Chương XX
“CHÚNG ta phải làm gì?”
Đó là câu Thomas hỏi đi hỏi lại. Carmel đã gọi tới hai lần nhưng tôi lờ đi.
Chúng tôi phải làm gì? Tôi không hề biết. Tôi chỉ ngồi lặng lẽ ở ghế hành khách trong lúc Thomas lái xe vô định. Đây hẳn là cảm giác của những người bị rối loạn tâm lý. Trong đầu tôi không có ý nghĩ hoảng hốt nào. Tôi không lên kế hoạch hay đánh giá gì hết. Chỉ có một câu lặp đi lặp lại theo nhịp điệu. Nó đang ở đây. Nó đang ở đây.
Một trong hai bên tai tôi nhận ra giọng Thomas. Nó đang nói chuyện điện thoại với ai đó, giải thích việc chúng tôi vừa phát hiện. Chắc là Carmel. Chắc cô ấy đã từ bỏ việc gọi tôi và thử gọi cho nó vì biết rằng mình sẽ nhận được câu trả lời.
“Mình không biết”, nó đang nói. “Mình nghĩ cậu ấy bị hoảng rồi. Mình nghĩ có khi cậu ấy mất trí rồi.”
Mặt tôi nhăn lại như thể nó muốn phản ứng và thách thức, nhưng vô dụng, giống như đang dùng Novocain1 ở chỗ bác sĩ nha khoa vậy. Ý nghĩ nhỏ giọt vào đầu óc tôi. Will và Chase đã chết. Thứ đã ăn thịt cha tôi. Thomas đang lái xe trong vô định.
Không có ý nghĩ nào bắt kịp ý nghĩ nào. Không một điều gì có lý cả. Nhưng ít nhất tôi không sợ. Dòng suy nghĩ ấy chảy nhanh hơn và Thomas gào tên tôi cùng lúc đâm vào cánh tay tôi, mở vòi ra đúng lúc.
“Đưa tôi tới chỗ Anna”, tôi nói. Nó nhẹ nhõm hẳn. Ít nhất tôi đã nói gì đó. Ít nhất tôi đã ra một quyết định, một mệnh lệnh để thực thi.
“Bọn mình sẽ làm thế”, tôi nghe nó nói vào điện thoại. “Ừ. Bọn mình đang tới đó bây giờ đây. Gặp bọn mình ở đấy. Đừng đi vào cho đến lúc bọn mình tới!”
Nó hiểu nhầm rồi. Làm sao tôi giải thích được? Thomas không biết cha tôi đã chết thế nào. Nó không biết điều này nghĩa là gì - nghĩa là cuối cùng thứ ấy đã tóm được tôi. Nó đã tìm ra tôi, ngay lúc này, khi tôi thực sự vô phương phòng vệ. Và tôi thậm chí còn không biết trông nó thế nào. Tôi gần như mỉm cười. Số phận đang chơi khăm tôi.
Những cây số trên đường lùi lại như một vệt mờ. Thomas đang lải nhải những lời động viên. Nó rẽ vào lối lái xe nhà Anna và ra ngoài. Cửa bên tôi mở sau vài giây và nó kéo cánh tay tôi lôi ra.
“Đi nào Cas”, nó nói. Tôi nhìn lên, mặt mày nghiêm trọng. “Cậu đã sẵn sàng chưa?”, nó hỏi. “Bọn mình sẽ làm gì?”
Tôi không biết phải nói gì. Trạng thái sốc đã mất hiệu nghiệm. Tôi muốn lấy lại sự tỉnh táo. Chẳng lẽ não tôi không biết tự quẫy mình như một con chó và trở lại làm việc sao?
Chân chúng tôi nghiến lên lớp sỏi lạnh. Hơi thở của tôi hiển hiện thành những đám mây sáng nhỏ bé. Bên phải tôi, đám mây nhỏ của Thomas hiện ra nhanh hơn và tạo thành tiếng hổn hển hồi hộp.
“Cậu sẵn sàng chưa?”, nó hỏi. “Trời ạ, tôi chưa bao giờ chứng kiến cảnh tương tự. Tôi không thể tin rằng cô ta... Việc đó.” Nó ngừng nói và gập người xuống. Nó đang nhớ lại, và nếu nhớ quá nhiều và quá rõ có thể nó sẽ nôn. Tôi đưa một tay ra giúp nó đứng vững.
“Có lẽ chúng ta nên chờ Carmel”, nó nói. Rồi nó kéo tôi lùi lại Cửa nhà Anna đang mở. Em ra ngoài hiên, nhẹ nhàng như một chú chim câu.
Tôi nhìn vào chiếc váy mùa xuân của em. Em không hề có cử chỉ nào để quấn người lại, cho dù gió đang thổi ào ào qua em như những tấm màn nước đá. Đôi vai trần trụi đã chết của em đâu có cảm nhận được.
