← Quay lại trang sách

VÒNG MỘT THERE’S NO BUSINESS LIKE SHOW BUSINESS[38]

Bên trong cánh gà nhập nhoạng, Alexey Zakayev hít vào thở ra thật sâu.

Trái tim anh cứ đập thình thịch nãy giờ không chịu yên.

Tại sao lại là số một! Tại sao mình lại rút phải số một cơ chứ?

Anh chẳng đếm nổi số lần mình thở dài, không khỏi thở phì ra một lần nữa.

Anh vẫn đinh ninh mình chẳng đời nào rút được số một, chỉ hồi hộp cho tay vào trong hộp và lấy ra mảnh giấy đầu tiên chạm vào. Giây phút mở nó ra, đôi mắt anh như muốn rớt khỏi tròng trước con số 1 khó ngờ.

Alexay ngẩn ngơ đưa tờ giấy cho người phụ trách. Người đó liền cười tủm tỉm như chọc anh rồi dõng dạc thông báo “Số 1”. Cả hội trường liền ồ lên và những tiếng nhao nhao hò reo như bện lấy người anh.

Con số này trong mọi cuộc thi cũng giống như người nắm vị trí số một trong bóng chày, rất hồi hộp nhưng không hẳn là bất lợi. Người người đổ dồn ánh mắt vào anh, nhưng mọi mối quan tâm sẽ dành cho “sau đó” và nhiều khi thí sinh thứ nhất sẽ trở thành “tiêu chuẩn”. “Tiêu chuẩn” thường cũng có điểm hay ho và điểm bất trắc, nhưng thường thì “tiêu chuẩn” hiếm khi trở thành đối tượng cho giải thưởng. Vì sau anh còn gần chín mươi thí sinh nữa. Liệu có ai còn nhớ nổi thí sinh đầu tiên.

Sao số mình lại xui xẻo thế này.

Khi anh gọi điện về cho thầy, ông cũng tuyệt nhiên không thốt nổi câu nào ở đầu dây bên kia.

Chỉ còn cách biểu diễn một màn gây ấn tượng sâu sắc để người ta kháo nhau anh bạn đầu tiên có vẻ cũng khá đấy chứ. Anh cần cho ra một màn trình diễn như vậy.

Anh hết co lại duỗi những ngón tay trong màn tối, cố sưởi ấm cho nó.

Dù đã bao lần bước lên sân khấu, anh vẫn không tài nào làm quen được với sự căng thẳng đặc thù này.

Đúng rồi, mình sẽ là người hoàn thành màn biểu diễn sớm hơn bất cứ ai, cũng sớm được thả lỏng tinh thần. So với việc phải chịu đựng màn trình diễn của bảy mươi hay tám mươi người khác để đợi tới lượt, vị trí này tính ra cũng có cái lợi.

Alexay xoa dịu bản thân.

Nhưng tại sao lại là số một. Lúc đó, chỉ cần ngón tay xê xích bốc một tờ giấy khác là...

Tâm trí anh vẫn dai dẳng tua đi tua lại thời điểm nhạy cảm lúc bốc thăm thứ tự. Cả những tiếng hoan hô vang dội vây kín lấy anh.

Người quản lý sân khấu cất tiếng gọi, Alexay liền bừng tỉnh.

Cánh cửa xoay của sân khấu đã mở rồi.

Thứ ánh sáng rực rỡ của sân khấu.

Chiếc đàn piano đen bóng đang đợi anh bên dưới làn ánh sáng đó.

Đến lúc rồi. Cuộc thi đã bắt đầu.

Alexay hít vào một hơi, chuẩn bị tinh thần.

Chỉ cần cuộc thi bắt đầu, nó sẽ hòa thành cuộc sống thường nhật. Cả nhân viên, thí sinh lẫn các giám khảo đều đang chạy đua với thời gian. Tiến độ ổn định trên sân khấu, màn trình diễn trong thời gian quy định, chấm điểm nhanh chóng. Ai ai cũng đều nín thở, guồng sức bám đuổi khung thời gian đã định của cuộc thi.

