VÒNG HAI L’APPRENTI SORCIER[67]
Từ sáng ngày hôm sau, ba ngày của vòng Hai bắt đầu khởi động.
Vòng Một kéo dài năm ngày với phần trình diễn của gần một trăm thí sinh, nên số lượng khán giả phân tách rất rõ ràng nhắm tới các đối tượng thí sinh khác nhau. Sang tới vòng Hai, không chỉ có người thân cận với các thí sinh mà số lượng khách thông thường đến nghe tất cả các bài dự thi đều tăng lên, số lượng khán giả cũng ổn định hơn. Bằng con mắt của người ngoài cuộc, ta cũng thấy được không chỉ trên sân khấu, mà dưới hàng ghế khán giả cũng tập trung hơn nhiều.
Thời lượng trình diễn trong vòng Hai dài gấp đôi vòng Một, giới hạn trong 40 phút. Đề bài như sau:
Một: Hai bản Étude của hai nhà soạn nhạc khác nhau: Chopin, Liszt, Debussy, Scriabin, Rachmaninoff, Bartók hoặc Stravinsky.
Hai: Một hoặc vài tác phẩm của Schubert, Mendelssohn, Chopin, Schumann, Liszt, Brahms, Franck, Fauré, Debussy, Ravel, hoặc Stravinsky.
Ba: Tác phẩm mới “Mùa xuân và Atula” do nhà soạn nhạc Hishinuma Tadaaki sáng tác riêng cho Cuộc thi piano quốc tế Yoshigae.
Các thí sinh khá lo ngại về cách kết hợp nhạc phẩm hiện đại hoàn toàn mới “Mùa xuân và Atula” vào nội dung biểu diễn của mình.
Ngay từ tiêu đề “Mùa xuân và Atula”, ta liền đoán ra được bản nhạc này dựa trên bài thơ cùng tên của nhà thơ Miyazawa Kenji [68] , và là một khúc nhạc gần như không có giai điệu. Với độ dài xấp xỉ chín phút, nó chiếm tới gần một phần tư thời lượng trình diễn, nên thứ tự chơi bỗng thành vấn đề lớn.
Đã vậy, khúc nhạc này mang lại ấn tượng khá khác biệt với các bản nhạc khác trong đề thi nên rất khó kết hợp. Hầu hết thí sinh đều lựa chọn đưa nó lên đầu hoặc xuống cuối phần trình diễn.
“Đơn giản thì đơn giản thật. Nhưng đưa vào đầu hay cuối còn phải dựa vào nội dung biểu diễn của từng người.”
“Nhưng mà, cấu trúc bản nhạc kiểu này cũng chỉ có cách đó thôi. Ta cần phải cân bằng với các khúc nhạc khác, mà hầu như đều là các bản nhạc dòng lãng mạn, bài này kiểu gì cũng trơ khấc ra đó.”
“Ừ, thật ra tớ cũng đưa bài đó lên đầu mà.”
Ở một góc thuộc mặt sau dãy ghế khán giả, Masaru và Aya đều cầm tập chương trình bằng một tay, xầm xì trò chuyện. Masaru sẽ dự thi vào ngày mai, còn Aya vào ngày thứ ba. Hai người đều thích nghe các màn trình diễn khác nên mới hẹn nhau nghe từ thí sinh đầu tiên. Hôm trước, hai đứa đã trao đổi địa chỉ email, nên hẹn nhau ở hội trường luôn.
Thí sinh số một, Alexey Zakayev đã phải đợi qua chín mươi lượt để được quay trở lại sân khấu, mang vẻ mặt thư giãn và cho ra một màn trình diễn thoải mái, nhận được những tràng pháo tay vui vẻ trước khi rời khỏi sân khấu.
Hôm nay Kanae cũng phải về Tokyo, dự định sẽ quay lại vào tối mai.
So với thí sinh như mình, chị Kanae cứ phải đi đi về về suốt thế này thật vất vả. Chắc chị ấy sẽ thông báo cho thầy Hamazaki hay tin. Thôi thì ít nhất có thể báo tin vui đã qua được vòng Một là tốt rồi.