“Anh có mang nó không?”, em hỏi. “Anh đã tìm được nó chưa?”
“Cậu có cái gì cơ?”, Thomas thì thầm. “Cô ta đang nói chuyện gì đấy.”
Tôi lắc đầu để trả lời cả hai và bước lên bậc tam cấp. Tôi đi thẳng qua người Anna, vào trong nhà và em theo gót.
“Cas”, em hỏi. “Có chuyện gì à?” Ngón tay em chạm vào cánh tay tôi.
“Lùi lại đi cô kia!”, Thomas ré lên. Nó đã thực sự đẩy Anna ra và chen vào giữa hai chúng tôi. Nó đang làm một dấu hiệu rất lố bịch kiểu “thánh giá” bằng các ngón tay mình, nhưng tôi không trách nó. Nó sợ. Cả tôi cũng vậy.
“Thomas”, tôi nói. “Không phải cô ấy đâu.”
“Cái gì?”
“Cô ấy không làm vậy.”
Tôi nhìn vào nó thật bình tĩnh để nó có thể thấy là cơn sốc đã rời bỏ tôi; tôi đã lại là chính mình.
“Mà bỏ cái tay cậu xuống đi”, tôi nói thêm. “Cô ấy có phải ma cà rồng đâu, cho dù phải đi nữa, tôi không nghĩ cây thánh giá bằng đốt ngón tay của cậu làm được tích sự gì.”
Nó thả cả hai bàn tay xuống. Sự nhẹ nhõm làm giãn hết cơ mặt nó.
“Họ đã chết rồi”, tôi bảo với Anna.
“Ai chết cơ? Và tại sao lần này anh không đổ lỗi cho em nữa?”
Thomas hắng giọng.
“À, cậu ta thì không nhưng tôi thì có đấy. Đêm qua và sáng nay cô đã ở đâu?”
“Tôi ở đây”, em trả lời. “Lúc nào chẳng ở đây.”
Tôi nghe tiếng bánh xe nghiến sỏi bên ngoài. Carmel đã đến.
“Mọi chuyện đều suôn sẻ trong lúc cô bị kiềm tỏa”, Thomas đốp lại. “Nhưng có lẽ bây giờ khi cô đã tự do, cô sẽ đi khắp nơi. Sao lại không chứ? Sao phải ở lại đây, nơi cô đã bị trói buộc trong năm mươi năm?” Nó nhìn quanh, lo lắng cho dù ngôi nhà vẫn im ắng.
Không có dấu hiệu của hồn ma giận dữ nào.
“Thậm chí giờ tôi còn chẳng muốn ở đây.”
Có tiếng bước chân thình thịch trên hiên và Carmel lao vào trong tay lăm lăm một chiếc gậy đánh bóng chày bằng kim loại.
“Tránh xa họ ra!”, cô ấy hét nổ phổi. Carmel giơ cao cây gậy và đập thẳng vào mặt Anna. Tác dụng của việc ấy chẳng khác nào cầm kèn đồng mà gõ vào Terminator. Anna chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi hơi bị xúc phạm. Tôi nghĩ mình đã trông thấy Carmel nuốt khan.
“Được rồi”, tôi nói và cây gậy được hạ xuống vài phân. Cô ấy không làm vậy đâu.”
“Làm sao cậu biết?”, Carmel hỏi. Mắt cô ấy sáng long lanh và cây gậy run lên trong tay cô. Cô ấy đang hoạt động dựa trên adrenaline và nỗi sợ.
“Làm sao anh ấy biết cái gì cơ?”, Anna chen ngang. “Các người đang nói chuyện gì? Có chuyện gì đã xảy ra?”
“Will và Chase đã chết”, tôi nói.
Anna nhìn xuống. Rồi em hỏi, “Ai là Chase?”.
Mọi người không thể ngừng hỏi quá nhiều câu như thế được sao? Hay ít nhất hãy để người khác trả lời họ?
“Cậu ta là một trong hai đứa đã giúp Mike lừa anh, cái đêm...”, tôi ngừng lời, “Cậu ta là người còn lại đứng bên cửa sổ”.
“Ồ.”
Khi tôi không tỏ dấu hiệu nói tiếp, Thomas kể cho Anna nghe mọi chuyện.
Carmel nhăn nhó trước những tình tiết đẫm máu. Thomas nhìn cô ấy hối lỗi nhưng vẫn kể tiếp. Anna lắng nghe và nhìn tôi.
“Ai làm việc đó?”, Carmel giận dữ hỏi. “Các cậu có chạm vào cái gì không?
Có ai trông thấy các cậu không?”. Cô ấy hết nhìn từ Thomas sang tôi rồi quay lại.