Thời gian biểu diễn ở vòng Một là hai mươi phút.

Một khúc nhạc tối thiểu ba giọng trong một fugure [39] từ Tuyển tập Well-Tempered Clavier [40] của Bach.

Bản Sonata No.1 hoặc một phần liên khúc bao gồm Sonata No.1 của Haydn, Mozart hoặc Beethoven.

Một khúc nhạc của nhạc sĩ phái lãng mạn.

Hoàn thành ba nội dung này trong vòng hai mươi phút vừa dễ lại vừa khó. Nếu để thiếu thời gian, thí sinh sẽ bị trừ điểm.

Trong vòng Một và vòng Hai, việc vỗ tay giữa các khúc nhạc bị cấm. Coi như tránh lãng phí thời gian.

Các hàng ghế khán giả trong cái hội trường cỡ trung cũng lấp được tới 60%. Tuy phần lớn là người có liên quan với thí sinh, nhưng cũng không thiếu người hâm mộ nhiệt thành bình thường. Những người hâm mộ bình thường hay có ý muốn tìm ra những thí sinh mình yêu thích, và hào hứng dự đoán coi ai sẽ lọt vào vòng Hai. Khu ghế ngồi mặt trước dãy trái là nơi có thể nhìn rõ động tác tay thí sinh, đã kín chỗ.

Các thí sinh tới nghe màn biểu diễn của những người khác thường sẽ ngồi ở phía sau.

Chỗ ngồi của Ban giám khảo ở trên tầng hai. Tổng số mười ba giám khảo từ khắp nơi trên thế giới đều đang chuyên chú vào chấm điểm.

Cách thức chấm điểm ở vòng Một khá đơn giản dựa vào các ký tự “◯”, “△” và “✕”. Những ký tự đó lần lượt tính thành ba điểm, một điểm và không điểm. Những thí sinh có tổng điểm cao nhất sẽ lọt vào vòng Hai.

Trình độ cao đấy.

Nathaniel Silverberg nghe xong lượt năm người đầu tiên, liền có ấn tượng như vậy.

Thông thường, mục đích của vòng đầu tiên là loại ra những người có vấn đề trong kỹ thuật chơi, nhưng mấy năm gần đây, họ cũng ít khi gặp phải thí sinh bị mắc lỗi ở mặt này.

Hiện giờ, ta có thể tự do tiếp cận đủ mọi thể loại nhạc đông tây kim cổ, các thí sinh cũng phải nâng cao kỹ thuật để ứng phó với đủ kiểu thi thố.

Mới cách đây không lâu, ông coi tờ khung chương trình và thấy nó đưa lên quá nhiều tác phẩm khó, nhưng giờ lại thấy vui mừng vì chương trình có sẵn một cái khung vững chắc nắm thế chủ lực.

Tuy nhiên, vẫn có độ chênh lệch rõ ràng.

“Biết chơi” và “chơi đàn” là hai thứ tương tự nhau, nhưng lại có một hố sâu ngăn cách giữa chúng. Nathaniel thầm nghĩ vậy.

Điều khó khăn là trong số những người “biết chơi” đều đang ẩn giấu tài năng “chơi đàn”. Nhiều kẻ dồn bao nhiệt tình và tâm huyết nhưng mãi chỉ là mộng phù du. Chỉ cần nhận thức được cái hố sâu ngăn cách giữa hai bên, chưa biết chừng ta có thể vượt qua vào một thời điểm thích hợp.

Điểm tốt là các thí sinh dạo gần đây hiếm người mắc lỗi kỹ thuật. Ngày trước, một số nhân vật nổi bật từng mang tới màn trình diễn rất đậm nét tới mức hai từ cá tính không đủ để miêu tả, như kiểu người ta thản nhiên đập thình thình bất chấp mọi thứ vậy, nhưng thời đại đó chắc không quay lại nữa rồi.

Trình độ cũng cao đấy, nhưng mới cỡ này thì chưa thành địch thủ của Masaru được.

