BẢN SONATA CUNG SI THỨ
Khung trình diễn kéo dài một tiếng.
Thời lượng được chia bình đẳng cho cả thảy mười hai thí sinh.
Nội dung lại vô hạn. Bạn được tự do lựa chọn khúc nhạc. Tự do kết hợp theo ý thích.
Thời nay, ta có thể pha trộn đủ thứ âm nhạc của mọi thời đại. Từ Bach của thế kỷ XVII cho tới Shostakovich của thế kỷ XX... có thể chơi hết di sản từ các bậc tiền nhân hơn ba trăm năm trước truyền lại.
Nhưng nhìn vào những nghệ sĩ piano chuyên nghiệp hiện tại, mà phải nói là kể cả các nghệ sĩ piano chuyên nghiệp... hoặc chính từ các nghệ sĩ piano chuyên nghiệp... không phải ai cũng có thể chơi được một khung trình diễn đúng như mình mong muốn.
Chưa chắc thính giả đã muốn nghe đúng những bản nhạc người nghệ sĩ muốn đàn. Tỉ dụ, thứ được gọi là âm nhạc đương đại hay bị khán giả “bình thường” xa lánh. Các ban tổ chức biểu diễn độc tấu thường yêu cầu không đưa nhạc đương đại vào khung trình diễn, hoặc đa phần sẽ đẩy các nhạc khúc nổi tiếng của Chopin hay Beethoven lên trước chào hàng rồi mới chèn thêm nhạc đương đại.
Một khi trở thành nghệ sĩ piano nổi tiếng, số lượng người hâm mộ cũng rộng mở hơn. Nhằm bán được nhiều vé và lấp đầy các hội trường quy mô lớn, họ cần tập trung vào các nhạc phẩm mà phần lớn khán giả muốn nghe.
Dựa trên các khung trình diễn in trên mặt báo, tạp chí hay tờ rơi, bạn có thể nhìn ra sự giằng co giữa những nhạc khúc khán giả muốn nghe và nghệ sĩ piano muốn chơi. Ta càng có thể nhìn thấu tư tưởng của bên bán vé và việc họ mặc cả với các nghệ sĩ ra sao.
Xét về điểm này, cuộc thi có thể là nơi ta thử nghiệm đủ loại khung trình diễn mà không cần phải quan tâm tới doanh số, cũng có thể là chốn mạo hiểm nhất để thử thách giới hạn kỹ thuật chơi của chính mình.
Masaru không khỏi nghĩ tới điều này nơi cánh gà.
Cậu muốn trở thành một nghệ sĩ có thể dung hòa được những bản nhạc mình muốn chơi với những bản nhạc khán giả muốn nghe.
Đó là điều cậu nghĩ tới.
Cũng tức là cậu phải trở thành một nghệ sĩ piano có khả năng khiến khán giả cũng thích thú với bản nhạc mà mình có hứng thú. Trở thành một nghệ sĩ piano có khả năng khơi gợi tối đa sức hấp dẫn riêng biệt của từng bản nhạc.
Masaru vẫn chưa tâm sự với bất cứ ai về chuyện này, nhưng đó là tham vọng thầm kín của cậu.
Đó chính là việc tạo ra các tác phẩm cổ điển “mới” như những nhà soạn nhạc được xưng tụng là “cổ điển”. Cậu muốn tạo ra những nghệ sĩ - nhạc sĩ “mới”.
Chopin, Schumann, Brahms, Rachmaninoff, Scriabin, Bartók.
Họ đều là những nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc xuất sắc. Nếu có thêm nhiều nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc như vậy trong thời hiện đại không phải tốt sao?
Tất nhiên cậu không nghĩ mình có thể sánh vai ngang hàng với họ. Chỉ cần chơi tử tế những bản nhạc của tiền nhân là tiêu tốn nguyên một đời cũng không thể đủ, và người khác cũng vẫn nhắc nhở cậu phải ưu tiên chuyện đó.
Hiện giờ vẫn có nhiều nghệ sĩ piano làm công việc soạn nhạc nhưng không nhiều người chú trọng vào nhạc cổ điển. Những người đó thường bị bó hẹp trong bối cảnh của âm nhạc đương đại, hoặc giới hạn ở các dòng nhạc phim hoặc nhạc dễ nghe.
Cậu chưa từng thấy nghệ sĩ piano cổ điển nào biểu diễn nhạc khúc do chính mình sáng tác.
Mặc dù số lượng nghệ sĩ piano có kỹ thuật tuyệt vời rất nhiều, Masaru vẫn luôn thắc mắc tự hỏi tại sao trong số nghệ sĩ bậc thầy như thế lại không xuất hiện được nghệ sĩ piano - nhà soạn nhạc nào.
Mà có sản sinh ra được thì phần lớn cái gọi là “âm nhạc đương đại” lại dành cho chính các nhà soạn nhạc và các nhà phê bình, xoay xở trong một không gian rất nhỏ. Chúng đều không phải là những bản nhạc khiến người khác nhất thiết muốn chơi, hay nhất thiết muốn lắng nghe.
Chẳng lẽ không có nghệ sĩ dương cầm nào kết nối chúng lại?
Masaru đã luôn nghĩ tới điều này. Tuy nhiên, ngay cả con người được xưng tụng là thiên tài đam mê tự do và thích vượt qua ranh giới của âm nhạc như Friedrich Gulda cũng chọn cho mình con đường sáng tác riêng với tư cách nghệ sĩ piano - jazz. Mặc dù ông thể hiện được một số trường phái nhạc chính thống hiếm có của Vienna, nhưng vẫn bị coi là kẻ lập dị và đẩy ra ngoài lề giới piano cổ điển. Tiền nhân đã trói buộc chúng ta bằng những thứ bùa chú mạnh mẽ, độ khó quá cao.
Hy vọng một lúc nào đó mình có thể vượt qua được.
Masaru thầm ôm ấp ước mơ đó.
Cậu muốn sáng tác ra những tác phẩm dành cho piano, muốn bán thứ âm nhạc riêng và muốn các nghệ sĩ piano khác chơi những bản nhạc của mình.
Chắc chắn cậu sẽ phải đương đầu với sự phản kháng mạnh mẽ. Người đời sẽ coi đó là láo xược, là ăn chơi đàng điếm.
Nhưng dần dần sẽ có những nghệ sĩ piano kiêm nhà soạn nhạc khác tiếp bước mình. Những bản nhạc “cổ điển” mới sẽ tiếp tục được chơi trong những thế kỷ sau này.
Cậu không thể kìm nén suy nghĩ này.