“Không. Bọn mình đeo găng tay và mình nghĩ bọn mình không hề xê dịch thứ gì trong lúc ở đó”, Thomas trả lời. Giọng của cả hai đều điềm đạm, tuy có hơi nhanh. Họ đang tập trung vào những khía cạnh thực tế, khiến cho sự việc dễ chấp nhận hơn. Nhưng tôi không thể để họ làm vậy. Tôi không hiểu có chuyện gì đang xảy ra ở đây và chúng tôi cần tìm ra nó. Họ cần phải biết mọi chuyện, hay biết đến chừng nào tôi có thể kể ra được.
“Có rất nhiều máu”, Thomas nói yếu ớt. “Ai lại làm một việc như thế? Sao ai đó...?”
“Không phải là ai. Mà là cái gì”, tôi nói. Đột nhiên tôi rất mệt. Lưng ghế của chiếc sô pha phủ vải bẩn thỉu trông có vẻ tuyệt vời. Tôi dựa người vào nó.
“Một ‘cái gì’ à?”, Carmel hỏi.
“Phải. Một tạo vật. Không phải người. Không còn là người nữa. Nó cũng chính là thứ đã phanh thây người đàn ông trong công viên.” Tôi nuốt nước bọt.
“Có lẽ các vết cắn đã bị loại ra. Giữ bí mật bằng chứng. Họ đã không công bố nó. Đó là lý do mình không phát hiện ra sớm hơn.”
“Vết cắn”, Thomas thì thào và mắt nó mở lớn hơn. “Đấy là vết cắn à? Không thể nào. Chúng quá to, toàn những cái lỗ to tướng bị xé ra.”
“Tôi đã từng trông thấy nó rồi”, tôi nói. “Chờ đã. Không đúng. Tôi thực ra chưa bao giờ thấy nó. Và tôi không biết giờ nó đang làm gì ở đây, sau mười năm.”
Carmel đang lơ đãng gõ cây gậy nhôm trên sàn nhà; tiếng keng keng nghe như một hồi chuông bệnh hoạn trong căn nhà trống. Không nói gì, Anna đi qua cô ấy và cầm cái gậy lên rồi đặt nó trên đệm sô pha.
“Tôi rất tiếc”, Anna thì thầm và nhún vai với Carmel, cô ấy cũng khoanh tay lại và nhún vai.
“Không sao. Tôi thậm chí không nhận ra mình đang làm vậy. Và… xin lỗi cô, vì… đã đánh cô lúc nãy.”
“Không đau đâu.” Anna đang đứng cạnh tôi. “Cassio. Anh biết thứ này là gì à.”
“Hồi anh bảy tuổi, cha anh theo đuổi một con ma ở Baton Rogue, Lousianna.” Tôi nhìn xuống sàn nhà, chỗ chân Anna. “Ông không bao giờ quay trở lại. Nó đã hạ sát ông.”
Anna đặt tay lên cánh tay tôi. “Ông ấy cũng là một thầy trừ ma, giống anh”, em nói.
“Như tất cả các tổ tiên khác của bọn anh”, tôi nói. “Ông cũng giống anh và giỏi hơn anh.” Ý nghĩ kẻ đã giết cha tôi, đang ở đây, làm đầu óc tôi quay mòng mòng. Đáng lẽ câu chuyện không xảy ra như vậy. Đáng lẽ tôi mới là người đi săn nó. Đáng lẽ tới lúc ấy ôi đã phải sẵn sàng, có đủ mọi dụng cụ và săn lùng nó tới chân trời góc bể. “Thế mà nó vẫn giết được cha.”
“Nó giết ông ấy thế nào?”, Anna khẽ hỏi.
“Anh không biết”, tôi nói. Hai bàn tay run rẩy. “Anh từng nghĩ có thể là vì cha đã bị phân tâm. Hoặc bị phục kích. Thậm chí anh còn có ý nghĩ là con dao đã vô tác dụng, giống như sau một khoảng thời gian nhất định thì nó không hoạt động nữa, khi số lượng đã tới hạn. Anh đã nghĩ có thể chính mình đã gây ra việc đó.
Anh đã giết cha bằng cách lớn lên, sẵn sàng thay thế ông.”
“Điều đó không đúng”, Carmel nói. “Nghĩ thế thật lố bịch.”
“Ừ”, có thể là thế hoặc không. Khi bạn mới bảy tuổi và cha bạn chết, còn thi thể ông thì trông như bị bọn hổ Sibenri ăn thịt, bạn sẽ nghĩ ra cả đống thứ lố bịch.”
“Ông ấy bị ăn thịt à?”, Thomas hỏi.
“Ừ, bị ăn thịt. Tôi đã nghe cảnh sát mô tả lại. Những miếng thịt to bị xé ra khỏi người ông, y hệt như với Will và Chase.”