Aya chăm chú xem xét nội dung trình diễn của Masaru.
“Tớ thấy nội dung diễn của Ma-kun tập trung vào những bản nhạc khá tĩnh lặng, nên đặt ‘Mùa xuân và Atula’ lên đầu là được quá rồi còn gì.”
“Không hổ là A-chan. Cậu nắm bắt được ý tớ đấy.”
Gương mặt Masaru lộ rõ vẻ vui mừng.
“Ma-kun, điều đáng quan tâm hơn là thời gian của cậu có vẻ sít sao đó? Nhiều khi không thể căn chuẩn thời gian cho các khúc biến tấu đâu.”
Nội dung trình diễn vòng Hai của Masaru có một khúc biến tấu khá dài của Brahms ở cuối cùng. Chơi vu vơ khúc này cũng phải tới gần hai mươi lăm phút. Phải kết hợp nó với ba khúc nhạc khác trong vòng bốn mươi phút là khá sít sao.
“Không sao, chơi nhanh một chút là không sợ trễ giờ đâu. Tớ ít trật nhịp lắm. A-chan lại cho ‘Mùa xuân và Atula’ vào giữa cơ à. Dũng cảm ghê. Ngay sau ‘Feux follets’ à.”
“Ừ, kiểu kết nối vũ trụ hay kết nối khí tượng đó. Tớ thử sắp xếp theo ý đồ như vậy.”
“Hừm. A, ‘Variations sérieuses’ của Mendelssohn. Tớ cũng khá thích.”
Khi cùng Masaru trò chuyện và xem xét về nội dung biểu diễn của nhau thế này, Aya một lần nữa cảm thấy thầy Watanuki giỏi đến thế nào. Câu nói vô tình và nét mặt thầy khi nói câu đó chợt hiện về trong tâm trí.
Ngạc nhiên ghê, hai đứa có điểm gì đó khá giống nhau.
Cô thấy mình và Masaru có cảm nhận về các bản nhạc và cách sắp xếp khung biểu diễn rất giống nhau. Hai đứa đều thích nghe người khác trình diễn, cũng thích tận hưởng cuộc thi mình tham dự ở một mức độ nào đó. Nhất là, cô không thể giải thích rõ nhưng hai đứa mang quan niệm về âm nhạc khá tương đồng.
“Ma-kun chọn bản hòa tấu No.3 của Prokofiev à?”
Bản hòa tấu trong vòng Chung kết cũng là bản nhạc tổng kết cả cuộc thi. Vì đó thường là bản nhạc mình muốn có cơ hội chơi, các thí sinh hay chọn những bài hát bản thân ưa thích.
“A-chan chọn bản No.2. Có vẻ ít người chơi bản No.2 trong cuộc thi nhỉ?”
“Vậy hả?”
Cô bỗng giật mình.
Aya bất chợt nhớ ra cái lần mình đáng phải lên sân khấu nhưng lại chạy biến mất. Lúc đó, cô cần phải chơi bản hòa tấu No.2 của Prokofiev.
Chẳng lẽ cô đã vô thức chọn nó?
Aya hấp tấp xóa ngay suy nghĩ đó.
“Tớ thích tất cả các bản hòa tấu của Prokofiev. Prokofiev mang lại ham muốn nhảy múa.”
“Nhảy múa?”
“Ừ. Nếu là vũ công, tớ sẽ muốn nhảy múa. Không phải là kiểu nhạc sàn, tớ cảm thấy ta có thể nhảy múa với nhạc của Prokofiev. Hồi bản No.2 mới được đem ra trình diễn, phản hồi của người nghe có vẻ cực kỳ tệ hại. Diaghilev nghe bản nhạc đó liền chọn làm nhạc nền diễn ba lê cũng đáng nể thật.”
“Phải đấy. Hồi nghe bản No.3, tớ đã tưởng tượng tới những phim giả tưởng về không gian vũ trụ kiểu ‘Star Wars’ [69] .”