Tiếng chuông khởi diễn bất chợt lọt vào tai.
Ái chà chà, mình vẫn còn đứng ở ngưỡng cửa lên con đường chuyên nghiệp, đã dám ôm những mộng ước cao xa vời đến thế. Lỡ kể cho thầy nghe, chắc bị cười thối mũi.
Masaru cười nhạt.
Đầu tiên phải hoàn thành tốt nhất trong một tiếng trước mắt đã.
Khi nhận thấy nét mặt thoáng vẻ thắc mắc của quản lý sân khấu Takubo trước điệu cười của Masaru, cậu vội vàng lấy lại vẻ mặt bình thường.
“Đến giờ rồi.”
Takubo điềm đạm nói vậy.
“Chúc may mắn.”
Cậu đã nghe câu này tới lần thứ ba.
“Cháu cảm ơn chú.”
Masaru cười đáp lại Takubo lần thứ ba, bước ra ngoài sân khấu đầy ánh sáng.
Khúc nhạc đầu tiên trong vòng Ba của Masaru là bản Sonata của Bartók.
Đột ngột, bản nhạc bắt đầu bằng một loạt tiếng gõ náo động mà hung tợn, kéo tuột khán giả vào một thế giới khác.
Cậu đã quyết định chọn bản nhạc này làm khởi đầu cho vòng Ba từ rất lâu.
Lấy một bản nhạc hiện đại và mang tính tiên phong làm phần dẫn nhập, khiến kẻ khác ngỡ ngàng, đập tan hình tượng ngọt ngào về Masaru.
Hồi còn sống, Bartók đã nhắc đi nhắc lại rằng piano vừa là nhạc cụ bộ dây vừa là nhạc cụ bộ gõ.
Chắc hiếm người biết rằng piano là loại nhạc cụ thuộc bộ gõ. Chỉ cần nhòm vào bên trong nó và thấy những chiếc búa gõ ra những âm thanh với tốc độ nhanh hơn cả mắt nhìn, bạn sẽ tự hiểu ra rằng đây là một nhạc cụ thuộc bộ gõ. Còn chỉ nhìn vào bàn phím, ta sẽ dễ quên đi chuyện đó.
Nhưng khởi đầu từ khúc nhạc này, những khúc nhạc của Bartók đã nhắc nhở cho mọi người rằng piano là một nhạc cụ bộ gõ và người ta “đánh” đàn piano.
Vì vậy, Masaru sẽ “đánh” lên phím đàn thay vì “nhấn” phím trong bản nhạc này.
Đúng, đầu óc cậu đang tưởng tượng tới hình ảnh đánh nhịp trên chiếc đàn marimba [110] . Những đầu ngón tay vươn dài thành mười chiếc vồ, và phần cổ tay đang hoạt động hết sức linh động để đánh lên từng phím.
Cậu đang cố gắng tái tạo sự đàn hồi nhịp nhàng và tính nhẹ nhàng như chạy nước rút đầy đặc trưng của marimba.
Các nhạc cụ bộ gõ cần người chơi đánh dứt khoát, không chút chùn tay. Chỉ cần một chút chần chừ, cái cốt lõi của sức mạnh bị lơi lỏng thì nhịp điệu của âm thanh sẽ tan biến và tốc độ cũng mất đi theo.
Vì thế, Bartók đôi khi rất dữ dội và thậm chí còn mang âm hưởng bạo lực... nhưng không thể tránh được. Vì đây là nhạc cụ thuộc bộ gõ mà.
Dẫu gì, bản nhạc này vẫn thật ngầu.
Masaru thấy niềm vui ngấm sâu vào lòng.
Đúng, niềm vui này gần giống với sự hứng khởi khi đánh trống. Rung động của âm thanh dội ngược lại cơ thể, cảm giác khoan khoái khắc vào theo từng nhịp điệu dễ chịu. Một niềm vui rất ban sơ đang thấm dần vào thân thể con người.
Trống luôn là loại nhạc cụ xuất hiện ở mọi quốc gia và thuộc về mọi dân tộc từ thời cổ đại.
Ra vậy, xét như vậy thì piano là một phiên bản mở rộng của trống. Masaru chợt ngẩm ra.
Một người quen của Masaru chơi rất nhiều loại nhạc cụ, nhưng cuối cùng cho rằng trống là loại nhạc cụ mang tới sự bình tâm nhất. Trống có nhiều loại âm, nhiều loại nhịp điệu, có thể bao quát mọi loại nhạc cụ. Một cái trống có thể chọi lại được nguyên một dàn nhạc.
Piano cũng vậy. Một cây đàn piano có thể tái hiện được nguyên một dàn nhạc.
Nguyên lý giống nhau. Thay vì dùng dùi trống, ta đã có bao nhiêu búa đàn đánh lên âm thanh.
Đánh... đánh nữa đi.
Tham vọng nguyên sơ của con người chính là đánh thật mạnh để tạo ra âm thanh và thể hiện cảm xúc. Để thỏa mãn tham vọng đó, người ta mới bắt đầu đánh trống. Sau bao nhiêu năm tháng, piano xuất hiện tiếp nối cho tham vọng đó, và điều ấy nằm trong khúc nhạc này của Bartók.
Cách luân chuyển âm thanh đặc trưng của Bartók. Luồng thanh âm trong trẻo khoét lên lỗ rỗng trong lồng ngực, giờ đang thoát ra một nơi có tầm nhìn tốt đẹp, mang theo cảm giác sảng khoái trước bầu trời xanh rộng mở.
Mỗi lần Masaru chơi Bartók, chẳng hiểu sao cậu luôn ngửi thấy mùi của rừng và sự tồn tại của cỏ. Ta cảm nhận được từng bước chuyển màu phức tạp của sắc xanh, từng giọt nước tí tách rơi xuống từ đầu lá.
Làn gió luồn qua rừng.
Một căn nhà gỗ được dựng lên ở ngay mặt dốc ngập ánh sáng, cuối đường gió chạy.
Âm thanh của Bartók giống như một khúc gỗ dày cui chưa được gọt giũa. Nó chưa được đánh véc ni hay qua chế tác, nhưng vẻ đẹp lại hiện lên trong từng vân gỗ, trong kết cấu vững chắc của tự nhiên bạt ngàn. Cấu trúc gỗ rắn chắc. Âm thanh của chính những vật liệu thô ráp.
Tiếng rìu bổ củi vang vọng đâu đó trong cánh rừng.
Từng nhịp đều đặn và mạnh mẽ vang lên.
Đánh. Đánh. Những luồng rung chuyển vang vọng tận đáy lòng, trong rừng sâu.