Nathaniel gật đầu với chính mình, cười khẽ.

Cậu học trò cưng của Nathaniel, tức Masaru, đang ngồi ngay bên dưới vị trí thầy mình làm giám khảo trên tầng hai.

Cậu chàng cũng đang có cùng mối quan tâm giống thầy về trình độ thí sinh.

Ai cũng đều giỏi ghê. Đúng là cuộc thi đình đám cũng có khác. Người ta quy tụ được nhiều thí sinh tài năng thật đấy.

Hai cô gái ngồi ở hàng ghế trước có vẻ là sinh viên đại học âm nhạc. Họ nắm được khá nhiều thông tin, nên Masaru cũng lén dỏng tai nghe hóng. Cậu viết không thạo, nhưng có thể hiểu kha khá hội thoại. Dù ở New York, cậu vẫn cố gắng trò chuyện với các lưu học sinh người Nhật để không giảm khả năng giao tiếp.

Chuyện này một phần cũng vì đâu đó trong tim cậu hy vọng có cơ hội được trò chuyện với A-chan vào lúc nào đó. Tuy cậu chẳng rõ lúc nào đó là bao giờ, nhưng điều này tạm thời đang có ích.

“Trung tâm chú ý của hôm nay là cô gái này đây, Jennifer Chang.”

“Phải người được gọi là Lang Lang [41] phiên bản nữ không?”

“Hình như người này đã chính thức lên sân khấu biểu diễn rồi đó. Thấy bảo anh Nakajima có đi nghe ở New York.”

Giờ nghỉ giải lao ngắn ngủi. Hai người cầm tập chương trình, bình phẩm.

Hê, rành ghê.

Masaru trầm trồ trước thông tin của hai cô gái.

“Tớ lại muốn nghe thử người này cơ. Thí sinh Masaru Carlos của ngày mai.”

Cậu giật mình, bèn chỉnh tư thế ngồi.

“Hình như giỏi lắm.”

“Ngầu ghê. Nghe bảo lai dòng máu Nhật ba hay bốn đời gì đấy, nhưng gương mặt không còn nét gì của người Nhật nữa rồi.”

Chắc trong mơ các cô cũng không nghĩ nổi người ta đang ngồi ngay sau lưng, còn nghe hóng cuộc chuyện trò của hai cô nữa.

Masaru cầu cho hai người đó không ngoảnh ra sau.

“Hoàng tử ong mật hình như trình diễn vào buổi cuối cùng đó.”

Hoàng tử ong mật?

Masaru tưởng mình nghe nhầm, lại dỏng tai lên nghe lại cho kỹ.

“Đáng yêu quá đi. Mới mười sáu tuổi. Ôi chết mất, nhỏ hơn mình tận năm tuổi lận.”

Masaru khẽ liếc trang chương trình hai cô gái đang xem, cố tìm khung trình diễn của mình. Đằng nào cậu cũng xác định sẽ nghe hết các màn trình diễn nên vẫn chưa động đến tập chương trình chính thức.

“Cậu bé đó thể hiện khá xuất sắc ở buổi tuyển chọn tại Paris nhỉ?”

“Đáng tiếc là trang chủ chỉ đăng mỗi ảnh không. Giá như họ đăng cả video nữa thì tốt quá.”

Kazama Jin.

Cậu không giỏi nhớ mặt chữ Hán, nên rà theo cột chữ alphabet.

Một gương mặt thiếu niên ngây ngô.

Trẻ thật. Cuộc thi này chắc không đặt giới hạn cho tuổi tác thí sinh. Cậu nghe nói thí sinh nhỏ nhất mới mười lăm. Phần điền lý lịch tham dự các cuộc thi bỏ trống.

Nhưng đôi mắt Masaru bị thu hút bởi cột ghi tên giáo viên hướng dẫn.

Yuuji von Hoffman.

Có đùa không đấy. Hoffman dạy em ấy sao?

