THE WELL-TEMPERED CLAVIER BOOK 1 NO. 1[26]
Ngay trước sáu giờ sáng, Masaru Carlos Levy Anatole tỉnh dậy trong khách sạn. Cái đồng hồ vừa chớm réo liền bị tắt luôn.
Cậu ít khi phải nhờ tới đồng hồ đánh thức mình dậy. Cậu luôn có thể dậy vào lúc mình muốn nên thật tình chẳng cần báo thức làm gì, nhưng vẫn duy trì đặt đồng hồ phòng lúc ngủ quên.
Cậu chỉ cần vài ngày để làm quen với việc chênh lệch giờ giấc khi tới Nhật.
Masaru nhỏm người dậy, thay ra bộ áo yukata cỡ lớn nhất ở đây mà vẫn còn cũn cỡn, rồi kéo tấm rèm cửa.
Từ đây, cậu có thể nhìn bao quát hết thành phố ven biển Yoshigae, thấy Thái Bình Dương vẽ một đường cong ôm dọc theo thành phố ở chốn xa xa. Bầu trời vẫn tráng một lớp mây mỏng nhưng đã sáng hẳn rồi, mặt biển pha giữa đôi sắc xanh và xám, loang loáng lấp lánh đẹp xiết bao. Masaru bất giác cất tiếng trầm trồ, mải mê ngắm nghía khung cảnh đó.
Khung cảnh Thái Bình Dương ở Nhật mang vẻ huyền diệu và đong đầy màu sắc nhưng vẫn thẩn thơ như một bức tranh mực tàu. Có lẽ vì cậu đang nhìn ngắm nó giữa bầu không khí nằng nặng với độ ẩm cao chăng? Thật không ngờ vẫn là đại dương ta nhìn thấy nơi dải biển bờ Tây Hoa Kỳ.
Hôm nay, cậu lại nạp đầy bình năng lượng. Masaru khoẻ khoắn vươn vai rồi vặn người. Sau đó, cậu đi rửa mặt thay sang bộ đồ thể thao, xuống thang máy và bắt đầu nhẹ nhàng chạy bộ.
Buổi sớm mai ở Yoshigae chẳng có mấy bóng người, bầu không khí sạch sẽ và khoan khoái. Hơi lành lạnh đậu trên má cũng sảng khoái làm sao.
Bước chân đều đặn của chú chó đang đi dạo, hay tiếng động cơ xe máy của người đi giao báo. Đó chính là âm thanh của Nhật Bản. Cậu chạy những bước nhỏ, dừng lại nghỉ vài nhịp rồi tiếp tục chạy.
Hễ ai nhìn thấy cậu chạy thì chắc mười người phải đến tám hay chín đoán cậu là một vận động viên. Thân người cao lớn, những sải chân thẳng thắn đường hoàng, bả vai và cánh tay chắc nịch cơ bắp.
Thật ra cậu cũng từng là vận động viên nhảy cao. Tuy giờ cậu theo học Học viện Juilliard nhưng vẫn nghĩ một nghệ sĩ âm nhạc cũng là vận động viên.
Những cây piano cậu gặp gỡ ở mỗi điểm đến chẳng khác nào chướng ngại thời tiết. Sân khấu là trường đua, hội trường chẳng khác gì sân vận động. Cậu cho rằng chính vì sống trong thời đại mọi thứ đều được xử lý thông qua máy tính và không gian ảo dựa trên hệ thống mạng và sức mạnh thể chất không được coi trọng, các nghệ sĩ âm nhạc càng phải duy trì được sức mạnh thể chất. Khởi đầu từ độ dài ngón tay và độ lớn của bàn tay, độ linh hoạt của vai và cổ tay, độ dài của nhịp thở và độ sâu của nhịp hô hấp, khả năng dồn lực tức thời của cơ bắp hay sức bền bỉ nhờ sự rèn luyện ẩn sâu trong từng khớp cơ. Những giai điệu pianissimo [27] và fortissimo [28] đẹp đẽ kết nối với sự khiêm nhường và lý giải sâu sắc về bản nhạc và sự bao dung thong thả đàn trọn bản nhạc. Cậu đã sở hữu tất cả những điều đó.
Masaru điều chỉnh nhịp chạy với nhịp thở, mường tượng từng luồng ô xy đang toả ra khắp thân thể mình.
Cậu không nghe nhạc trong khi chạy bộ.