“Như thế không nhất thiết thủ phạm là cùng một thứ”, Carmel lý luận. “Nó chỉ là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên thôi đúng không? Sau tận mười năm?”
Tôi không nói gì. Tôi không thể phản đối ý tưởng đó.
“Nên rất có thể đây là một thứ khác”, Thomas gợi ý.
“Không. Chính là nó. Cùng một thứ, tôi biết.”
“Cas”, nó nói. “Làm sao cậu biết?”
Tôi lừ mắt nhìn nó. “Này. Tuy tôi không phải phù thủy gì, nhưng công việc này vẫn lại chút lợi thế. Tôi chỉ biết thế thôi. Và theo kinh nghiệm của tôi thì không có cả đống những con ma ăn thịt người đâu.”
“Anna, Thomas khẽ nói. “Cô chưa bao giờ ăn thịt cái gì chứ?”
Em lắc đầu. “Chưa bao giờ.”
“Hơn nữa”, tôi nói thêm. “Tôi đã định sẽ trở lại tìm nó. Tôi luôn định như vậy. Nhưng lần này thì là thật.” Tôi liếc nhìn Anna. “Ý tôi là, tôi đã nghĩ mình sẽ quay lại. Ngay khi kết thúc công việc ở đây. Có lẽ nó đã biết.”
“Nó đang đi theo anh”, Anna lơ đãng nói.
Tôi dụi mắt và suy nghĩ. Tôi đang kiệt sức. Thật sự là mệt rã rời. Như thế chẳng hợp lý chút nào, bởi đêm qua tôi đã ngủ say như chết, có lẽ là lần đầu tiên trong suốt một tuần.
Rồi tôi chợt nghĩ ra.
“Những cơn ác mộng”, tôi nói. “Chúng tệ hơn kể từ khi tôi tới đây.”
“Ác mộng nào?”, Thomas hỏi.
“Tôi tưởng chúng chỉ là những giấc mơ. Kẻ nào đó cúi trên người tôi. Nhưng hóa ra từ đầu đến cuối nó là điềm báo.”
“Là cái gì cơ?”, Carmel hỏi.
“Một loại linh tính hay cái gì đó. Những giấc mơ dự đoán tương lai. Báo trước tương lai. Một lời cảnh báo.” Giọng nói rào rạo ấy, cứ như đang vẳng lên từ đất và bị đưa qua máy cưa. Cái trọng âm đó, gần như phương ngữ gốc Pháp hay Caribe. “Còn có mùi nữa”, tôi nói, mũi chun lại. “Một thứ mùi ngào ngạt như khói.”
“Cas”, Anna nói. Em có vẻ thảng thốt. “Em đã ngửi thấy mùi khói khi bị con dao của anh cắt phải. Anh đã bảo em rằng có thể nó chỉ là ký ức về tẩu thuốc của Elias. Nhưng nếu nó không phải thì sao?”
“Không”, tôi nói. “Anh không hiểu em đang nói gì. Không thể nào có mối liên hệ giữa con dao tế và thứ đó.” Nhưng ngay cả khi nói ra câu ấy tôi vẫn nhớ một trong những cơn ác mộng của mình. Mi đã đánh mất con dao tế, là điều thứ ấy đã nói. Mi đã làm mất nó, giọng nói như đám cây thối rữa và những lưỡi cưa vang lên.
Lưng tôi đổ mồi hôi sợ hãi. Trí não tôi đang cố thiết lập một mối liên hệ, cẩn thận dò la, từng tế bào thần kinh tìm đến tế bào thần kinh khác. Thứ đã giết cha tôi là Voodoo. Cái đó thì tôi luôn biết. Nhưng về bản chất thì Voodoo là gì?
Có một điều gì đang nằm ở đó, một kiến thức nằm ngoài tầm ánh sáng. Nó liên quan tới một việc Morfran đã nói.
Carmel giơ tay lên như đang trong lớp học.
“Tiếng nói lý trí”, cô ấy bảo. “Bất kể thứ ấy là gì và dù nó có hay không có mối liên hệ với con dao, hay với Cas, hay với cha Cas, nó đã giết ít nhất hai người và ăn thịt họ. Vậy chúng ta phải làm gì đây?”
Căn phòng rơi vào im lặng. Tôi vô dụng khi không có con dao. Theo chỗ tôi được biết thì thứ ấy rất có thể đã cướp con dao từ tay Will, và giờ tôi đã đưa Thomas lẫn Carmel vào một mớ bòng bong thật sự.
“Mình không còn con dao”, tôi lẩm bẩm.
“Đừng có bắt đầu đấy,” Anna nói. Em bước khỏi tôi đột ngột. “Arthur vẫn là Arthur, dù không có Excalibur2.”