Nhịp đập của trái tim. Nhịp trống. Nhịp vận động của cuộc sống, của cảm xúc, của giao hoan.
Đánh. Đánh.
Những cái vồ đang đập lên thân gỗ.
Trong khi tiếp tục đánh, cậu chuyển dần sang trạng thái xuất thần. Cậu càng dồn sức mạnh hơn, hùng hổ đánh hơn nữa. Dứt khoát. Vô tâm và trở về không mà đánh.
Cú đánh cuối cùng vang lên, âm thanh dừng lại với độ vang ngắn.
Tĩnh mịch. Sự tĩnh mịch của khu rừng.
Khi Masaru đứng dậy, những tràng pháo tay nồng nhiệt bao trùm lấy cậu.
Cậu nhoẻn miệng cười, nhẹ cúi chào.
Những tiếng hoan hô nhiệt thành đang vỗ ào ào vào má cậu.
Cậu dường như cảm nhận và phân tích được phản ứng trực tiếp của khán giả trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Đây không phải một bản nhạc dễ nghe dễ thấm, nhưng khán giả đã thích màn trình diễn này của Masaru, và họ cũng thấy bản nhạc này khá thú vị.
Cùng với cảm giác nhẹ nhõm, niềm vui không thể nói thành lời cũng trào dâng.
Cậu muốn trở thành một nghệ sĩ có thể dung hòa được những bản nhạc mình muốn chơi với những bản nhạc khán giả muốn nghe...
Suy nghĩ lúc nãy chớm tới rồi vụt tan biến đi.
Vậy thì, khúc nhạc tiếp theo sẽ ra sao?
Masaru tự nhắc nhở chính mình.
Đây chắc chắn cũng là một bản nhạc mà cả khán giả lẫn bản thân mình đều đang mong mỏi.
Bản nhạc thứ hai là của Sibelius. “5 Romantic Pieces”.
Đúng như cái tên của nó, bản nhạc này gồm năm khúc nhạc nhỏ thuộc dòng lãng mạn và khác 180 độ với bản nhạc đầu tiên.
Những giai điệu đẹp đẽ không chút gập ghềnh, khúc khuỷu.
Đó là những khúc nhạc không có gì khó về mặt kỹ thuật và có thể thỏa sức pha sự ngọt ngào bao nhiêu tùy ý.
Nhưng chọn bản này làm khúc nhạc thứ hai là cả một sự mạo hiểm đối với Masaru.
Vai trò của bản nhạc thứ hai rất lớn trong khung trình diễn dài một tiếng do Masaru nghĩ ra.
Nó vừa tạo nên sự tương phản với bản nhạc đầu tiên của Bartók, vừa giúp khán giả giải tỏa khỏi bản nhạc hiện đại căng thẳng. Còn có thể hài lòng khán giả bằng cách cung cấp thứ âm nhạc ngọt ngào đầy mê hoặc họ muốn được nghe từ Masaru. Và trên hết, nó sẽ thành bước đệm trải ra cho bản nhạc lớn tiếp theo - bản Sonata của Lizst.
Nhưng, bản nhạc này khó hơn mình tưởng rất nhiều.
Masaru đau khổ nhận thức ra điều này trong mỗi lần luyện tập.
Đây là một khúc nhạc đơn giản, nên cậu có thể chơi được ngay lập tức. Vì nó là những giai điệu ngọt ngào hấp dẫn nên muốn bao nhiêu ngọt ngào cũng có thể chơi ra bằng ấy. Tuy nhiên, sự “ngọt ngào” lại vô cùng gần với “buồn tẻ” và “tự ý thức quá độ” (“Sự tự ý thức của nghệ sĩ piano đang rò rỉ ra” là một cách biểu hiện khá ngọt). Rất khó để gia giảm. Lúc thì lên giọng quá mức, lúc lại hóa ra cộc cằn. Cậu mãi chưa tìm ra được cách lý giải ổn thỏa có thể thuyết phục được chính mình. Nếu làm không khéo sẽ tạo sự chênh lệch rõ với khúc nhạc của Bartók trước đó và hạ màn một cách thiếu tinh tế, hoặc khiến người ta cảm thấy không hợp lý.
Lãng mạn là gì đây?
Trong khi nhìn chằm chằm vào tựa đề, cậu đã nghĩ tới khái niệm “lãng mạn” mà Sibelius đề cập đến.
Hình tượng về Sibelius, nhà soạn nhạc mang đậm tính dân tộc của Phần Lan, luôn là sắc trắng. Tuyết, băng và dòng sông băng. Tuyết đóng thành đụn trên những rừng cây lá kim nhọn cứng. Một hồ nước xanh thẳm. Tuy nhiên, ta cảm thấy được cả thứ màu trắng thanh lịch lẫn thứ màu trắng chau chuốt.
Khi chơi “5 Romantic Pieces”, đầu óc cậu chợt liên tưởng đến một tấm ren trắng tinh khôi và trang nhã, thêm vào những hoa văn tinh xảo. Cậu chăm chú ngắm những đường ren trắng cong gợn như những con sóng đang nhẹ nhàng vỗ bờ.
Lãng mạn thật đó. Cậu muốn thì thầm với ai điều này.
Cảm xúc thế nào nhỉ?
Cậu nhắm mắt lại, thử tưởng tượng.
Ánh mắt long lanh của một cặp tình nhân. Hai bóng hình ghé sát.
Cảnh đêm đẹp đẽ. Ánh lửa bập bùng.
Chút xấu hổ, chút buồn vui lẫn lộn, chút cảm xúc như khóc òa, và chút xíu cảm giác đang lơ lửng giữa không trung.
Giai điệu của tự thân bài hát đã đủ lãng mạn rồi, nên cậu nhắm tới thứ âm thanh thô cứng có phần gần như khắc kỷ. Tất cả các hợp âm đều được rải ra bình đẳng và chính xác. Không giảm tốc.
Ánh sáng pha lê - ánh sáng được tạo ra bằng cách cắt thủy tinh baccarat. Tưởng tượng đến thanh âm đẹp đẽ lấp lánh tựa như vậy.
“Hát” là một việc khó. Ngay cả khi muốn được thoải mái hát hò, con người lắm lúc cũng thành hát karaoke một mình. Nếu muốn bản thân mình hòa vào dòng chảy tự nhiên của khúc nhạc, hay có thể lắng nghe tiếng cây đàn piano nói muốn hát theo như thế này, thì ra cần sự kiên nhẫn cực kỳ và sự khiêm tốn nếu không thì sự tự mãn của người biểu diễn sẽ lập tức lộ ra ngoài mặt.