Tuy nhiên, những tiếng nhạc Bach vẫn đang vấn vương trong đầu óc. Bach là âm nhạc dành cho buổi sáng. “The Well-Tempered Clavier” là đề thi cho vòng Một. Buổi sáng nay không mang chất của Gould [29] , mà là Leonhardt [30] .
Ohayou, Nippon. [31]
Masaru lẩm bẩm bằng tiếng Nhật.
Cậu sống ở Nhật ba năm từ lúc lên năm tới khi bảy tuổi.
Thành thật mà nói, cậu không nhớ được gì rõ nét về đất nước này. Do cậu có thể nói tiếng Nhật ổn thỏa ở mức giao tiếp thường ngày, gia đình cho cậu theo học trường tiểu học công lập gần nhà nhất, nhưng chỉ được chưa đầy ba tháng.
Bản tính lạc quan trời phú đã không để chuyện này ám ảnh sâu trong lòng, nhưng cậu vẫn còn nhớ bầu không khí ảm đạm và lạnh lẽo “chỉ riêng mình khác biệt” khi ấy. Trong một tập thể trơn tru và đồng đều kỳ lạ, chỉ có mình cậu lệch nhịp. Thế rồi, sự đồng đều đó như hòa thành một gương mặt duy nhất rồi nhìn chằm chằm vào cậu.
Nhưng mẹ còn sốc hơn Masaru rất nhiều.
Bà Michiko là một người Peru gốc Nhật thế hệ thứ ba. Gia đình nhà ngoại là dân di cư đời đầu tiên, nỗ lực hết mình làm việc và thành công bám trụ tại châu Mỹ. Tuy mẹ Masaru chỉ có một phần tư dòng máu Nhật Bản, nên ngoại hình chẳng còn nét gì của người phương Đông, nhưng bà vẫn luôn tự hào về gốc gác Nhật Bản của mình. Mẹ rất đỗi tôn trọng mười quy tắc được truyền lại trong xã hội người gốc Nhật, “Tôn trọng lao động, giữ gìn lời hứa, tử tế với người, năng tiết kiệm, chăm học hỏi, sinh hoạt có nề nếp, luôn giữ gìn vệ sinh cho gia đình và chung quanh” v.v. Các anh em chú bác của mẹ đều khá ưu tú và nắm nhiều vai trò trọng yếu trong nhiều công ty, nhưng thành tích của mẹ còn đặc biệt xuất sắc khi thi đỗ vào Khoa Công nghiệp đại học quốc lập của Peru rồi thuận lợi tốt nghiệp ra trường, sang Pháp du học. Mẹ lấy được học vị tiến sĩ, gia nhập một phòng nghiên cứu Năng lượng nguyên tử, rồi quen với cha là nhà vật lý học người Pháp tại đó. Bọn họ kết hôn, rồi sinh ra Masaru. Cái tên dài loằng ngoằng phức tạp của Masaru cũng từ đó mà ra.
Cuối cùng, nhờ mối quan hệ hợp tác giữa cơ quan năng lượng nguyên tử của Pháp và Nhật Bản, hai vợ chồng cùng chuyển về Yokohama. Vì là lần đầu tiên được tới Nhật, nên mẹ rất hào hứng với cuộc sống ở đất nước cội rễ của mình. Cũng vì nghe nói chất lượng giáo dục ở Nhật khá tốt, mẹ còn mong muốn Masaru được theo học trường công ở bên này.
Nhưng, bao kỳ vọng của mẹ sụp đổ.
Con trai của bà đã hoàn toàn bị “thiên hạ” ở trường tiểu học Nhật Bản cự tuyệt. Trong cái cặp sách của đứa con trai vừa đi học về có thức ăn thừa bị nhét vào bốc mùi khó chịu. Buổi sáng vừa tính đưa con trai đi học, thì nó nôn thốc nôn tháo. Không phải mỗi mình con trai, xã hội Nhật Bản cũng dựng lên một bức tường lạnh băng soi xét với người mẹ có vẻ ngoài của dân La tinh. Một xã hội ngột ngạt cho họ biết rõ mình khác biệt. Cậu nhớ lại hình ảnh người mẹ luôn là một người phụ nữ thanh tao, sôi nổi và xinh đẹp là thế, vậy mà gương mặt tối sầm lại trải qua những ngày tháng khổ sở đó còn hơn cả Masaru. Rốt cuộc, độ mười tháng trước khi quay về Pháp, mẹ đành cho Masaru chuyển vào trường quốc tế.