“Tớ hiểu, nó chính là vũ trụ mà. Còn bản No.2 là dạng noir [70] .”
“Phải, phải. Kiểu xung đột của thế giới ngầm.”
Hai đứa nhìn nhau cười khì khì.
Aya cảm thấy một sự ngỡ ngàng mới mẻ. Rất khó kiếm được người chia sẻ cùng hình ảnh về âm nhạc với mình kiểu này lắm.
“Nếu là Ma-kun, tớ thấy bản No.3 của Rachmaninoff cũng ổn.”
“Ừm. Không tính bản No.1 và No.2, tớ không có hứng thú với bản No.3 lắm. Tớ cảm giác ý thức tự giác của người nghệ sĩ sẽ bị rò rỉ ra ở nửa sau bản nhạc. Bởi vì nhận ra từ bản No.2, Rachmaninoff mới dặn mình rằng ‘Phải ưu tiên viết một khúc nhạc mình có thể chơi và mê đắm nó.’ Ông đã phải cố kiểm soát cái tôi cá nhân quá mức ở hai bản No.1 và No.2 nhưng tới bản No.3 thì bung hết mất.”
Aya thộn mặt.
“Ma-kun... cái từ ‘rò rỉ’ trong tiếng Nhật, cậu nhớ được từ đâu thế?”
“Từ mấy du học sinh người Nhật ở Juilliard. Tớ cũng mượn khá nhiều truyện tranh Nhật nữa, cố gắng học để không quên mất tiếng Nhật đó.”
Nhờ thế cậu ấy mới nói tốt thế này sao. Kho từ vựng của Masaru khiến cô không khỏi ngỡ ngàng.
“Xem nào, hoàng tử ong mật chọn Bartók No.3 à. Ra vậy, Bartók. Hợp với cậu bé đó đấy.”
Hoàng tử ong mật. Kazama Jin. Masaru có vẻ cũng chú ý tới cậu bé đó.
“Cậu bé đó giỏi thật nhỉ.”
Sự hưng phấn trong vòng Một quay lại. Masaru cũng dứt khoát gật đầu.
“Ừ. Tớ chưa từng thấy âm sắc nào chói lọi tới mức đó.”
“Tớ cứ có cảm giác em ấy được thần âm nhạc yêu thương.”
“Đúng đấy. Nhưng nghe đồn cậu bé đó không được Ban giám khảo đánh giá cao.”
“Ơ, sao thế?”
Aya kinh ngạc. Không thể tin nổi. Cậu bé đã khiến khán giả phát rồ lên như vậy mà.
“Có lẽ không phải ai cũng thích sự chói lọi đó. Vài người còn chỉ trích phiên bản Bach đó quá gợi tình. Trong một cuộc thi, thế là đủ mất điểm rồi.”
Masaru bình thản.
“À, ra vậy.”
Sự lo lắng mơ hồ dâng lên. Cuộc thi cũng là nơi nén ép lại đủ thứ “miệng lưỡi thiên hạ”. Một màn trình diễn tuyệt vời, độc đáo đến như vậy còn không được công nhận, thì thế nào mới gọi là tài năng.
“Tớ cũng từng cân nhắc tới bản hòa tấu của Bartók, nhưng còn phải xem dàn nhạc nữa.”
Aya nhắm vào một điểm trong câu lầm bầm của Masaru.
“Dàn nhạc?”
Masaru gãi mũi.
“Tớ có mua về nghe một số đĩa CD gần đây của dàn nhạc sẽ hỗ trợ mình hòa tấu, nhưng tớ cảm giác phần nhạc cụ hơi của họ hơi yếu... Mà hình như các dàn nhạc của Nhật đều có xu hướng như vậy.”
“Kỳ lạ ghê, rõ ràng là số lượng người chơi nhạc cụ hơi đang tăng lên.”
“Phải chơi Bartók với một dàn nhạc có khả năng chơi nhạc cụ hơi thật đỉnh, không thì khó tạo được hiệu ứng. Ta có thể cố gắng bù vào phần nào, nhưng nếu không có nhạc cụ hơi cùng phối âm trong thời gian dài thì không ra được độ vang.”