Đôi mắt Masaru mở to. Nhân vật này từng là thầy của thầy cậu mà. Nhưng cậu nghe nói ông ấy không cho phép kẻ khác nhận là học trò của mình, còn biết cả chuyện thầy mình từng cất công bay đi bay về từ London sang tận nhà riêng của ông bên Đức để xin học.

Liệu thầy có biết về vụ này không nhỉ?

Masaru bất giác ngước lên trần nhà.

Masaru hay nghe người khác biểu diễn, nhưng không mấy hứng thú với các loại tin đồn. Chính vì vậy, tin đồn về buổi tuyển chọn của cuộc thi này không hề lọt vào tai cậu.

Hê, cậu bé đó lọt vào thông qua đường thi tuyển sao.

Masaru liền thấy hứng thú.

Cái này cũng vui đấy. Chắc hẳn sẽ pha thêm màu sắc gì đó.

“Nghe nói cậu bé đó phải phụ việc cho bố mình, nên người đầy bùn đất tới buổi tuyển chọn đó. Đúng là lạ thật.”

“Nghe bảo con nhà nuôi ong thường phải di chuyển lắm? Em ấy tập đàn kiểu gì nhỉ?”

“Lạ thật.”

Cậu không hiểu lắm chữ “nhà nuôi ong” nhưng chợt nhớ tới cụm từ “hoàng tử ong mật” khi nãy nên cũng đại khái đoán được.

Hừm, càng lúc càng thú vị. Kazama Jin. Cậu bé đó sở hữu tiếng đàn dương cầm thế nào vậy nhỉ?

Trong khoảnh khắc, một thiếu nữ cao ráo xuất hiện trên sân khấu trong bộ váy đỏ tươi, quan khách nhao nhao cả lên.

Một phần là do bộ đồ mang sắc đỏ dễ nhớ, nhưng luồng năng lượng bừng bừng sức chiến đấu tỏa ra từ toàn bộ cơ thể cô gái này cũng đủ gây choáng váng.

Thí sinh số 12: Jennifer Chang - Hoa Kỳ.

Tâm điểm của ngày hôm nay đây.

Saga Mieko ngắm nghía cô gái trẻ với những đường nét đậm đà. Chiều cao nổi trội đã xóa mờ những ưu điểm khác, nhưng vẫn thấy được bờ vai rộng, bắp đùi chắc nịch. Thân thể được tạo hóa ưu ái như kia, chắc chắn tiếng đàn cũng sắc nét.

Nhìn thế này chắc thuộc tuýp IH đây, Mieko dự đoán.

IH là một từ do bà tự nghĩ ra, chỉ những thí sinh có kỹ thuật lên tới mức siêu tuyệt kỹ “chơi hay tới phát ghét”.

Ban giám khảo cũng ít nhiều tỏ ra kỳ vọng.

Jennifer Chang vừa ngồi xuống ghế, lập tức chơi đàn.

Ồ, những tiếng trầm trồ không thành lời vang khắp hội trường.

Cô gái sở hữu từng giọt âm thanh tươi sáng sắc nét, thứ kỹ thuật tròn trịa dù rõ ràng đang biểu diễn những giai điệu Well-Tempered Clavier thuộc hàng căn bản của căn bản.

Một phiên bản Bach cực kỳ giàu năng lượng.

Mieko nửa phần hứng thú nửa phần ngỡ ngàng. Giỏi đó, có thể chơi Bach theo kiểu này.

Tiếp theo là bản Sonata của Beethoven No.21, “Waldstein” [42] . Khúc số một.

Sự lựa chọn này là chính xác. Nhịp điệu dồn dập và nhanh lẹ của khúc nhạc này quá hợp với cô.

Mặc dù vậy, món nhạc cụ cũng mang lại sự thú vị. Khi cô gái này chơi đàn, cây đại dương cầm chẳng khác gì một chiếc ô tô Benz cỡ lớn được thiết kế đặc biệt và cô gái đang cưỡi lên đó đi dạo quanh. Tay lái tuyệt vời, tràn ngập sức mạnh, lao tới với tốc độ cao nhưng thân xe vẫn không hề rung lắc, tạo độ cân bằng toàn hảo. Tùy theo người lèo lái, nó có thể trở thành một chiếc xe gia đình dễ điều khiển hoặc trở thành loại xe mui trần nhìn thì hay nhưng khó bẻ lái.