Trải nghiệm ở Nhật Bản là một cú sốc lớn đối với mẹ, nhưng thực ra Masaru lại không thấy vậy. Đúng là hệ thống xã hội của Nhật Bản đã mang lại cho cậu cảm giác mình không thuộc về nơi ấy và cũng thấy bực mình vì đã làm mẹ buồn lòng. Nhưng, cậu vẫn cho đấy là một nét khác quyến rũ của Nhật Bản.
Cậu thấy khó chịu với cái trường tiểu học u ám đó, nhưng trường học nào cũng từa tựa như vậy cả. Cậu không cảm thấy Pháp có gì đặc biệt tuyệt vời. Họ đã quen với người ngoại tộc từ xưa, lại từng cai trị nhiều thuộc địa trong thời gian dài nên cách đối xử với người ngoại quốc có vẻ tử tế hơn, còn có những chính sách riêng mang tính xã hội, nhưng phân biệt đối xử thì đâu cũng như nhau. Sự tàn tệ của những đứa trẻ đối với sinh vật lạ cũng như vậy thôi. Chỉ là vì sự khác biệt ở Pháp rất đa dạng nên Masaru không còn nổi bật. Sau khoảng ba năm ở Pháp, cha mẹ đồng lòng thay đổi công việc sang bên kia đại dương nên Masaru chuyển sang Mỹ vào năm mười một tuổi, và lại càng trở nên bớt nổi bật hơn.
Ma-kun [32] , tớ đến đón cậu đây!
Masaru bất giác ngoái lại sau lưng.
Chỉ có giọng nói rạng rỡ ngân vang đó vẫn còn lưu lại rõ nét trong tâm trí. Không, đã hơn mười năm trôi qua mà giờ đây nó càng thêm rõ nét.
Masaru có duyên gặp gỡ với cây đàn piano cũng chính tại Nhật Bản này.
Masaru quay về khách sạn, tắm rửa rồi xuống nhà hàng dùng bữa sáng.
Lúc đó đồng hồ đã chỉ bảy giờ hai mươi, mới chỉ thấy bóng dáng vài người khách thương gia, chẳng mấy ai mang dáng vẻ của thí sinh dự thi.
Vòng Một của cuộc thi bắt đầu từ hôm nay và kéo dài trong năm ngày, nhưng đều bắt đầu vào đầu giờ chiều, nên họ có thể thong thả dậy muộn. Các thí sinh phải dự thi vào hôm nay, có lẽ sẽ đến vào đầu giờ trưa và thả lỏng vào buổi trưa là thích hợp. Chắc chắn ai nấy đều thu xếp tập luyện tới sát thời điểm vào thi. Một vài người chắc cũng đang mất ăn mất ngủ, nỗ lực luyện tập không chừng.
Masaru là thành phần bùng cháy hơn khi có khán giả, và cũng chưa có nhiều kinh nghiệm lên sân khấu, nên cho rằng mọi người đều như vậy. Khi nghe chuyện một số thí sinh không thể ăn uống được gì lúc cuộc thi gần kề, hay do gánh nặng của những ngày phải đi thi mà kém ăn hơn hẳn, cậu đã ngạc nhiên lắm. Tới lúc vào Juilliard, cậu mới biết được thế gian không thiếu người mong manh, và giới nghệ sĩ chuyên nghiệp lại càng có nhiều người như vậy.
Lần đầu tiên được tham dự cuộc thi, Masaru đã run lên vì hứng khởi. Một cuộc cạnh tranh. Hơn nữa, còn là một cuộc cạnh tranh của giới trưởng thành. Khó chịu kiểu gì cũng phải giải phóng ra adrenaline chứ.
Điều thú vị hơn nữa là cậu được lắng nghe trực tiếp đủ màn biểu diễn của đủ người thuộc đủ trình độ.
Masaru, cậu đang nghĩ gì vậy hả? Cậu đâu cần cun cút đi nghe mấy màn trình diễn cỡ đó chứ.
Cậu chợt nhớ hình như một người nào đó đã nói như vậy với giọng điệu sững sờ (hình như là bạn học ở Juilliard cùng tham diễn với cậu). Từ ngày đầu, Masaru đã ngồi nghe tất cả các màn trình diễn (tiếc là phải bỏ qua các thí sinh xếp trước và sau mình).
Ơ, nhưng thú vị lắm mà. Đâu có nhiều cơ hội được nghe bao nhiêu người chơi đàn một lúc như này đâu.