Cậu ấy còn tìm hiểu về dàn nhạc sẽ chơi cùng trong Chung kết nữa.
Aya rùng mình trước sự tỉ mỉ của Masaru. Cậu ta không chỉ là một chàng trai tốt, mà còn là một chiến lược gia. Phần lớn thí sinh đều chỉ mong lọt vào đến Chung kết, chắc chẳng có tâm trí đâu tìm hiểu tới tận dàn nhạc.
“À phải, Ma-kun hình như cũng giỏi kèn trombone?”
Masaru ngạc nhiên quay phắt sang.
“Cậu nghe từ ai vậy?”
“Hình như ai đó trên trường nhạc từng nhắc.”
Mạng lưới thông tin của trường đại học âm nhạc không thể xem thường.
“Tớ muốn chơi thử các nhạc cụ ngoài bộ dây phím. Người ta khen cánh tay tớ dài dễ bấm nốt, tớ bèn chơi thử kèn trombone và thấy cũng thú lắm. Giờ thi thoảng vẫn thổi đó. Hồi từ bỏ piano, A-chan có chơi gì khác không?”
Câu trả lời của Masaru khiến Aya ngạc nhiên vì cậu bạn đã biết rõ tình hình của mình. Vụ này cũng là tai tiếng trong giới nhạc, chắc đã lỡ lọt vào tai cậu ấy. Aya bèn nhún vai.
“Tớ chỉ từ bỏ biểu diễn, đâu có từ bỏ piano. Tớ tham gia ban nhạc fusion [71] , rồi ban nhạc jazz. Tớ khá thích ghi ta, nên từng thử chơi. Nhưng dạo gần đây chẳng động vào nữa rồi.”
“Ghi ta cổ điển hả?”
“Không, ghi ta jazz. Tuy chỉ chơi phong trào thôi, bắt chước Pat Metheny hay Joe Pass [72] ấy mà.”
Đúng rồi, mình cũng từng có thời như thế. Chìm đắm vào đủ thứ khác cho tới tận lúc vào trường nhạc.
“Hê. Tớ muốn nghe A-chan chơi ghi ta quá.”
“Tớ chơi dở lắm. Vả lại, ghi ta vẫn hợp với con trai hơn. Nhất là hai dòng rock với jazz đó.”
“Cũng chưa biết được.”
“Biết được chứ. Tớ nói nhỏ thế này nhé, khi tớ chơi ghi ta lần đầu tiên có cảm giác của con trai đó.”
Masaru khoan khoái cười ha hả.
“Vậy, A-chan sang New York chắc cũng nhập bọn được với nhóm bên đó đấy.”
“A ha ha, có lẽ.”
Chợt, Masaru nghiêm mặt nhìn Aya chăm chú.
“Tớ bảo thật đó, A-chan. Khi cuộc thi này kết thúc.”
“Tới Juilliard?”
“Không chỉ Juilliard.”
“Không chỉ?”
“Không có gì.”
Masaru nhìn về phía trước.
Không chỉ Juilliard.
Aya dặn mình không nên suy nghĩ sâu xa làm gì, liền đổi chủ đề.
“Tiếp theo là tới lượt bạn của Ma-kun nhỉ.”
“Ai cơ?”
“Jennifer Chang. Cô bạn đó cũng là ứng cử viên chức vô địch còn gì? Tớ đã muốn nghe màn trình diễn của cô ấy ở vòng Một mà bỏ lỡ mất.”
Masaru “à” lên, gật đầu.
“Cô nàng đó khá đấy. Sức mạnh và kỹ năng ghê gớm lắm. Có lẽ khá thích hợp với thi thố.”
Cô cảm thấy lời của Masaru còn ẩn ý khác.
“Tớ muốn nghe bình luận của A-chan về màn diễn của cô ấy.”
Cánh cửa xoay bật mở, Jennifer Chang cao lớn khoác trên người bộ váy đỏ tươi tắn bước ra. Những tiếng hò reo vang lên, cùng tràng pháo tay khá lớn.
