rồi. Thực ra không phải thể.
“Carmel còn chưa gọi mà.”
Nó bình tĩnh được một giây và hít vào thật sâu. Rồi nó lập tức căng thẳng và thụp người xuống tay lái.
“Tôi nghĩ mình vừa trông thấy một người làm vườn!”, nó rít lên.
Tôi kéo nó ngồi lại bằng cách nắm mũ. “Không đâu. Giờ này vườn nào cũng úa hết cả rồi. Có lẽ chỉ là ai đó đang quét lá. Dù sao thì chúng ta cũng đâu có ngồi đây trong những chiếc mặt nạ trượt tuyết và đeo găng tay. Chúng ta chẳng làm gì sai cả.”
“Chưa thôi.”
“Đừng tỏ ra đáng nghi.”
Chỉ có hai chúng tôi hành động. Giữa khoảng thời gian lên kế hoạch và thực thi kế hoạch chúng tôi đã quyết định Carmel sẽ làm tay trong. Cô ấy sẽ đến truờng và đảm bảo là Will có đi học. Theo lời cô ấy thì bố mẹ cậu ta đi làm trước khi con trai đi học rất lâu. Tôi đoán bố cậu ta làm việc cho một công ty đâu tư tín thác hay đại loại thế, còn mẹ làm kế toán, hoặc đại lý bảo hiểm. Dù là nghề gì thì đều có vẻ nhàm chán chết đi được.
Carmel đã phản đối và bảo chúng tôi là kẻ phân biệt giới tính đáng lẽ cô ấy phải có mặt ở đây phòng khi có chuyện gì sai, bởi vì ít nhất cô ấy có lý do hợp lý để ghé qua nhà Will. Thomas không chịu nghe. Nó đang cố bảo vệ Carmel, nhưng nhìn nó cắn môi dưới và nhảy dựng lên mỗi lần có một cử động nhỏ nhặt nhất thế này, tôi nghĩ thà mình đi cùng Carmel còn tốt hơn. Khi điện thoại của tôi rung, Thomas giật nảy như một chú mèo thảng thốt.
“Carmel đấy”, tôi bảo lúc bắt máy.
“Cậu ta không đến trường”, cô ấy hoảng hốt thì thào.
“Sao cơ?”
“Cả hai đứa đều không đi học. Chase cũng không thấy đâu.”
“Sao cơ?”, tôi hởi lại, nhưng thực ra đã nghe hết những gì Carmel nói.
Thomas đang kéo ống tay áo tôi như một học sinh tiểu học háo hức. “Bọn nó không đi học”, tôi quát.
Vịnh Thunder này bị nguyền rồi. Chẳng có gì là đúng đắn trong cái thị trấn chết tiệt này cả. Và giờ tôi phải nghe Carmel lo sốt vó ở một bên tai trong khi Thomas lảm nhảm ở bên tai kia, và trong xe có quá nhiều người khiến tôi không nghĩ được sáng suốt nữa.
“Giờ chúng ta phải làm gì?”, hai đứa đồng thanh hỏi một lúc.
Anna. Thế còn Anna? Will có con dao và nếu cậu ta đánh hơi được trò lừa đảo bằng tin nhắn của Carmel, ai mà biết cậu ta sẽ làm gì. Cậu ta đủ thông minh để phản đòn; tôi biết là thế. Và ít nhất trong vài tuần gần đây tôi đã ngu đến mức rơi vào bẫy một lần. Giờ có thể cậu ta đang cười vào mũi chúng tôi, tưởng tượng ra cảnh chúng tôi lục soát phòng mình trong khi cậu ta thì đi lên lối lái xe nhà Anna với con dao trong tay và gã thộn tóc vàng sau lưng.
“Lái đi”, tôi gầm gừ và cúp máy với Carmel. Chúng tôi phải tới chỗ Anna thật nhanh. Theo tôi nghĩ thì có khi tôi đã quá trễ mất rồi.
“Đi đâu?”, Thomas hỏi nhưng nó vẫn khởi động xe sẵn và đánh xe vòng qua dãy nhà về phía nhà Will.
“Nhà Anna.”
“Cậu không nghĩ...”, Thomas mở lời. “Có khi chúng nó chỉ ở nhà thôi. Có khi chúng sẽ đi học nhưng đi muộn.”
Nó tiếp tục nói nhưng mắt tôi để ý thấy một thứ khác khi lướt qua nhà Will.
Có gì đó không đúng với những tấm rèm trên căn phòng ở tầng hai. Không chỉ là chuyện chúng đang khép lại trong khi tất cả những cửa sổ khác đều mở toang.
Trong cách kéo rèm kia cũng có gì đấy là lạ. Dường như chúng có vẻ lộn xộn làm sao đó. Giống như bị ném vào nhau.