Khi biết Masaru thực lòng cảm thấy “thú vị”, người kia khá bất ngờ.
Anh ta nói với Masaru một câu đại khái giống lời Jennifer Chang: “Nghe mấy bài nhạc dở tệ chỉ tổ hại tai, tôi không nghe đâu”.
Đương nhiên, một số bài biểu diễn khá chán. Cũng không thiếu người có vấn đề về kỹ thuật chơi. Nhưng, suy ngẫm về lý do và cách thức cải thiện điều đó cũng khá thú vị.
Masaru luôn lắng nghe kỹ lưỡng từng màn trình diễn của người khác đến mức giảng viên phụ trách là Nathaniel Silverberg cũng phải sững sờ rằng cậu hợp với nghề giáo viên hơn cả mình.
Đặc trưng dân tộc, cá tính và thói quen của giảng viên hướng dẫn. Tại sao cùng một cây đàn và cùng một bản nhạc mà lại khác biệt đến thế. Cậu coi cuộc thi như những buổi biểu diễn giới thiệu, mải miết nghe mãi không biết chán. Cứ nghĩ tới chuyện bao nhiêu người trẻ tuổi trên thế gian này bị thứ nhạc cụ kia thu hút, đổ không biết bao nhiêu thời gian vào luyện tập, cậu lại cảm nhận rõ hơn ma lực của thứ nhạc cụ mang tên piano kia. Đúng, hệt như lần đầu tiên cậu bị cuốn theo tiếng đàn piano vậy.
Ma-kun, tớ đến đón cậu đây!
Cô bé đó hình như hơn cậu một hay hai tuổi gì đó.
Đôi mắt to sáng long lanh, mái tóc đen dài và thẳng.
Ừ, ừ.
Masaru cố tình lần chần trước cửa như mọi bận, vờ vịt không muốn đi.
Cô bé đó liền kéo giật cánh tay Masaru, phăm phăm đi một mạch. Masaru chỉ chờ cô bé làm như vậy. Bị cuốn theo cảm giác của bàn tay trơn mềm đó, Masaru cùng cô bạn đi tới lớp học đàn.
Gọi là cùng đi tới lớp học đàn, nhưng Masaru thuộc thành phần được cho nhảy ngang vào lớp học của cô bé đó. Cô bé thích thế, thầy giáo càng mặc kệ, giờ nghĩ lại họ thật quá rộng lượng với cậu.
Bản thân lớp học đó cũng rất phá cách. Nhà thầy giáo lúc nào cũng vang vang đủ loại âm nhạc, từ rock, jazz đến nhạc enka [33] . Giờ Masaru vẫn hát được những bài hát yêu thích vào thời điểm bấy giờ, như “Isezakicho blues” của Aoe Mina hay “Funa Uta” của Yashiro Aki.
Ma-kun có vẻ thích giọng khàn khàn, gu nặng đây. Cậu nhớ thầy giáo và cô bé kia từng trầm trồ như vậy.
Họ chơi đàn piano bằng cách kết hợp nhiều loại nhạc khác nhau, ngẫu hứng tạo ra các khúc nhạc, thế rồi thầy giáo và cô bé cùng nhau chơi các gam nhạc, hay một bản nhạc nào đó. Cậu càng lúc càng thấy hào hứng, thời gian chẳng mấy chốc đã trôi vèo.
Những lúc chơi piano, cậu không cảm nhận được tuổi tác nơi cô bé nữa. Ngoài mặt vẫn là một cô gái nhỏ, nhưng bên trong chứa đựng một thứ gì rất đỗi to lớn, thành thục gần như thần thánh.
Cậu từng nghĩ rằng ai học piano cũng như vậy, nhưng trình độ của cô bé cao đến mức chắc chắn đã qua giai đoạn đào tạo cơ bản. Cô chính là thần đồng đầu tiên cậu được gặp. Một khi có thể chơi tới trình độ đó, chắc chắn cô có thể tạo dựng danh tiếng riêng.
Trên thực tế, Masaru còn chẳng nhớ tên cô bé, vậy nên cậu không cố tìm kiếm cô dù sau này đã biết sử dụng mạng Internet. Cậu có ấn tượng đó là một cái tên khá khó và họ vẫn thường gọi nhau là Ma-kun và A-chan, nên có lẽ cô cũng chẳng nhớ được tên của Masaru.
Với lại, mối quan hệ quen biết giữa hai đứa khá hạn chế.