“Oa, lại là váy đỏ. Hợp ghê.”
“Hình như cô gái này luôn mặc các bộ trang phục tông đỏ khác nhau khi thi thì phải.”
“Hê. Chắc là màu chiến thắng đó.”
Giữa những tiếng vỗ tay, Chang đường hoàng bước ra gườm gườm nhìn xuống hàng ghế khán giả, rồi tiến về phía cây đàn piano.
Nội dung biểu diễn của Chang cũng khởi đầu với “Mùa xuân và Atula”.
Tuy cũng đặt “Mùa xuân và Atula” lên đầu như Masaru, nhưng cô nàng này lại mang tới ấn tượng khá thú vị kiểu đặt lên đầu để “nhanh chóng xử lý thứ phiền phức”. Nội dung biểu diễn cũng bộc lộ cá tính con người là có thực.
Mọi người chắc cũng tập trung chú ý xem bản nhạc “Mùa xuân và Atula” lần đầu tiên được trình diễn trên khắp thế giới sẽ được Chang chơi theo kiểu gì. Các tác phẩm mới thường không có hình mẫu sẵn, nên nghe người khác chơi cũng là một cách tham khảo. Đối với các thí sinh, càng nghe được nhiều mẫu thử càng có lợi.
Khả năng tái hiện tổng phổ hoàn hảo. Ra vậy, còn cách lý giải này nữa.
Aya khá hứng thú với cách lý giải rõ ràng của Chang.
Khi chơi các tác phẩm của nhà soạn nhạc người Nhật, người ta thường có xu hướng chấp nhận nguyên sự mơ hồ trong đó và biểu diễn theo kiểu ậm ờ “Có vẻ là vậy”. Ngược lại, người Tây Âu lại hay tái hiện theo hình tượng về “thiền”.
Tuy nhiên, Chang đối diện với tổng phổ bằng sự bình tĩnh, không buông thả theo kiểu tùy ý, mà dồn sức tái hiện bản nhạc rõ theo một hình thù cụ thể. Vũ trụ quan của Miyazawa Kenji, hay nói cách khác là từng âm từng nốt thể hiện chủ đề vạn vật tự nhiên, dường như đã được cô ấy thuyết minh theo ý riêng. Chính tại điểm này, sự logic trong tư tưởng và tính cách được lột tả rõ từ nhiều khía cạnh.
Đây có thể coi là một bản mẫu của khúc nhạc này nhỉ.
Aya quan sát Chang hoàn thành bản nhạc đầu tiên.
Tiếp đó, cô ấy sẽ chơi mấy bản nhạc đắc ý của mình chăng, luyện khúc của Chopin và Liszt xét ra đều là các khúc nhạc khó.
Đúng như tưởng tượng, màn trình diễn năng động tuyệt vời diễn ra, sự phấn khích không thành lời của khán giả càng lúc càng dâng lên.
Aya vẫn thấy hứng thú nhưng lại sớm tỉnh táo hơn.
Cô thấy sự năng động nhưng đơn điệu. Dù kỹ năng rất giỏi. Giống như nhét đầy bụng những món ngon, không thể nhồi thêm được nữa.
Aya cảm giác mình hiểu được điều Masaru muốn nói.
Vốn Aya không phải dạng hay lắng nghe và phân tích mổ xẻ màn trình diễn của ai đó. Cô thích làm một khán giả, vô tâm thưởng thức. Cô nghĩ là vì Masaru đã bảo “Tớ cũng muốn nghe bình luận của A-chan” nhưng dường như không phải vậy.
Aya nhận thấy một hình tượng kỳ lạ đang lơ lửng trong óc mình nãy giờ.
Đó chính là mấy anh chàng đô con đang chơi bóng chuyền. Hơn nữa, chẳng hiểu sao lại là hình ảnh con át chủ bài của đội đang làm một cú tấn công đảo ngược ngoạn mục nhưng lại bị đọc bài và chặn lại.