“Ừ”, Carmel hòa nhịp. “Có thể chúng ta không có con dao tế, nhưng nếu mình không nhầm thì chúng ta còn có cô ấy”, Carmel gật đầu về phía Anna, “và chuyện đó rất đáng kể. Will và Chase đã chết rồi. Chúng ta biết cái gì là thủ phạm. Chúng ta có thể là mục tiêu tiếp theo. Vậy hãy thu thập lực lượng và làm gì đó đi!”.
Mười lăm phút sau, tất cả chúng tôi đã ngồi trong chiếc Tempo. Cả bốn chúng tôi - Thomas và tôi ngồi ghế trước, Carmel và Anna ghế sau. Tại sao chúng tôi không chọn chiếc Audi rộng rãi, đáng tin cậy và bớt khả nghi hơn của Carmel thì tôi không tài nào hiểu nổi, nhưng đó là việc vẫn xảy ra khi bạn lên một kế hoạch trong mười lăm phút. Chỉ có điều kế hoạch cũng chẳng đáng nói mấy, bởi chúng tôi thực sự không biết chuyện gì đã xảy ra. Ý tôi là, chúng tôi có những linh cảm - tôi thì có nhiều hơn cả linh cảm - nhưng làm sao chúng tôi có thể lên kế hoạch khi không biết thứ ấy là gì, hay nó muốn gì?
Thế là thay vì lo lắng về những chuyện mình không biết, chúng tôi tiếp tục làm việc mình phải làm. Chúng tôi sẽ đi tìm con dao tế. Chúng tôi sẽ lần theo nó bằng phép thuật, mà Thomas đã đảm bảo với tôi là một việc khả thi, với sự giúp đỡ của Morfran.
Anna khăng khăng đòi đi theo, bởi dù đã tâng bốc tôi lên hàng vua Arthur, tôi nghĩ em cũng biết rõ tôi thiếu khả năng kháng cự đến mức nào. Và tôi không biết em hiểu rõ về truyền thuyết của mình đến đâu, nhưng Arthur đã bị một con ma tới từ quá khứ của ông giết hại một cách bất ngờ.
Không phải là sự so sánh tốt nhất. Trước khi rời khỏi nhà Anna, chúng tôi đã bàn nhanh với nhau vài bằng chứng ngoại phạm để trả lời khi cảnh sát phát hiện ra Will và Chase. Nhưng việc ấy nhanh chóng bị bỏ qua. Thật vậy, khi bạn có thể hoặc không thể bị ăn thịt trong vài ngày tới, ai mà còn quan tâm đến bằng chứng ngoại phạm cơ chứ?
Tôi thì có một cảm giác kỳ quặc, sôi sục trong các cơ bắp. Bất chấp mọi chuyện đã xảy ra - cái chết rủa Mike, nhìn thấy quá khứ Anna bị sát hại, cái chết của Will và Chase, và nhận thức là thứ đã giết cha tôi giờ đang ở đây, có thể đang cố giết chính tôi - tôi vẫn cảm thấy ổn. Điều đó không có nghĩa gì cả, tôi biết. Mọi chuyện đang rối tung rối mù. Thế mà tôi vẫn thấy ổn. Tôi cảm thấy gần như an toàn Thomas, Carmel và Anna.
Khi chúng tôi tới cửa hàng, tôi chợt nhận ra mình nên kể với mẹ. Nếu nó thực sự là thứ đã giết cha, mẹ nên được biết.
“Chờ tí”, tôi nói sau khi cả bọn đã ra khỏi xe. “Mình cần gọi cho mẹ.”
“Sao cậu không đi đón cô luôn”, Thomas nói và đưa cho tôi chùm chìa khóa.
“Có khi cô giúp được gì. Bọn này có thể bắt đầu mà không có cậu.”
“Cảm ơn”, tôi nói và chui vào ghế lái xe. “Tôi sẽ trở lại sớm nhất có thể.”
Anna thò một cẳng chân trắng bệch vào ghế trước và thả mình xuống.
“Em đi cùng anh.”
Tôi sẽ không tranh cãi. Tôi cần có bầu bạn. Tôi khởi động xe lùi lại và lái đi.
Anna không làm gì ngoài việc ngắm cây cối và các tòa nhà lướt qua. Tôi cho là sự thay đổi cảnh trí với em rất thú vị, nhưng tôi ước em nói gì đó.
“Lúc nãy Carmel có làm em đau không?”, tôi hỏi chỉ để tạo tiếng ồn.
Em mỉm cười. “Đừng có ngốc thế.”
“Em ở nhà có sao không?”
Mặt em bất biến, nhưng hẳn phải là cố tình. Lúc nào em cũng bất động như thế, nhưng tôi luôn có cảm giác là tâm trí em giống một chú cá mập, luôn vặn vẹo và bơi nhanh, và tất cả những gì tôi có thể trông thấy chỉ là một xíu vây lưng.