Nhà của cả hai thuộc cùng một khu, nhưng cô bé theo học ở một trường tiểu học tư thục, nên cả hai không cùng trường.
Cậu chỉ quen tai nghe tiếng đàn piano vọng ra mỗi khi đi ngang qua nhà cô.
Một ngày nọ, cậu tình cờ nhìn thấy một cô bé đeo cái túi vải thêu khóa Sol bước ra từ căn nhà đó. Chẳng hiểu sao nét mặt cô bé đó hoàn toàn khác biệt với những đứa trẻ trong lớp. So với những bạn bè cùng lớp chẳng biết đang nghĩ gì trong đầu kia, cô bé là đứa trẻ rạng rỡ ngay cả trong bản chất, đến mức tưởng chừng như ánh sáng lung linh tỏa ra từ bên trong, lộ ra từ ánh mắt nét mũi và đập vào mắt nhìn.
Là cậu vẫn hay chơi piano đó hả?
Chẳng biết Masaru đã cất tiếng hỏi từ bao giờ, cô bé ngó lại cậu đầy hứng thú.
Ừ, đúng. Cậu là?
Tớ là Masaru. Chắc cậu thích đoạn kia đúng không, lần nào tớ cũng thấy cậu chậm nhịp ở chỗ đó.
Khi Masaru hát thử khúc nhạc đó, cô bé liền tròn mắt.
Ối chà, tai cậu có vẻ tinh đấy. Tớ không biết xử lý đoạn đó. Chẳng biết nên kết nối các âm kiểu gì nữa.
Cô bé suy nghĩ một lúc, rồi hỏi Masaru.
Này, lát cậu có rảnh không?
Ơ? Masaru ngẩn ra.
Cậu cùng tớ tới chỗ thầy giáo đi, vui lắm đó. Ừ, quyết định thế nhé. Đi nào Ma-kun.
Lúc đó, cô bé cũng nắm tay Masaru, hớn hở rảo bước đi như vậy.
Dù thấy học trò bất ngờ dẫn theo một cậu bé trông như người La tinh, thầy giáo chẳng mảy may ngạc nhiên, chỉ bảo, “Ô kìa, bạn của trò hả?”
Vâng. Ma-kun. Cậu bạn này có đôi tai tinh lắm thầy ơi.
Cô bé gật đầu, nói bằng giọng tràn trề tin tưởng.
Cuộc gặp gỡ với cô bé vào thời điểm bấy giờ thật kỳ diệu. Cô bé đó đã nhìn thấu tài năng của cậu bằng một thứ cảm nhận rất gần với bản năng.
Trên thực tế, thầy giáo lập tức phải ngỡ ngàng trước sự tinh nhạy của đôi tai Masaru.
Masaru có khả năng cảm âm tuyệt đối, nghe cái gì là lập tức tái hiện lại được ngay. Thầy giáo dạy Masaru những kiến thức cơ bản không mấy khó khăn. Đáng tiếc nhà Masaru không có đàn piano, nên không thể tập luyện nhiều.
Về sau, Masaru và cô bé có thể cùng nhau đệm vài bản nhạc đơn giản. Cậu không tài nào quên được những lúc hai đứa ngồi cạnh nhau trên chiếc ghế chuyên dụng cho đàn dương cầm, cùng nhau vui vẻ cao giọng hát và chơi đàn.
Thầy giáo “hừm” với vẻ tâm đắc.
Ngạc nhiên ghê, hai đứa có điểm gì đó khá giống nhau. Giống như đang tích tụ trong thân thể một thứ âm nhạc rất lớn lao, rất mạnh mẽ và tươi sáng, nhất định không thể bị kìm kẹp trong một không gian hẹp được.
Âm thanh của Ma-kun giống biển thầy nhỉ.
Biển? Thầy giáo và Masaru đồng thanh hỏi lại.
Vâng. Giống như dưới bầu trời xanh ngắt, những con sóng lớn vượt biển xa xôi tìm tới nơi này. Chim hải âu bay liệng, thi thoảng dừng cánh lững lờ trôi trên những đợt sóng cồn. Vì biển đó là của Ma-kun, nên cánh hải âu có thể yên tâm ngơi nghỉ.
Trò nói hay lắm, thầy giáo cười phà.