Để hát được một giai điệu đẹp thì bản thân âm thanh phải đẹp.
Masaru đã cố trau dồi thêm kỹ năng lướt phím của mình để biểu diễn được khúc nhạc này. Phải làm cho quá trình chuyển đổi từ âm thanh này sang âm thanh khác diễn ra thật mượt mà và trơn tru.
Điều đó khiến cho cậu ý thức lại được rằng duy trì cùng một độ lớn và rải đều các hạt âm thanh là điều khó khăn đến nhường nào ngay cả với cây đàn piano cậu đã chơi thành quen thuộc.
Không phải là làm cho âm thanh vang lên mà là tự những âm thanh vang lên. Không phải là chơi ra âm thanh mà âm thanh chảy ra. Cậu cố gắng tập luyện để tìm kiếm thứ âm thanh như vậy.
Theo kết quả nghiên cứu, cậu hiểu rằng âm thanh “lãng mạn”, có lẽ cần phải tràn trề năng lượng.
Không thể là loại âm thanh nghèo nàn nghẹn bức. Nó phải căng tràn như một tấm chăn vừa mới phơi khô căng phồng, nhưng vẫn cần giữ được độ ẩm nhất định. Như ánh mắt ướt át của cặp tình nhân. Nhưng, muốn tạo ra độ “mướt mát” đó thì cần phải mang tới một biên độ vừa phải.
Nhằm hạn chế tạo ra những âm thanh dư thừa, cơ bắp cần đủ lực. Để không tạo ra tiếng chân, không được thả lỏng đôi chân của mình. Để đặt cái cốc lên bàn, bạn cần có đủ lực để cầm và giữ cốc trong không trung.
Cậu cần phải mạnh mẽ để tạo ra thanh âm lãng mạn. Về cả thể chất lẫn tinh thần.
Nói cách khác, người ta yêu cầu những thứ tương tự trong sự tồn tại của “người trưởng thành”.
Masaru ngẫm nghĩ những điều đó.
Cậu phải mạnh mẽ hơn nữa.
Mạnh mẽ về thể chất, mạnh mẽ về tinh thần. Chúng sẽ giúp tạo ra được thanh âm “lãng mạn” thật sự.
Đương nhiên, cậu không nghĩ tới những điều này trong lúc đang biểu diễn chính thức.
Ký ức của bao nhiêu lần thử đi thử lại và học hỏi từ sai lầm đó giờ chỉ còn là những hình bóng nhanh chóng vụt qua góc nào đó nơi trái tim cậu.
Bây giờ, Masaru đang vô tư biểu diễn màn trình diễn “lãng mạn” mà mình vẫn hằng theo đuổi. Vị ngọt ngào tuyệt diệu, giai điệu du dương tuyệt diệu.
Tới lúc biểu diễn chính thức, cậu chỉ cần đơn thuần thả trái tim mình ca hát với bao cảm xúc tươi mới.
Khán giả còn đang đắm lòng với những giai điệu đẹp, màn diễn bất chợt kết thúc.
Sau một khoảng lặng thỏa mãn nhấm nháp những dư vị còn lại của sự hưng phấn, Masaru lại nở nụ cười và cúi chào, những tràng pháo tay nhiệt liệt đồng thời vang lên.
Masaru cảm nhận được nhiệt độ đồng loạt dâng lên nơi hàng ghế khán giả, và cậu cảm thấy khán giả đang cùng tận hưởng âm nhạc “lãng mạn” với mình.
Sự an tâm càng lúc càng đằm.
Thứ tự và bản thân từng bài nhạc đã gợi lên những cảm xúc Masaru mong muốn từ phía khán giả. Cho tới lúc này, mọi thứ đang đi theo đúng lộ trình của khung diễn độc tấu.
Được rồi, coi như đã chuẩn bị xong.
Masaru thu lại cảm xúc.
Tới bản nhạc thứ ba cũng là món chính của ngày hôm nay thôi nào.
Bản Sonata giọng Si thứ dành cho piano cũng là đại nhạc khúc của Franz Liszt.
Bản Sonata giọng Si thứ dành cho piano do Franz Liszt soạn.
Ông đã dành quãng thời gian từ năm 1852 đến 1853 để sáng tác và biểu diễn lần đầu vào năm 1857.
Do Liszt đã rút khỏi con đường nghệ sĩ piano, nên học trò của ông là Hans von Bulow đã trình diễn.
Bản nhạc này là một kiệt tác được đánh giá rất cao, nhưng khá khác biệt với công thức của các bản Sonata khác. Vào thời điểm công bố, người ta đã nổ ra tranh cãi rất lớn xem nó có thật là một bản Sonata hay không đúng theo cái tên của mình. Nó cũng nổi tiếng vì bị chỉ trích dữ dội do có cấu trúc quá mới lạ.
Điểm đặc trưng nhất nằm ở chỗ các bản Sonata thông thường được phân ra thành các khúc theo phần chủ đề và phần triển khai rất rõ ràng, nhưng tác phẩm này lại không phân thành các khúc nhỏ mà gộp chung vào một khúc tổng thể.
Đó là một bản nhạc lớn với độ dài gần ba mươi phút, và là một trong những khúc nhạc đòi hỏi nhiều kỹ năng khác nhau, thuộc dạng khó nhằn ngay cả trong danh sách những bản nhạc khó nhằn nhất.
Masaru đã bỏ công nghiên cứu cấu trúc phức tạp và công phu của bản nhạc này, nhưng mỗi lần nghe bản nhạc cậu lại cảm thấy nó giống một trường thiên tiểu thuyết gài cắm cẩn thận rất nhiều ẩn ý.
Phải, một câu truyện tráng lệ được vẽ lên bằng những nốt nhạc.
Cả người viết lẫn người đọc đều cần năng lực đáng kể.
Giống như những người hát rong, bạn phải khắc ghi bản nhạc này vào thân thể và kể lại nó trên sân khấu. Kể lại câu truyện tràn đầy cảm hứng được viết lại bằng những dòng văn tuyệt vời đến cỡ này.
Đó là một kiệt tác cậu đã nghe đi nghe lại nhiều lần từ khi còn nhỏ, cũng được học qua vài lần trên lớp. Được khắc ghi vào trong não bộ.
Vậy nhưng, Masaru đã bắt đầu lại bằng cách đọc kỹ lưỡng bản nhạc.
Bản nhạc chính là bản thiết kế, cũng là linh hồn của bộ phận tạo nên ngôi chùa lớn mang tên bản Sonata giọng Si thứ.
Mỗi một bộ phận được triển khai thế nào, mang vai trò ra sao.