“Bọn họ liên tục diễn lại cho em thấy”, em cẩn trọng nói. “Nhưng họ vẫn còn yếu lắm. Ngoài chuyện đó ra thì em chỉ ngồi chờ thôi.”
“Chờ cái gì?”, tôi hỏi. Đừng phán xét tôi. Đôi khi giả ngây là cách duy nhất tôi làm được. Không may, Anna không cắn câu. Vì vậy chúng tôi lại ngồi im, tôi lái xe và trên đầu lưỡi là câu tôi không cần phải làm việc đó. Tôi có một cuộc đời rất kỳ lạ và em hoàn toàn phù hợp với nó. Thay vào đó tôi nói, “em đã không có lựa chọn nào khác”.
“Chuyện ấy không thành vấn đề.”
“Sao lại không nào?”
“Em không biết, nhưng đúng thế đấy”, em trả lời. Tôi trông thấy nụ cười của em từ khóe mắt. “Em ước gì việc này không làm anh tổn thương”, em nói.
“Thế ư?”
“Tất nhiên rồi. Tin em đi, Cassio. Em chưa bao giờ muốn lâm vào bi kịch thế này.”
Nhà tôi thấp thoáng trên đỉnh đồi. Tôi nhẹ cả người khi thấy xe của mẹ đậu bên ngoài. Tôi có thể tiếp tục câu chuyện vừa nói. Tôi có thể gây sự để cãi nhau.
Nhưng tôi không muốn. Tôi chỉ muốn bỏ qua vấn đề này để tập trung vào chuyện trước mắt. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ phải đối mặt với nó. Có lẽ chuyện gì đấy sẽ thay đổi.
Tôi rẽ vào lối lái xe nhà mình và ra ngoài, nhưng khi chúng tôi cùng đi bộ lên bậc thềm, Anna bắt đầu hắt xì. Em nhăn nhó như bị đau đầu vậy.
“Ồ”, tôi nói. “Phải rồi. Anh xin lỗi. Anh quên mất câu thần chú.” Tôi nhún vai yếu ớt. “Em biết đấy, một vài loại thảo dược và lời niệm để không cho cái gì đã chết được bước qua cửa. Như thế an toàn hơn.”
Anna khoanh hai tay và dựa người lên lan can. “Em hiểu”, em nói. “Đi tìm mẹ anh đi.”
Ở trong nhà, tôi nghe tiếng mẹ đang ngân nga một khúc nhạc mà tôi không biết, có lẽ là thứ gì mẹ tự nghĩ ra. Tôi thấy mẹ đi qua cõng vòm ở bếp, tất mẹ trượt ngang sàn gỗ cứng và sợi dây buộc áo len thì bị kéo lê phía sau trên mặt đất. Tôi bước lại tóm lấy nó.
“Con à!”, mẹ nói với cái nhìn khó hiểu. “Chẳng phải con đang đi học à?”
“Mẹ gặp may vì là con chứ không phải Tybalt đấy”, tôi nói. “Nếu không cái mớ len này rách bươm ngay.”
Mẹ hỉnh mũi với tôi và buộc nó quanh eo mình, đúng chỗ của nó. Bếp có mùi hoa và quả hồng vàng. Nó là một thứ mùi ấm áp, gợi lên mùa đông. Mẹ đang làm một mẻ hỗn hợp thơm cầu may mới, như bà thường làm vào giờ này mỗi năm. Thứ ấy bán rất chạy trên web. Nhưng tôi chỉ đang trì hoãn.
“Thế sao?”, mẹ hỏi. “Con có định kể cho mẹ nghe sao con không đi học không?”
Tôi hít một hơi dài. “Có chuyện rồi mẹ.”
“Chuyện gì?” Giọng mẹ gần như mệt mỏi, kiểu như bà vẫn nửa trông chờ loại tin xấu thế này. Có lẽ lúc nào mẹ cũng ngờ ngợ trước tin xấu, không kiểu này thì kiểu khác, khi biết những việc tôi làm. “Sao hả?”
Tôi không biết phải kể với mẹ ra sao. Có thể mẹ sẽ phản ứng quá đà. Nhưng trong tình huống này còn cớ gì gọi là quá đà không? Giờ tôi đang nhìn vào một khuôn mặt bà mẹ hết sức lo lắng và kích động.
“Theseus Cassio Lowood, tốt nhất con nói ra luôn đi.”
“Mẹ”, tôi bảo. “Làm ơn đừng hoảng.”
“Không hoảng à?” Giờ hai bàn tay mẹ đã chống lên hông. “Có chuyện gì mới được? Mẹ đang cảm nhận được những xung động rất lạ.” Vẫn dõi mắt trên mặt tôi, mẹ bước vào bếp và bật ti vi lên.