Nhưng Masaru không hề cười. Những lời của cô bé đã lấp đầy trong ngực cậu. Cô bé này đang khen ngợi Masaru, đang công nhận Masaru. Hơn nữa, lời nói của một cô bé thiên tài như vậy, không phải nịnh nọt hay tâng bốc nhau. Cậu thật sự vui mừng khi được cô bạn tin tưởng đó “đích thực” là âm thanh của Masaru.
Khi biết Masaru phải về Pháp, thầy giáo đã nói.
Ma-kun nắm giữ thứ âm thanh tuyệt vời lắm. Giờ con đi Pháp, hy vọng con có thể theo học piano tử tế. Kể cả không theo học được nữa, thầy cũng mong con giữ mãi tình yêu với âm nhạc. Nó rồi sẽ thành tài sản cho con.
Cô bé thì cứ khóc tu tu, “Cậu quá đáng lắm. Quá đáng lắm, đã nói là sẽ cùng nhau luyện tập tới khi đàn được Rachmaninoff [34] cơ mà.” Cô hậm hực nổi cáu với cậu.
Nhưng tới khi khóc lóc đã mệt, đôi mắt cô bé đỏ hoe và dặn “Nhớ phải tiếp tục chơi piano nhé, cậu hứa đấy.” Cô còn tặng cậu chiếc túi vải đựng tổng phổ thêu khóa Sol.
Khi quay về Pháp, Masaru đã đòi cha mẹ cho học piano.
Cha mẹ khá ngạc nhiên vì chưa bao giờ cậu chủ động yêu cầu điều gì như vậy, nhưng vẫn chấp nhận. Masaru bỏ tổng phổ vào cái túi đó, bắt đầu theo học ở nhà một sinh viên đại học âm nhạc sống cùng khu.
Sau khi Masaru theo học được vài buổi, người sinh viên nọ ngỡ ngàng và chủ động liên lạc với cha mẹ cậu. Người đó bảo rằng đã giới thiệu cậu cho thầy dạy của mình, khuyến khích cả nhà cho cậu học nhạc chính thống. Cùng với vài sự kiện sau đó, Masaru trở nên nổi bật và trong vòng hai năm, cậu được biết đến như một thần đồng.
Em nghe đây, Masaru.
Khi cậu quyết định tham dự Cuộc thi piano quốc tế Yoshigae lần này, Nathaniel Silverberg đã dặn dò.
Em là một ngôi sao. Em có hào quang. Em có khí chất. Em nắm giữ thứ nhạc tính tuyệt vời bẩm sinh. Chưa kể, em có sức mạnh tinh thần mạnh mẽ và sự khoan dung.
Nathaniel nhìn chằm chằm vào Masaru.
Thầy sẽ không nói điều này với các sinh viên khác. Vì những lời đó có thể đè nặng áp lực hoặc mang đến sự tự phụ.
Giọng điệu đặc trưng, thô nhưng đầy nhiệt huyết của Nathaniel. Masaru thích nét cá tính không màu mè, có phần vụng về nơi Nathaniel.
Nhưng chính vì là em nên thầy mới nói. Thầy tin vào tài năng của em hơn bất cứ ai.
Hãy nhắm tới giải thưởng. Hãy giành chiến thắng như đúng cái tên [35] của em đi.
Em hiểu rồi, thưa thầy.
Masaru thầm nhủ trong lòng.
Masaru dùng xong bữa sáng, rồi về phòng thay đồ.
Đương nhiên, cậu vẫn giữ ý định nghe hết các bài biểu diễn trong cuộc thi lần này.
Trong sáng nay, cậu dự định sẽ đi mượn đàn piano của nhà một thầy giáo ở trường đại học âm nhạc, bạn thân của Nathaniel để luyện tập. Còn buổi chiều, cậu sẽ tận hưởng cuộc thi.
Bất chợt, ánh mắt cậu chạm phải một cái túi vải cuộn tròn trong va li.
Đó chính là cái túi thêu khóa Sol ngày ấy.
Cậu chẳng còn dùng tới nó nữa, nhưng vẫn luôn mang theo coi như một thứ bùa may mắn.
Bên ngoài cửa sổ, mặt biển Thái Bình Dương của Yoshigae vẫn lấp lánh ánh sáng.
Như những con sóng lớn vượt biển tới nơi này.
Cô bé với khoé mắt đỏ hoe trong ký ức của Masaru khẽ thì thào.
Nhưng, những cơn sóng lớn dễ tạo nên sóng thần khi tới bờ biển Nhật Bản.
Masaru chớm nghĩ tới điều đó, liền vươn vai và khoác lên người chiếc áo sơ mi trắng.