“Dừng lại”, tôi nói. “Đỗ xe.”
“Có chuyện gì?”, Thomas hỏi nhưng tôi vẫn dán mắt vào cửa sổ tầng hai.
Cậu ta ở đó, tôi biết thế, và đột nhiên tôi thấy cáu tiết kinh khủng. Vòng vèo thế là đủ rồi. Tôi sẽ đi thẳng vào đó và lấy lại con dao, tốt nhất Will Rosenberg nên tránh xa.
Tôi ra khỏi xe trước cả khi nó dừng hẳn. Thomas lúng túng đằng sau tôi, lằng nhằng với đai an toàn. Nghe như nó gần ngã ra khỏi cửa bên tài xế, nhưng bước chân vụng về quen thuộc của nó vẫn bắt kịp tôi và nó bắt đầu bắn ra cả triệu câu hỏi.
“Chúng ta đang làm gì đấy? Cậu định làm gì?”
“Tôi sẽ lấy lại con dao của mình”, tôi trả lời. Chúng tôi đi hết lối lái xe và nhảy lên bậc thềm. Tôi gạt tay Thomas ra khi nó chuẩn bị gõ cửa và dùng luôn chìa khóa. Tôi đang hăng máu, và tôi không muốn báo động Will thêm chút nào nữa. Cứ để cậu ta cố giữ lấy con dao. Cứ để cậu ta thử đi. Nhưng Thomas tóm lấy hai tay tôi.
“Sao?”, tôi quát.
“Ít nhất hãy dùng cái này”, nó nói và giơ ra một đôi găng tay. Tôi muốn bảo nó chúng tôi không phải trộm nữa, nhưng đeo gảng vào thì dễ hơn là tranh cãi.
Nó cũng đeo găng tay và tôi xoay chìa khóa trong ổ, mở cửa ra.
Điều tốt duy nhất trong việc bước vào ngôi nhà này là nhu cầu giữ im lặng đã ngăn Thomas khỏi việc chĩa cả đống câu hỏi vào tôi. Tim tôi đập loạn trong lồng ngực, dù không phát ra tiếng nhưng không ngừng nghỉ. Các cơ bắp của tôi căng lên và thắt lại. Việc này không giống đi săn ma chút nào. Tôi không cảm thấy chắc chắn hay khỏe mạnh. Tôi thấy mình như một thằng nhóc năm tuổi lạc vào mê cung sau khi trời đã tối.
Nội thất của ngôi nhà rất đẹp. Sàn gỗ cứng và thảm dày. Lan can của câu thang dẫn lên trên trông cứ như được đánh véc-ni mỗi ngày kể từ khi nó được làm ra. Trên tường là những bức tranh thật, và cũng không phải loại nghệ thuật đương đại gì bạn biết đấy, cái loại tranh mà một gã khốn gầy nhom nào đấy ở New York tuyên bố một gã khốn kiếp gầy nhom khác là thiên tài chỉ vì gã ta vẽ được “những hình vuông màu đỏ thực sự mãnh liệt”. Các tác phẩm ở đây đều là loại kinh điển, những bức phong cảnh biển kiểu Pháp hay chân dung nho nhỏ của các quý bà trong những bộ váy ren tình tế. Thường thì mắt tôi sẽ dành nhiều thời gian hơn ở những chỗ thế này. Ông Gideon đã dạy tôi cách thưởng thức nghệ thuật tại bảo tàng Victoria & Albeit ở London.
Thay vào đó, tôi thì thào với Thomas, “Đi lấy dao của tôi và ra khỏi đây thôi”.
Tôi dẫn đường lên cầu thang và rẽ trái khi lên đến đỉnh, về phía căn phòng có các tấm rèm kéo kín. Lúc ấy tôi mới chợt nhận ra có khi mình lầm lẫn hoàn toàn. Nó có thể không phải là phòng ngủ. Có khi nó là phòng kho, hay phòng chơi game, hay một căn phòng bất kỳ mà chuyện kéo rèm là có thể hiểu được.
Nhưng giờ không còn thời gian để hối tiếc nữa. Tôi đã ở trước mặt cánh cửa đóng.
Tay nắm xoay dễ dàng khi tôi thử mở và cửa khẽ hé ra. Bên trong rất tối chẳng nhìn thấy gì, nhưng tôi vẫn nhận ra hình dạng của chiếc giường và một tủ quần áo, tôi nghĩ vậy. Phòng này khá trống. Thomas và tôi lủi vào trong như dân chuyên nghiệp. Tới giờ thì mọi chuyện đều ổn. Tôi tìm đường đi về phía trung tâm căn phòng. Mắt tôi chớp chớp để kích hoạt tầm nhìn trong bóng tối tốt hơn.
“Có lẽ chúng ta nên thử bật đèn hay cái gì đấy”, Thomas thì thào.