“Mẹ”, tôi rên, nhưng đã quá muộn. Khi tôi tiến tới chỗ ti vi để đứng bên cạnh mẹ thì đã thấy ánh đèn xe cảnh sát, và ở một góc màn hình là bức ảnh học sinh của Will và Chase. Vậy là câu chuyện đã vỡ lở. Cảnh sát và phóng viên đang kéo đến đầy bãi cỏ như lũ kiến lao vào vụn bánh mỳ, sẵn sàng đập bể nó hơn nữa để mang nó đi tiêu thụ.
“Chuyện gì thế này?” Mẹ đặt một tay lên miệng. “Ôi, Cas, con có biết bọn trẻ này không? Ôi, kinh khủng quá. Đó là lý do con rời trường hả? Họ đóng cửa luôn hôm nay à?”
Mẹ đang cố gắng hết sức không nhìn vào mặt tôi. Mẹ đang bắn ra những câu hỏi thông thường, nhưng mẹ biết cốt lõi thật sự. Mẹ thậm chí không thể tự lừa mình. Sau vài giây nữa bà tắt ti vi và chậm rãi gật đầu, cố xử lý sự việc.
“Kể cho mẹ nghe có chuyện gì.”
“Con còn chưa biết phải nói thế nào.”
“Cố lên.”
Vậy là tôi kể. Tôi bỏ lại càng nhiều chi tiết càng tốt. Chỉ trừ những vết cắn.
Khi tôi kể cho mẹ nghe về chúng, bà đã nín thở.
“Con nghĩ là cùng một thứ à?”, mẹ hỏi. “Cái thứ đã...”
“Con biết là nó. Con có thể cảm nhận được nó.”
“Nhưng con có biết đâu.”
“Mẹ à, con biết.” Tôi cố nói chuyện một cách nhẹ nhàng. Môi mẹ đang mím chặt vào nhau tới mức chúng không còn là môi nữa. Tôi nghĩ mẹ sắp khóc hay đại loại thế.
“Con đã ở trong ngôi nhà đó à? Con dao tế đâu?”
“Con không biết. Làm ơn bình tĩnh đi mẹ. Chúng con cần mẹ giúp.”
Mẹ không nói gì nữa. Bà đặt một tay lên trán, tay kia thì chống hông. Mẹ đang nhìn mông lung. Nếp nhăn đau khổ hoặc cáu tiết ghê gớm đã hằn lên trên trán mẹ.
“Giúp đỡ”, mẹ khẽ nói, rồi nói thêm một lần nữa, to hơn. “Giúp đỡ.”
Chắc tôi đã làm mẹ lâm vào tình trạng mê sảng vì quá sốc.
“Được rồi”, tôi khẽ nói. “Mẹ cứ ở đây. Con sẽ xử lý chuyện này, mẹ à. Con hứa.”
Anna đang chờ bên ngoài, và ai mà biết chuyện gì đang xảy ra trong cửa hàng. Có vẻ như tôi đã mất hàng tiếng đồng hồ để đi đón mẹ, nhưng không thể nào có chuyện tôi đã đi lâu hơn hai mươi phút được.
“Gói ghém đồ đi.”
“Cái gì ạ?”
“Con nghe mẹ rồi đấy. Gói đồ. Ngay lập tức. Chúng ta đi.” Mẹ gạt qua tôi và lao lên cầu thang, có vẻ như đã sẵn sàng xuất phát. Tôi đi theo với một tiếng rên. Không còn thời gian cho chuyện này nữa. Mẹ phải bình tĩnh lại và vững vàng. Mẹ cứ việc gói cả tôi và ném đồ của tôi vào thùng. Mẹ cứ việc chất tất cả lên chiếc U-haul. Nhưng cơ thể tôi sẽ không di dịch một bước chừng nào con ma chưa bị hạ.
“Mẹ”, tôi nói, theo đuôi mẹ vào phòng ngủ của mình. “Mẹ đừng hoảng loạn nữa được không? Con không đi đâu cả” Tôi ngừng nói. Mẹ làm việc hiệu quả không ai bằng. Tất cả tất của tôi đã bay ra khỏi ngăn kéo và xếp thành một chồng ngay ngắn trên nóc tủ.
Thậm chí những đôi kẻ sọc còn nằm tách biệt với tất trơn.
“Chúng ta sẽ đi”, mẹ nói mà không hề ngừng tay lục tung phòng tôi. “Nếu mẹ phải đánh con bất tỉnh và lôi con ra khỏi đây, chúng ta cũng vẫn đi.”
“Mẹ, bình tĩnh lại.”
“Đừng có bảo mẹ bình tĩnh.” Những lời này phát ra trong một tràng quát tháo đã được kiểm soát, một tiếng kêu tới thẳng từ đáy dạ dày căng cứng của mẹ. Mẹ dừng lại và đứng yên, hai tay vẫn để trong ngăn tủ đã trống một nửa của tôi. “Thứ ấy đã giết chồng mẹ.”