Jennifer Chang đã mang tới một “Waldstein” xuất sắc.

Phần kết thúc sống động khiến một số khán giả bất giác vỗ tay, nhưng họ chợt nhớ luật cấm nên lập tức dừng lại.

Riêng “Waldstein” đã tốn hơn mười phút rồi. Chắc chắn là thời gian cũng gấp. Chang không chút do dự, chuyển ngay sang khúc nhạc tiếp theo.

Bản nhạc thứ ba là bản “Heroic” Polonaise [43] của Chopin.

Lại là một tác phẩm này rất hợp với cô. Đó là tác phẩm hoa lệ nhất trong các bản Polonaise của Chopin. Riêng chuyện đây là một khúc nhạc có tiếng tăm, chơi không khéo sẽ thành ra rất rẻ tiền, nhưng cô gái đã mang tới nhịp điệu độc đáo, sắc nét và năng động. Những từ ngữ như “thực sự khoái hoạt, làm trái tim đập bồi hồi” hiện lên trong đầu.

Vào giây phút cô dứt tiếng đàn, những tiếng vỗ tay vang dội dậy lên. Màn biểu diễn hào sảng đọng trong lòng khán giả bao cảm xúc, cuốn hút bao con người.

Đúng theo những lời bình luận trước đó, cô gái này rất khá. Người ta có thể gật gù khi nghe cái danh “Lang Lang phiên bản nữ” và có lẽ chính cô cũng rất ý thức đến việc kia.

Mieko thoáng cảm thấy khó chịu.

Chỉ cần một Lang Lang là đủ lắm rồi. Thêm một người như thế nữa thì đỡ sao nổi đây.

Ở hàng ghế cuối cùng của hội trường, một thiếu niên đang ngồi ngẩn ngơ.

Gương mặt trắng trẻo và mái tóc bù xù giấu bên dưới chiếc mũ.

Thiếu niên đang khẽ lẩm bẩm điều gì đó. Không, hình như đang ngâm nga câu hát gì đó.

Thế rồi, em khẽ nghiêng đầu rồi lắc nhẹ.

“Không đúng rồi.”

Chẳng ai nghe được những lời lẩm bẩm đó.

Bỗng, hai cô gái lao vào từ cánh cửa mở sẵn.

“A, chết, không kịp mất rồi. Jennifer Chang.”

“Tiếc quá, muốn nghe ghê ấy.”

Hai người nọ chính là Hamazaki Kanae và Eiden Aya.

“Đáng lẽ mình nên đi cắt tóc vào hôm qua mới đúng.”

Aya oán trách lầm rầm.

“Đành chịu thôi, họ kín lịch hẹn rồi mà.”

Kanae an ủi cô em.

Họ chỉ đặt được lịch hẹn làm tóc vào sáng ngày hôm nay tại tiệm cắt tóc quen, nên lựa chọn qua đó làm tóc rồi mới tới Yoshigae. Ai dè lại không kịp giờ chuyến tàu shinkansen dự định ban đầu, đành đi chuyến tiếp theo và đến muộn. Hai cô muốn nghe màn trình diễn của ứng cử viên chức vô địch là Jennifer Chang, nhưng đã trễ mất một bước rồi.

“Còn ba người nữa thôi.”

“Thôi đợi nghe đĩa của Jennifer Chang vậy. Kiểu gì cũng có người sao ra đĩa ngay ấy mà. Nếu ta đặt sớm, có khi mai đã nhận được rồi ấy.”

Hai người đứng lặng ở lối ra vào. Đang bàn tính với nhau chuyện gì đó.

Cậu thiếu niên nhìn thấy gương mặt của Eiden Aya, liền giật thột.

Chị gái đêm qua.