Thật ra, Aya khá thích xem thể thao. Chuyển động của các vận động viên hàng đầu có điểm chung với thứ âm nhạc đẹp đẽ, và đôi lúc còn nghe thấy tiếng nhạc rất rõ ràng.
Cô không rõ vì lý gì mà Chang mang lại hình ảnh đó, nhưng trong tưởng tượng kia, màn tấn công ngược rất mạnh mẽ nhưng phong cách tấn công đơn điệu nên bị chặn đúng thời điểm và không thể tạo được thế uy hiếp.
Ra là thế.
Aya thầm gật gù trong dạ.
Dù nhảy lên điểm cao nhất và đánh bóng ở ngưỡng người thường không làm nổi cũng chẳng quyết định được điều gì. Người ta ấn tượng với sức mạnh thể chất tuyệt vời, nhưng vẫn là cú đánh không thành. Hay nói cách khác, không khiến ai cảm động.
Màn trình diễn năng động nhiệt thành đến thế mà sao lại vậy nhỉ?
Aya nghiêng đầu thắc mắc.
Cô chợt nhớ tới lời phát biểu của một đạo diễn điện ảnh về phim Hollywood gần đây, không phải là nghệ thuật giải trí mà là trò chơi cảm giác mạnh. Màn trình diễn của Chang mang lại cảm giác gần tương tự.
Từ đầu thế kỷ XX, chúng ta bị nhét vào giữa hai cuộc đại chiến... Nói cách khác, thời điểm trước và sau đó, giới âm nhạc cổ điển của châu Âu đã tổn thất rất nhiều nhân tài vì họ đã chết hoặc chuyển sang Mỹ sinh sống. Tài năng hiển nhiên sẽ bị hút về phía tập trung nhiều tiền tài và quyền lực. Từ khi nước Mỹ giàu có trở thành một thị trường âm nhạc khổng lồ, tốt xấu gì cũng có khả năng truyền bá được âm nhạc cổ điển. Cầu nhiều cũng tạo lợi thế cho cung.
Ví dụ dàn nhạc có thể chọn những bản nhạc phù hợp với họ, người chơi piano cần trình độ kỹ thuật siêu việt và từng hạt âm thanh rõ ràng hoàn hảo. Nó khác với những phòng trà chỉ chơi trước mặt những khách hàng độc quyền, họ cần loại âm thanh lớn và rực rỡ có thể vang tới mọi góc của hội trường, đáp ứng được số lượng lớn khán giả. Đương nhiên, các nghệ sĩ cũng phải đáp ứng được mong muốn của thị trường, mà tập luyện các màn trình diễn thỏa mãn xu hướng đó.
Các nghệ sĩ đã sớm không cần phải ứng biến, khán giả sẽ đi nghe những bản nhạc nổi danh mà họ sẵn biết. Họ không có hứng thú với những khúc nhạc khó hiểu hay các bản nhạc mới, càng tránh xa những màn trình diễn có chất riêng.
Sự phát triển của đĩa CD tạo thêm đà thúc đẩy xu hướng này.
CD vốn được biết là đã lọc bớt những quãng cao tần và thấp tần thường không phải lúc nào tai người cũng nghe thấy được và chỉ tái hiện lại phần thu âm được. Đồng thời, tính bản địa và các sắc thái đã truyền đời của châu Âu mà các nghệ sĩ trình diễn mang trong người cũng bị tước đi và bỏ bẵng.
Chang là một nghệ sĩ piano thể hiện rõ những gì khán giả của thị trường âm nhạc Mỹ mong muốn. Có thể nói vấn đề không nằm ở chỗ tốt hay xấu, mà là sự tồn tại sinh ra từ yêu cầu của thời đại và quần chúng.
Chang đã chơi xuất sắc bốn mươi phút, kết thúc vòng Hai của mình.
Khán giả nhiệt tình hân hoan cổ vũ.