Masaru đọc từng ngóc ngách của bản nhạc như đang xem sơ đồ xuyên thấu của một công trình kiến trúc khổng lồ.
Cậu càng đọc sâu càng thấy trầm trồ.
Sao lại có một bản nhạc đẹp đẽ và chỉn chu tới nhường này.
Một danh khúc “đẹp” từ bản tổng phổ trở đi. Chỉ cần nhìn vào nó, ta đã cảm nhận được bản nhạc này tuyệt vời đến độ nào. Từng họa tiết đẹp đẽ và rõ nét đến cả mặt thiết kế. Ngay cả những đứa trẻ không thể đọc được bản nhạc, vẫn cảm nhận được mô hình đó tuyệt vời và rất thu hút, mang lại vẻ đẹp sống động vô ngần.
Tất nhiên nó khá dị biệt, một số nghi vấn nho nhỏ còn đang thắc mắc liệu đây có phải là bản nguyên tác hoàn toàn do con người hoàn hảo Liszt viết ra hay không. Nhưng dù thế hệ sau đã thêm thắt vào ít nhiều, ta vẫn có thể nhận định được ấn tượng và sự cân bằng từ bề mặt bản nhạc kia.
Đây là một điều kỳ diệu được sản sinh ra từ đầu óc của con người, ghi chép lại và được trình diễn suốt hàng trăm năm nay.
Bản nhạc... câu chuyện này bắt đầu từ một khung cảnh bình thường có chút bí ẩn.
Masaru tưởng tượng.
Một chàng trai trẻ đang lặng lẽ bước đi. Anh khẽ khàng giẫm lên lớp cỏ, đôi mắt bập bùng ánh đêm, dạo từng bước giữa con đường lớn của mùa đông đang rũ héo. Cách ăn mặc của anh ta cũng không tệ, chắc là người thuộc tầng lớp được kính trọng và làm công việc trí thức.
Chung quanh vắng lặng.
Phong cảnh thật lạnh lẽo. Bầu trời mây mù dày đặc, không khí lạnh giá, chẳng nghe nổi tiếng chim.
Âm thanh khô khốc của cành cây gãy rạp dưới bước chân.
Thình lình, anh phát hiện ra một bia mộ đã mục nát nằm vùi trong cỏ và đất dưới chân anh. Trông có vẻ dãi dầu năm tháng, dòng chữ ghi trên đó đã vỡ vụn, chỉ mang lại cảm giác trống rỗng thoáng qua của kiếp đời.
Chàng thanh niên vô hồn bước qua nấm mộ.
Ánh mắt anh đang chú mục vào ngôi làng nằm trên ngọn đồi nhỏ xa xa.
Anh thấy gác chuông của nhà thờ, những bức tường của lâu đài cổ và biết được đây là một ngôi làng có lịch sử lâu đời.
Chàng thanh niên không nói năng chi. Chỉ có ánh mắt lo lắng nhìn chăm chăm vào một điểm nào đó...
Đúng, đấy là một tấn bi kịch mà nguyên nhân và hậu quả đan chồng lên nhau qua nhiều thế hệ. Suy nghĩ của nhiều con người ken vào nhau ở những điểm không ngờ.
Sau phần nhập đề đầy băn khoăn, ta bước vào chính truyện. Các thành viên của gia tộc thống trị vùng đất này lần lượt xuất hiện.
Người cha bạo chúa và đám con cái em ún đang tòm tem vị trí kẻ kế thừa. Dòng tự sự kể về vòng xoáy của gia tộc, lịch sử huy hoàng cũng như những duyên cớ liên quan. Các âm mưu thường trực lần lần tiếp diễn, các mầm mống tranh giành đã ngầm gieo lên.
Sau khi kể một loạt về tình hình hiện tại, một chủ đề khác xuất hiện.
Một nhân vật chính khác, một nữ chính tươi sáng rực rỡ bước lên sàn.
Cô cũng là một người thuộc gia tộc nọ. Nhưng cha mẹ mất sớm và chẳng có hậu thuẫn nên không ai thèm để mắt tới cô. Cô được người bà nghiêm khắc nhưng luôn tràn đầy tình yêu thương nuôi dưỡng, sống cuộc đời lặng lẽ và giản dị ở rìa làng.
Nữ chính xinh đẹp và thông minh. Nhìn vào ánh mắt nàng, bất kỳ ai cũng cảm nhận được lòng dũng cảm đúng nghĩa bên trong nàng.
Đoạn nhạc chủ đề của nàng là giai điệu ấm áp, đầy tình yêu thương và cảm động như cốt cách con người nàng vậy. Cả mạnh mẽ và uy nghi, sự tồn tại của nàng thể hiện rõ ràng một thứ phúc lành.
Câu chuyện bắt đầu vào guồng quay khi nữ chính gặp gỡ người con trai mình thương mến trên đường trở về từ nhà của vị cha xứ mình vẫn thường tới giúp việc.
Chàng đang đứng ở rìa làng, chăm chú quan sát thứ gì đó.
Bên cạnh chàng, một người đàn ông như nhân viên công vụ đang cà kê giải thích chuyện gì.
Nữ chính nhìn chàng trai đăm đăm.
Rõ ràng là người xa lạ lần đầu gặp gỡ, chẳng hiểu sao trái tim nàng lại đập rộn ràng tới vậy. Cảm giác như họ đã quen biết từ rất lâu rồi...
Cuối cùng, định mệnh tình cờ đã kéo nàng và người con trai kia lại gần nhau.
Do phải cùng chăm sóc cho một đứa trẻ bị thương ở nông trại, hai người bắt đầu trò chuyện với nhau.
Chàng trai là một luật sư, tìm tới vùng đất này để chuẩn bị cho một tranh chấp theo yêu cầu của thân chủ. Trong khi hai bên cùng bị người kia thu hút, nữ chính vẫn cảm thấy ánh mắt người con trai này đôi lúc thật đáng sợ.
Sự tồn tại của chàng trai dần dần bị dân làng để mắt đến, người ta bắt đầu xì xầm to nhỏ.
Dường như ai đó đã thuê anh ta về để kiện gia tộc kia.
Lời đồn sớm đến tai người chủ gia tộc.
Phần nhạc chủ đề về gia tộc này luôn mang sự căng thẳng và kịch tính.
Một người đàn ông bí ẩn đang khép vòng vây với gia tộc nọ. Những kẻ nhúng tay vào phần nhuốc nhơ đen tối của gia tộc lần lượt mất mạng vì những tai nạn bất ngờ hay những trận ẩu đả không đáng có.