Mình đã bị bắt gặp khi đột nhập vào phòng luyện đàn của trường đại học. Chẳng rõ chị ấy có nhớ mặt mình không nữa?

Thiếu niên lén lút kéo sụp cái mũ xuống.

“Ngồi đâu bây giờ?”

“Em muốn thử nghe độ vang của âm, ta ngồi chỗ trung tâm đi. Hội trường này có vẻ có độ cân bằng âm thanh khá tốt đó.”

Hai cô gái kia không hề để ý tới cậu bé, đi thẳng về phía trước và ngồi xuống khu ghế ở tầm chính giữa. Cậu thở phào, cả hai đều không chú ý thấy cậu.

Chị ấy chắc cũng là sinh viên khoa piano, tới nghe các màn trình diễn của cuộc thi này cũng không phải sự lạ. Hay chị ấy cũng dự thi nhỉ?

Cậu thiếu niên dõi theo bóng lưng của hai cô gái đã ngồi xuống ghế.

Đàn piano ở đó tốt thật.

Cậu thấy an tâm hơn, lại mơ tưởng tới cảm giác lúc được chạm vào cây đàn piano trong phòng tập.

Xứng là trường đại học âm nhạc. Đàn lên dây hay ghê. Cảm giác trơn mịn thích thật.

Thích ghê, họ được tập luyện mỗi ngày với cây đàn tốt như thế.

Cậu đang thầm chơi những giai điệu trong óc. Một cây đàn thật đỉnh với thứ âm thanh thật đỉnh.

Cậu thầm tái hiện thứ âm nhạc đó trong não bộ.

Nhưng khó đàn được đến cỡ đó lắm, cũng khó nghe thấy loại âm thanh nào tương tự.

Đúng là phải vào cỡ bác Yuuji cơ. Nếu muốn chơi ra được âm thanh đến mức đó.

Thiếu niên lắng tai nghe màn biểu diễn của thí sinh tiếp theo.

Mọi người đều giỏi nhưng vẫn không phải.

Thiếu niên lại một lần nữa nghiêng đầu.

Chị gái mặc đồ đỏ khi nãy cũng khá giỏi đấy.

Bằng một giọng líu ríu không để bất kỳ ai nghe được, thiếu niên ngâm nga giai điệu vừa nổi lên trong đầu mình.

Thích thật, mình cũng muốn chơi đàn. Phải đi kiếm đâu đó kiếm đàn mới được.

Màn biểu diễn của thí sinh đó tiếp theo đã hoàn thành, họ có một quãng giải lao ngắn. Còn hai thí sinh nữa là kết thúc ngày thi hôm nay.

Thiếu niên đứng dậy, hoà vào dòng khán giả bước ra bên ngoài.

Mình muốn có cây đàn quá đi.

Cậu thiếu niên dự tính ghé qua phòng luyện đàn xem sao. Ngày biểu diễn đầu tiên sắp kết thúc tới nơi, chắc chắn chẳng còn ai đợi tới lượt ở đó nữa. Nếu có cây đàn nào trống, cậu muốn chơi một chút.

Cậu bé hào hứng bước vào thang máy.

Giờ bố đang ở đâu vậy nhỉ?

Cậu chợt nhìn đồng hồ đeo tay, nhớ tới bố mình đang di chuyển trên đường. Cậu cảm thấy có lỗi vì không thể phụ giúp công việc cho bố trong thời gian cuộc thi diễn ra.

Chẳng biết bố có nhớ lời hứa sẽ mua đàn cho mình khi đoạt giải trong cuộc thi này không nhỉ?

Cậu lộ chút lo lắng. Bố cậu đã nói gì là sẽ giữ lời, nhưng lại là người hay quên. Nói ngắn gọn là một người quảng đại nhưng cục mịch. Hầu như ông chỉ chú tâm vào chuyện chăm lo cho đám ong, ngoài ra chẳng để ý tới điều gì khác nữa.

Nhà cậu không có đàn piano.

Hơn nữa, cậu bé không mảy may ý thức được điều đó khác thường tới độ nào.