“Có lẽ”, tôi lơ đãng đáp lại. Tôi không thực sự chú ý lắm. Giờ đã có thể nhìn rõ hơn một chút, tôi lại không thích những thứ mình nhìn thấy.
Các ngăn kéo của tủ quần áo đang bị dựng đứng. Quần áo thì vung vãi bên trên, giống như chúng bị lộn tung trong lúc vội vã. Ngay cả cách sắp đặt cái giường trông cũng lạ. Nó đang nằm chênh chếch với một bức tường. Cứ như đã bị di chuyển.
Quay một vòng, tôi thấy cửa phòng quần áo đang mở toang và tấm poster gần đó thì bị giật xuống một nửa.
“Ai đó đã vào đây rồi,” Thomas nói, thì thà thì thào.
Tôi nhận ra mình đang vã mồ hôi và phải dùng mu bàn tay đi găng để quệt trán. Vô lý. Ai có thể vào đây trước nhỉ? Chẳng lẽ Will còn kẻ thù nào khác.
Như thế quá sức trùng hợp, nhưng có vẻ như sự trùng hợp gần đây diễn ra hơi nhiều.
Trong bóng tối tôi thấy cái gì đó ở cạnh tấm poster ở trên tường. Trông nó giống như chữ viết. Tôi bước lại gần và chân đá phải một thứ trên sàn nhà với tiếng thịch quen thuộc. Tôi biết nó là gì trước cả khi bảo Thomas bật đèn lên.
Khi ánh sáng tràn ngập trong phòng, tôi đã bắt đầu bước lùi lại và chúng tôi thấy được mình đang đứng giữa cái gì.
Cả hai đều đã chết. Thứ mà chân tôi đá trúng chính là đùi của Chase và thứ tôi tưởng là chữ viết trên tường thực ra lại là những vệt máu dài ngoằng. Vệt máu sẫm màu, phun ra từ tĩnh mạch theo những hình vòng cung. Thomas tóm lấy sơ mi của tôi từ sau lưng và đang thở hổn hển thất kinh.
Tôi nhẹ nhàng kéo mình ra. Đầu tôi đang cảm thấy bị tách ra và lãnh cảm. Bản năng điều tra vẫn mạnh hơn thôi thúc bỏ chạy.
Thi thể Will ở sau cái giường. Cậu ta đang nằm ngửa và mắt mở thao láo.
Phòng ốc quanh họ đã bị phá phách. Ga giường lẫn chán đều bị xé toạc và đang nằm thành đống bên cạnh cánh tay Will. Cậu ta vẫn mặc bộ pyjama của mình, chỉ là một chiếc quần nỉ và áo thun. Chase thì đã mặc quần áo gọn gàng. Tôi đang nghĩ những chuyện này cứ như một nhân vật trong CSI5, sắp xếp và ghi nhớ sự kiện, để ngăn mình khỏi nghĩ về việc tôi đã để ý thấy ngay khi đèn sáng lên.
Các vết thương. Trên người cả hai đầy rẫy vết thương: những vết to, đỏ quạch và vẫn còn rỉ máu. Những hình trăng lưỡi liềm lớn, lởm chởm ở các hố thịt và xương đã mất. Tôi sẽ nhận ra chúng ở bất kỳ nơi đâu, cho dù chỉ mới nhìn thấy chúng trong tưởng tượng của mình. Chúng là các vết cắn.
Cái gì đó đã ăn thịt họ.
Y như nó đã ăn thịt cha tôi.
“Cas!”, Thomas hét lên và từ giọng nói của nó tôi biết là nó đã gọi tên tôi mấy lần rồi mà không được đáp lại. “Chúng ta phải ra khỏi đây!”
Chân tôi đang hóa đá. Dường như tôi không thể làm gì được, rồi nó ôm ngang ngực tôi, kéo cánh tay tôi xuống và lôi tôi ra ngoài. Mãi đến khi Thomas tắt đèn và cảnh tượng trong căn phòng ấy trở nên tối đen, tôi mới vùng thoát khỏi nó và bỏ chạy.
Ghi chú:
1. Ba cuộc chiến tranh giữa La Mã và thành phố Carthage của người Phoenicia ở Bắc Phi (nay là ngoại ô của Tunisia) từ năm 264 đến l64 trước Công nguyên.
2. Một buổi vũ hội được tổ chức ở các trường Trung học Mỹ, thường là giữa ngày hội trường và vũ hội tốt nghiệp.
3. Tên một lại bánh mỳ kẹp thịt, pho mai và rau.
4. Tên một loại phô mai.
5. CSI hay Crime Scene Ivestigation (Đội điều tra hiện trường) là một series phim truyền hình về việc điều tra và phá án nổi tiếng của Mỹ.