“Mẹ.”
“Nó sẽ không được đụng đến con.” Hai tay bà lại thoăn thoắt xếp đồ tất và quần lót lại bắt đầu bay. Tôi ước gì mẹ đừng bắt đầu với ngăn kéo đồ lót của tôi trước tiên.
“Con phải ngăn nó lại.”
“Để người khác làm”, mẹ quát. “Đáng lẽ mẹ phải nói với con câu này từ trước rồi; đáng lẽ mẹ phải bảo con rằng con không có nghĩa vụ hay trách nhiệm bẩm sinh hay bất kỳ cái gì đại loại thế từ sau khi cha con chết. Những người khác có thể làm việc này.”
“Làm gì có nhiều người như vậy mẹ”, tôi nói. Việc này đang làm tôi cáu. Tôi biết không phải mẹ cố tình, nhưng tôi cảm thấy như mẹ đang làm mất danh dự của cha tôi. “Và lần này thì không được.”
“Con không phải làm.”
“Con đã chọn rồi”, tôi nói. Tôi không còn giữ giọng hạ thấp được nữa. “Nếu chúng ta đi, nó sẽ đi theo. Và nếu con không giết nói nó sẽ ăn thịt mọi người.
Mẹ có hiểu không?” Cuối cùng, tôi bảo mẹ điều mà tôi vẫn luôn giấu kín. “Đây là việc con vẫn chờ đợi.
Việc con vẫn luyện tập để làm. Con đã nghiên cứu về con ma này kể từ khi tìm được cây thánh giá Voodoo ở Baton Rogue.”
Mẹ đóng sầm ngăn kéo của tôi lại. Má bà đỏ bừng và mắt bà long lanh ngấn nước. Mẹ nhìn như sắp sửa siết cổ tôi.
“Thứ ấy đã giết cha con”, mẹ nói. “Nó cũng có thể giết con.”
“Cảm ơn mẹ”, tôi giơ hai tay lên. “Cảm ơn vì lá phiếu tín nhiệm.”
“Cas...”
“Chờ đã. Im nào.” Tôi thường không bảo mẹ im. Thực tế, tôi không biết mình tùng nói vậy bao giờ chưa.
Nhưng mẹ cần phải làm thế. Bởi vì có thứ gì đấy trong phòng tôi không hợp lý. Có thứ gì đấy đáng lẽ không được ở đây. Mẹ nhìn theo ánh mắt tôi và tôi muốn xem mẹ phản ứng thế nào, bởi vì tôi không muốn mình là người duy nhất nhìn thấy nó.
Giường của tôi vẫn y hệt như lúc tôi bỏ lại nó. Chăn nhăn nhúm và bị kéo xuống một nửa. Gối thì vẫn còn in dấu đầu tôi.
Và thò ra bên dưới cái gối chính là chiếc cán dao chạm trổ của cha.
Đáng lẽ nó không được ở đây. Nó không thể ở đây. Thứ ấy đáng lẽ phải nằm cách xa đây nhiều cây số, bị giấu trong tủ của Will Rosenberg hoặc trong tay con ma đã sát hại cậu ta. Nhưng tôi đi tới bên giường và vươn tay xuống, lớp gỗ quen thuộc mượt mà trên lòng bàn tay tôi. Tìm mối liên hệ xem.
“Mẹ”, tôi thì thầm, nhìn chằm chằm xuống con dao. “Chúng ta phải ra khỏi đây.”
Mẹ chỉ chớp mắt với tôi, đứng như trời trồng, và trong ngôi nhà tĩnh lặng có một thứ tiếng cọt kẹt không đều mà tôi không nhận ra.
“Cas”, mẹ thở hắt ra. “Cửa áp mái.”
Cánh cửa áp mái. Âm thanh đi liền với cụm từ ấy khiến một thứ gì đó từ trong tiềm thức của tôi nhức nhối. Đó là điều mẹ đã nói về những con gấu trúc Bắc Mỹ, và cái cách Tybalt trèo lên tôi ngay ngày chúng tôi chuyển vào.
Sự im lặng làm ta phát bệnh: Nó tăng âm cho mọi tiếng động khác, vì thế khi tôi nghe được tiếng kẹt đặc trưng, tôi biết ngay mình đang nghe thấy chiếc cầu thang được kéo xuống nền nhà trên hành lang.
Ghi chú:
1. Nhãn hiệu thuốc gây tê.
2. Excalibur là tên gọi thanh gươm huyền thoại gắn liền với cuộc đời của vua Athur, ở một vài dị bản truyền tụng Excalibur còn được đồng hóa với truyền thuyết “thanh gươm trong đá”, điểm mấu chốt giúp Athur giành được ngai vàng nước Anh.