Thí sinh được phép quay lại chào khán giả từ vòng Hai. Chang vừa rút vào trong cánh gà liền xuất hiện trở lại, nở nụ cười hào phóng đáp lại những tràng pháo tay của khán giả. Cô gái cao ráo trong bộ váy đỏ khẽ gập người chào khán giả, mang vẻ quyến rũ không gì sánh nổi.
“Cậu thấy sao?”
Giữa những tiếng vỗ tay không ngớt, Masaru thì thào vào tai Aya.
“Cô ấy chắc chơi gì cũng được nhỉ. Mạnh mẽ kinh hồn.”
“Thấy chưa.”
“Giống như được đi chơi Disneyland ấy. Tớ cảm tưởng như đang cưỡi lên Big Thunder Mountain [73] . Hệt như trò chơi cảm giác mạnh.”
Masaru im bặt trong chốc lát, tái mặt nhìn Aya.
“A-chan, cậu vừa nói ra một điều cực kỳ đáng sợ.”
“Ơ, vậy hả?”
Gương mặt Masaru hiện lên vẻ trầm tư.
“Ừ, nhưng cậu nói đúng... Cô nàng đó là trò chơi cảm giác mạnh. Đúng rồi, tớ vẫn luôn tìm kiếm từ miêu tả đích xác màn biểu diễn của cô ấy, trò chơi cảm giác mạnh à. Thuyết phục đấy.”
“Khán giả thì vui sướng, lại mang tính đại chúng.”
“Lỡ mà nói ra với cô nàng, chắc cô ấy nổi sùng lên mất. Đối với nghệ sĩ, đó là một câu xúc phạm. Nhưng rất đúng trọng điểm.”
Aya bỗng thấy lo lắng.
“Cậu đừng kể cho cô ấy chuyện tớ nói ra nhé.”
“Đương nhiên, tớ nói làm gì.”
Câu trấn an của Masaru giúp cô nhẹ nhõm hơn.
“Bản ‘Mùa xuân và Atula’ của cô ấy tuyệt đấy chứ. Tớ có cảm giác như đây là lần đầu tiên mình định hình được cấu trúc bản nhạc đó.”
“Ừ, tớ cũng thấy vậy. Một ưu điểm của cô nàng này là có thể diễn giải các khúc nhạc theo hướng lập thể.”
“Tớ cũng thích phần cadenza [74] . Chẳng rõ có phải cô ấy tự sáng tạo ra không.”
“Không đâu, tớ đồ rằng đó là do thầy Boleyn của cô nàng viết cho đấy. Cô nàng này kém khoản ứng tấu lắm. Nhưng nhiều thí sinh học vẹt theo kiểu đó mà.”
Trong “Mùa xuân và Atula” có phần ngẫu hứng được chỉ thị “cảm nhận vũ trụ một cách tự do”.
Cảm nhận vũ trụ, một cách tự do ư. Những kẻ luôn sống ở dưới đáy của bầu khí quyển, còn không cảm nhận được tầng bình lưu như chúng ta thì làm thế nào để cảm nhận vũ trụ đây.
Aya đã thử nhiều cách tiếp cận khác nhau để diễn giải “Mùa xuân và Atula” nhưng cô vẫn còn băn khoăn không biết chơi theo cách lý giải nào.
Đứa trẻ đó - Kazama Jin - chắc sẽ cảm nhận được vũ trụ như một điều hiển nhiên.
Hình ảnh thiếu niên bất chợt ùa vào tâm trí. Không phải là hình ảnh lúc ở trên sân khấu, mà là lúc cậu bé đội mũ và mặc thường phục khi cô tình cờ bắt gặp trên trường đại học.
“Phần cadenza của Ma-kun là do tự cậu sáng tạo ra hả?”
Nét mặt của Masaru chẳng khác nào nói rằng giờ cậu còn hỏi điều gì thế hả.
“Đương nhiên rồi. A-chan cũng vậy mà?”
“Ừ. Nắm được hết bản nhạc rồi chứ?”
“Cũng tạm. Tớ nghe nhiều người biểu diễn, cũng nghiên cứu thêm được một ít.”
“Vậy sao. Đúng là bình thường sẽ làm vậy nhỉ.”