Hoàn cảnh nhanh chóng thay đổi, những người đàn ông trong gia tộc rơi vào hoảng loạn.
Điều gì đang diễn ra? Đây có phải là một cuộc báo thù gia tộc? Gã đó có liên quan gì tới việc này? Là kẻ nào đã giật dây gã?
Bọn họ rơi vào tình cảnh hiềm nghi lẫn nhau.
Masaru thấy từng cảnh từng cảnh lướt qua trước mắt.
Thậm chí cậu tưởng như mình đang nghe được cả những đoạn đối thoại.
Cậu thậm chí có thể nhìn thấy những ngọn nến lung linh trong bữa tối, ánh sáng đục mờ của những đồng bạc trao cho bên bán tin đến những vết bánh xe ngựa tích đầy nước mưa.
Truyện kể này được một dàn nhân vật đầy hoa lệ thể hiện. Cũng không thiếu những thành viên đầy cá tính như người đẹp mạnh mẽ và bà thím đã dày công sắp đặt những lớp mưu kế trùng trùng trong nhiều năm, vân vân.
Cách miêu tả cảnh vật tỉ mỉ và miêu tả tâm lý đầy khéo léo. Những cảnh kịch tính lần lượt xuất hiện, và truyện kể dần tiến đến cao trào bi kịch.
Vận mệnh không thể thay đổi. Bánh xe thời gian vẫn quay đều, mang các nhân vật bện lại với nhau và đưa tới điểm cần đến.
Nữ chính bị cuốn vào trung tâm truyện một cách bất ngờ. Nàng đã bị toàn bộ gia tộc phớt lờ suốt bao năm, nhưng khi tới tuổi trưởng thành lại xinh đẹp tới mức chẳng ai có thể chối từ. Những chàng trai trẻ trong gia tộc bắt đầu bày trò trêu ong ghẹo bướm. Nữ chính rơi vào tình cảnh vô cùng hoang mang.
Nữ chính đã đem lòng yêu chàng trai bí ẩn kia, nên chẳng thuận lời đưa đẩy với bất kỳ ai khác.
Chàng thi thoảng cũng để lộ ra tín hiệu cho thấy nữ chính có thể trao gửi trái tim mình. Bỗng một ngày nọ, anh ta phát hiện ra nàng là một hậu duệ của gia tộc kia, bèn thay đổi thái độ hoàn toàn. Nữ chính cố gắng bám đuổi để tìm hiểu lý do.
Cuối cùng, anh ta thú nhận rằng mục đích của mình chính là trả thù và tiêu diệt toàn bộ gia tộc nọ...
Truyện kể tiến vào điểm cao trào.
Cùng thời điểm, gia tộc nọ phát hiện ra anh ta là con của người con trai út thuộc một gia đình từng cố thưa tội gia tộc bọn họ và đã bị bọn họ giết hại. Lúc bấy giờ, vợ của người đàn ông tìm cách mang đứa con mới sinh bỏ trốn, ai dè cô ta bị dồn đuổi và giết chết ở ngoài rìa thị trấn. Nhưng không ai tìm thấy đứa trẻ sơ sinh ở bất cứ đâu. Đó là một đêm mùa đông lạnh giá, không có mấy cơ hội sống sót cho một đứa trẻ còn đỏ hỏn. Họ ngỡ đứa nhỏ đã chết bờ chết bụi đâu đó rồi...
Gia tộc đó bèn đưa người đi ám sát anh ta.
Tuy nhiên, các thành viên trong gia tộc đang nghi ngờ lẫn nhau, liền nhân cơ hội này tiến hành một cuộc thanh trừng.
Người đàn ông cũng chống trả, những tội lỗi đẫm máu của gia tộc dần hé lộ.
Máu chảy đây đó, xác người lăn lóc.
Người đàn ông đã tự hủy hoại chính mình vì ngọn lửa hận thù, giờ điên cuồng muốn làm nhục nữ chính.
Ánh mắt nữ chính nhìn người con trai đó mang bao tâm tình ngổn ngang.
Nàng la lên thất thanh.
Bà cụ già đã luôn nằm liệt giường vì thân thể yếu nhược, cố chỏi tay bám tường đứng dậy nhìn hai người bọn họ.
Bà bèn gào lên một cái tên.
Chàng trai ngỡ ngàng.
Bà lão biết chuyện vợ chồng người em trai cùng cha khác mẹ của con mình bị giết. Tuy không cùng huyết thống, nhưng chẳng hiểu sao bọn họ rất tâm đầu ý hợp.
Bà đã vô cùng sợ hãi và tức giận. Nhưng bà cũng sẽ bị bọn họ giết chết nếu để lộ sự thật này. Tuy vậy, bà vẫn nuôi cảm giác có lỗi với họ, nên đã lén đem giấu những đứa trẻ cô vợ đã sinh ra. Cô vợ sinh ra một đôi nam nữ. Vì biết bé trai có khả năng sẽ nhen nhóm ngọn lửa mới trong cuộc chiến thừa kế tương lai, bà đành phải gửi nó đi xa làm con nuôi và chỉ để lại bé gái tự tay mình nuôi dưỡng. Đứa con trai sớm khuất núi có một cô con gái, nhưng thân thể con bé quá yếu ớt nên đã sớm theo chân cha mẹ. Bà bèn giấu kín chuyện đó, nuôi nấng đứa bé kia như cháu ruột của mình...
Hai người họ là anh em ruột.
Cả hai sững sờ. Hóa ra đó là lý do bọn họ thu hút nhau từ lần đầu gặp gỡ...
Chàng trai rên rỉ vì tuyệt vọng, vùng chạy ra ngoài.
Một thanh niên của gia tộc nọ đang ẩn nấp trong bóng tối, liền lao tới đâm anh ta. Kẻ này ngỡ nữ chính đã bị chàng trai chiếm đoạt, nhắm đến anh bằng cả lòng ghen tuông.
Tiếng hét thống khổ của nữ chính xé toạc bóng tối và mất hút.
Cảnh cuối cùng diễn ra ở địa điểm giống cảnh đầu tiên.
Nữ chính mặc bộ đồ tang, lặng lẽ đứng ở bãi cỏ bên ngoài thị trấn.
Đó chính là nơi nàng nhìn thấy anh trai mình lần đầu tiên.
Nàng quyết định rời bỏ thị trấn này để làm giúp việc cho một tu viện ở xa.
Nàng chợt phát hiện ra bia mộ thô kệch đã bị đám cỏ dưới chân mình phủ kín.
Nàng phủi lớp đất, ngạc nhiên trước cái tên rạn vỡ trên bia. Đó chính là tên người mẹ thật sự của nàng. Đây chính là nơi mẹ nàng đã bị giết chết, bà của nàng quá đau xót nên mới lén lút dựng bia mộ này ở nơi đây.
Nữ chính ngước lên bầu trời với cõi lòng ngổn ngang bao mối tơ vò.
Thứ khác biệt so với cảnh đầu tiên chính là bầu trời dần sáng hơn, chớm thấy chút nền trời xanh ngăn ngắt nơi xa.
Nữ chính chăm chú nhìn bia mộ, quay gót nhẹ nhàng rời khỏi nơi đó.
Nàng không ngoái lại một lần nào, dáng lưng đó chậm rãi xa dần...
Masaru gần như nhìn thấy dòng chữ FIN ở cuối cuốn nhạc phổ. Không phải, có lẽ là tiếng Đức? ENDE chăng.
Tập đầu tiên của truyện dài đã kết thúc tại đây.
Tổng phổ đóng sập lại.
Một truyện mang công thức rất rập khuôn, nhưng thế kỷ XIX là thời đại của dòng lãng mạn nên chút rập khuôn này là vừa đẹp.
Hơn nữa, Masaru thật sự “nghe được” câu chuyện đó từ khúc nhạc này.
Cậu đã tạo ra được hình ảnh cho khúc nhạc rồi.
Tiếp theo là thao tác gia công nó thành hình thành dạng và đưa lên biểu diễn thực tế.
Công việc gia công nên một bản nhạc phần nào giống với việc dọn dẹp trong nhà.
Masaru luôn nghĩ vậy khi luyện tập.
Cậu tưởng tượng tới cảnh ngắm nghía căn phòng sạch sẽ nơi mình đang sống là một chuyện, nhưng sống tự lập mới biết đó là một câu chuyện hoàn toàn khác.
Dọn dẹp để duy trì căn nhà là một công việc lao động chân tay chẳng bao giờ có hồi kết. Việc trình diễn cũng vậy.
Rất khó để giữ cho toàn bộ ngôi nhà thường xuyên sạch sẽ.
Việc lau dọn một căn nhà nho nhỏ dễ dàng và không mất nhiều thời gian. Ta có thể dọn sạch nó trong một thời gian ngắn, và chỉ cần đổ thêm chút tâm tư là lúc nào cũng giữ được sạch sẽ.
Tuy nhiên, công việc dọn dẹp cho một dinh thự lại vô cùng vất vả. Cần phải luôn chú ý cẩn thận từng tí một để giữ ngôi nhà luôn sạch đẹp.
Bản Sonata giọng Si thứ này là một dinh thự cực kỳ lớn. Cấu trúc cầu kỳ và thiết kế phức tạp. Dinh thự đẹp đẽ lộng lẫy và luôn nườm nượp người ra vào.
Một người có thể quét dọn được cả ngôi nhà lớn đến vậy không?
Chỉ riêng công việc mở cổng cũng đủ nặng nề và khó khăn rồi. Bạn phải quét từng chiếc lá rơi cho tới tận hiên đỗ xe, và phải thường xuyên nghĩ xem hình dạng vốn có của nó như thế nào và khi nó đẹp đẽ sạch sẽ thì thế nào.
Còn rất nhiều chỗ chẳng biết dọn dẹp thế nào cho sạch, như đám giấy dán tường cũ hay những tay vịn lan can bọc khung đồng.
Đầu tiên, ta cần phải xem xem tốn bao nhiêu thời gian, vật liệu và phương pháp dọn dẹp, chuẩn bị thật đầy đủ mới bắt tay vào công việc.
Masaru tràn ngập tự tin. Cậu nắm trong tay các dụng cụ dọn dẹp tân tiến nhất, cũng có sức chịu đựng cao.
Nhưng khi bắt đầu dọn dẹp, cậu dần hiểu công việc này vất vả hơn mình tưởng tượng nhiều.
Chuyện tuy không lớn nhưng cậu chẳng thể dọn dẹp tới từng ngóc ngách ban công. Căn nhà rộng rãi quá, dọn được một chút đã thở phì phò.
Vẫn còn chỗ này chỗ kia chưa dọn đến, kính cửa sổ cũng lau mãi chẳng hết. Cậu chẳng có đủ thời gian để lau dọn đám muội bám trên trần nhà. Ban đầu, cậu chỉ đủ sức dùng cây lau dọn dẹp đoạn hành lang dài thượt.
Khi tập trung vào dọn dẹp ở một nơi nhất định, cậu nhận ra những chỗ mình bỏ bẵng một thời gian đã lại phủ đầy bụi mờ.
Bản nhạc này khó hơn cậu tưởng tượng.
Masaru một lần nữa bước ra khỏi dinh thự, ngẫm nghĩ lần nữa.
Cậu hiểu được rằng nếu chỉ dọn dẹp theo kiểu mù mờ, căn nhà sẽ không sạch đẹp được.
Cậu cần chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện một cuộc chiến quy mô sử dụng toàn diện mọi sức mạnh và kỹ thuật của mình.
Cậu thử nghiệm nhiều phương pháp có hiệu quả cao. Rốt cuộc đi tới kết luận rằng mình chỉ có cách ngốc nghếch đi dọn dẹp đánh bóng từng căn phòng một cách cẩn thận.
Chính nhờ thế, cậu phát hiện ra rằng khi đánh bóng một cách kiên nhẫn và tỉ mỉ, bạn sẽ khám phá ra nhiều điều khác nhau mỗi ngày.
Ví như một cấu tứ tuyệt vời nằm ở chỗ chẳng ai thèm nhìn tới, phát hiện một ngăn kéo trong tủ quần áo chưa ai từng dọn đến. Hay một ô cửa sổ nhìn ra sau nhà với cảnh quan tươi mát tới mức lấy làm lạ sao chưa ai từng có ý mở nó ra.
Cứ luyện đi luyện lại mỗi ngày, cậu dần biết khi nào là lúc cần đánh bóng cái sảnh trước hiên nhà, hay lúc nào có thể nghỉ ngơi giữa chừng cuộc dọn dẹp.
Tòa dinh thự dần đẹp đẽ hơn từng chút một. Các phòng đều nối với nhau bởi hành lang, dần hiện lên dáng vẻ ngăn nắp vốn có của tòa kiến trúc.
Hai đầu cầu thang dẫn tới phòng khách lớn rất dễ bị tích bụi, nên cần lau dọn thường xuyên.
Đôi lúc cũng cần phải mở tung mọi ô cửa sổ, cho ngôi nhà được thông gió lành.