Masaru bỗng giật mình nhìn Aya.
“A-chan vẫn chưa nắm được bản nhạc sao?”
“Ừ. Tớ đã mở khá nhiều hướng suy nghĩ, nhưng vẫn đang băn khoăn chưa quyết được. Tớ quyết định sẽ biểu diễn dựa vào cảm giác lúc lên sân khấu.”
Aya gật đâu liền, Masaru cất tiếng kêu trời.
“Một phát ăn luôn? Cậu thật sự tính chơi ứng tấu đó hả?”
“Ừ. Bởi vì tổng phổ cũng ghi rõ như thế mà.”
Gương mặt Masaru đầy vẻ ngỡ ngàng.
“Ta đang thi đấy... cậu nói mấy lời đáng sợ thật đó, A-chan. Giáo viên của cậu không nói gì sao?”
“Có chứ.”
Aya nhớ lại vụ việc khi đó.
Dù ghi rõ là chơi ngẫu hứng, hầu như nghệ sĩ đều chơi phỏng theo một phiên bản có sẵn đối với các tác phẩm cổ điển.
Khi đề cập đến phần cadenza của “Mùa xuân và Atula”, giáo viên phụ trách hiểu rõ Aya có khả năng cảm thụ bản nhạc rất tốt, nên hoàn toàn không phản đối chuyện Aya tự tạo ra một sản phẩm của riêng mình. Nhưng khi Aya bảo rằng sẽ chơi tùy theo cảm xúc lúc lên trình diễn, giáo viên lại phản đối gay gắt. Còn nói không thể mang cách chơi đánh cược đó vào cuộc thi được.
Nhưng thầy ơi.
Aya nói.
Có ngày mưa cũng có ngày gió, yêu cầu tự do thoải mái cảm nhận vũ trụ, nhưng cứ phải luyện tập lặp đi lặp lại cảm giác hiện tại của mình về vũ trụ chẳng phải đi trái lại chỉ dẫn trên tổng phổ sao ạ?
Aya nói “ví dụ như này” rồi chơi liền năm phần cadenza khác nhau dành cho “ngày mưa”, “thu đẹp”, “ngày bão” và “đêm mưa sao băng Leonids”.
“Thế là, thầy giáo liền im lặng, kệ tớ thích làm gì thì làm.”
Masaru lắng nghe lời giải thích của Aya, nhìn chằm chằm vào gương mặt cô bạn.
“A-chan, cậu đúng là...”
“Đúng là gì?”
Aya vặc lại, nhưng Masaru chẳng nói thêm gì. Cậu quan sát vẻ mặt nghi ngờ của Aya một lúc lâu rồi phì cười, vẻ mặt cũng trở nên hòa hoãn hơn.
“Đúng là cậu. Đó cũng chính là A-chan.”
Cậu đang cười như vậy, nhưng gương mặt vẫn có chút chua xót.
“Thật tình. Nếu không phải dự cùng một cuộc thi thì tốt quá.”
Aya bật “à” lên.
Hai đứa cùng im lặng.
Mỗi người đều ẩn chứa loại âm nhạc khác nhau, nhưng vài ngày nữa sẽ có thêm người bị đánh trượt. Họ sẽ bị phân ra thành những người được chọn và không được chọn. Những thứ đáng ra không nên so sánh lại bị đem ra so sánh với nhau và phân thành thứ tự.
“Cuộc thi thật là thứ bất công.”
Aya lẩm bẩm lẫn với tiếng thở dài, Masaru lại bật cười ha ha.
Hai người đồng loạt nhìn về phía trước, ánh mắt neo lại chỗ sân khấu.
“Đừng nói mấy chuyện đó nữa. Bọn mình biết rõ điều này mà vẫn tham gia còn gì.”
Masaru nói bằng giọng khô khốc.
“Phải.”
Aya đáp cộc lốc.
Hai đứa nhìn thẳng về phía trước, im lặng cho tới khi tiếng chuông báo hết giờ nghỉ giải lao vang lên.