Cậu cũng dần nắm được những chỗ nào mình muốn dọn dẹp cẩn thận hơn một chút, dù là địa điểm không bắt mắt cho lắm. Cậu cũng lĩnh hội được rằng vài địa điểm cậu muốn khoe cho khách tới thăm nhà thấy và trầm trồ “Ô kìa, hóa ra cậu ấy còn để tâm đến cả những chỗ như này nữa sao.”
Cậu khám phá ra ánh sáng bình minh lọt vào qua ô cửa sổ tại hành lang phía đông điểm tô cho những bông qua trang trí quanh cửa sổ khoe sắc rạng ngời hơn.
Cuối cùng, ngày đó cũng đến.
Dù không ý thức đến, cậu vẫn chăm chút cho từng ngóc ngách và đến một ngày tòa dinh thự quay về với vẻ đẹp vốn có.
Cậu biết được quang cảnh bốn mùa nơi đây như thế nào, kèm theo sự thay đổi và các biện pháp chăm sóc cần thiết theo từng mùa.
Dinh thự này là của mình. Một phần của bản thân mình. Cậu nhớ từng cành cây ngọn cỏ trong vườn, chỉ cần nhắm mắt lại là hình ảnh chúng đang rung rinh hiện lên rõ mồn một.
Ngày đó cũng đã đến.
Khoảnh khắc cậu chợt thấy rằng mình đã nắm trọn bản nhạc này trong tay.
Lúc bấy giờ, cậu tưởng như bản nhạc đã lan tỏa tới từng ngóc ngách của thân thể, được cắt tỉa cho phù hợp với chính mình. Chỉ cần đến giai đoạn đó, ta ấn vào bất cứ đâu trên thân thể, giai điệu cũng sẽ trào ra.
Đó là khoảnh khắc hạnh phúc vô cùng. Khoảnh khắc ta cảm thấy chính mình là một phần của bản nhạc dù có chơi nó theo kiểu gì.
Ta có thể làm bất cứ điều gì mình muốn như bày biện hoa ra trang trí khắp dinh thự, hay mở một bữa tiệc thâu đêm.
Cậu đã dành rất nhiều, rất nhiều thời gian cho bản nhạc này... Trong khi cảm nhận ngần ấy thời gian đổ vào công việc lên hình ảnh và gia công cho nó, Masaru đàn bản Sonata giọng Si thứ tươi mới như lần đầu chạm tới.
Hãy quên đi mọi khổ công.
Hãy đem câu chuyện tuyệt vời này kể cho toàn bộ thính giả và kể cho chính mình.
Cậu cảm thấy phấn khích ngay cả khi đang chơi. Giống như một khán giả, cậu nín thở đón đợi chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo và bối cảnh nào sẽ ùa tới.
Những hình ảnh kịch tính lần lượt hiện lên, kèm theo những bất ngờ nho nhỏ, dồn dập tới cao trào.
Tất thảy đều dán mắt vào đợi chờ phương hướng triển khai, dỏng tai nghe câu chuyện Masaru đang kể tới chừng như quên cả thở. Có thể thấy sự chú ý của khán giả đều dồn hết vào Masaru trên sân khấu, sự phấn khích và căng thẳng được giữ vừa vặn lằn ranh bùng nổ.
Cuối cùng cũng tới cảnh cao trào. Thời điểm này, cái kết hùng vĩ sắp vào tầm tay với.
Tỉ mẩn và chắc chắn. Không chút lơi lỏng.
Cứ như thế, và chừa lại tàn dư... Kể trọn câu chuyện cùng dư âm văng vẳng.
Nữ chính bước đi xa dần.
Cảnh vật trống huơ trống hoác.
Nơi thảo nguyên lặng bóng người, chỉ còn những nhành cỏ khẽ đung đưa.
Họ như nhìn thấy chữ kết thúc.
Cả hội trường lặng thinh. Tất cả khán giả đã theo dõi xong trường thiên tiểu thuyết Masaru kể trong bản Sonata giọng Si thứ.
Một khoảng chùng xuống, Masaru mỉm cười đứng dậy. Cùng lúc là những tràng pháo tay bùng lên như bão nổi. Những tiếng hò reo như tiếng gầm giận dữ hòa thành một thể với những tiếng vỗ tay vang dậy khắp hội trường.
Masaru cúi đầu thật thấp.
Cảm ơn các bạn.
Chẳng hiểu sao trong óc cậu chợt hiện lên lời cảm ơn.
Cậu không biết mình muốn cảm ơn ai.
Cảm ơn đã cho tôi chơi bản nhạc này. Thật sự rất cảm ơn vì tôi được ở nơi đây và được chơi bản nhạc này.
Bao cảm xúc biết ơn dâng trào trong lòng Masaru.
Cậu cúi chào mấy bận trước những tràng pháo tay mãi không dứt, và chúng chỉ dừng lại khi Masaru ngồi xuống một lần nữa.
Nhưng sự hưng phấn đối với bản Sonata giọng Si thứ vẫn còn lưu lại.
Masaru đợi thêm một lúc nữa để không khí trong khán phòng tĩnh lại, rồi mới bắt đầu chơi khúc nhạc cuối cùng.
Một bản waltz ngắn của Chopin.
Khúc nhạc cậu đã lựa chọn làm món tráng miệng cho màn độc tấu kéo dài một tiếng này.
Bản nhạc số 14, cung Mi thứ. Một bản nhạc vô cùng nổi tiếng trong kho tàng di sản của Chopin.
Một bản waltz vừa mang chất lãng mạn, vừa đầm chút đau khổ sầu bi.
Một bản nhạc rất đỗi bình thản. Một lời chào tạm biệt. Cậu đã quyết định chọn nó làm khúc nhạc cuối cùng từ sớm vì nó là bản nhạc mang thứ không khí phù hợp.
Hạ màn cần nhanh gọn. Cậu không thích những màn kết thúc dài dòng ngán ngẩm.
Sau khi hoàn thành điệu waltz đơn giản, Masaru nhanh chóng đứng dậy.
Những tràng vỗ tay như sấm dậy bao trùm lấy cậu.
Sự hưng phấn và nhiệt thành nơi những khán giả đang giậm chân thình thịch kia được cậu đón nhận bằng toàn bộ thân thể.
Kết thúc rồi.
Masaru cúi đầu một lúc lâu, nhắm mắt lại và nén chặt cảm xúc trong lòng.
Kết thúc rồi. Màn độc tấu kéo dài một tiếng của mình cho vòng Ba.
Kể cả khi cậu rút vào trong cánh gà, tiếng vỗ tay vẫn không có dấu hiệu hạ nhiệt.