← Quay lại trang sách

- 3 -

Lại một lần nữa theo thói quen don Fulgor gõ cán gậy vào cửa, vì lão đã biết rằng những cánh cửa này sẽ chưa mở cho tới khi nào don Pedro muốn mở. Trong lúc nhìn những cái nơ treo trước cửa, lão nói: “Những cái nơ đen này nom đến đẹp mắt, mỗi cái đẹp một vẻ”.

Giữa lúc ấy cửa mở và lão bước vào.

- Vào đi, Fulgor! Lão đã giải quyết xong việc với Toribio Aldrete chưa?

- Đã thanh toán xong rồi, thưa ông chủ.

- Chúng ta còn phải giải quyết nốt vấn đề anh em nhà Fregoso. Thôi, hãy cứ tạm hoãn lại đã. Bây giờ ta rất bận lo tuần trăng mật của ta.

- Làng này âm vang tiếng động. Những tiếng vọng ấy dường như bị nhốt giữa những bức tường hay dưới những viên đá. Khi cháu đi cháu sẽ cảm thấy những bước chân đang xéo lên người mình. Cháu sẽ nghe thấy tiếng nghiến răng kèn kẹt, nghe thấy tiếng cười. Đó là những tiếng cười ngặt nghẽo, thều thào như đã dùng mòn rồi. Cháu sẽ nghe thấy tất cả. Ta nghĩ rằng sẽ đến ngày những âm thanh ấy tắt ngấm như ngọn đèn tắt lửa.

Damiana Cisneros nói với tôi điều ấy vào lúc chúng tôi vượt qua làng.

- Có thời gian trong suốt nhiều đêm ta nghe thấy tiếng ồn vui náo nức của đêm hội. Những tiếng ồn vui ấy từ đây vọng đến tận điền trang Media Luna. Ta đến gần để xem điệu vũ mitote [5] ấy và ta thấy: cái mà chúng ta đang nhìn lúc này. Nghĩa là chẳng có gì, chẳng có ai. Những con đường vẫn cô quạnh như lúc này.

Sau đó ta không nghe thấy gì nữa. Điều đó xảy ra là vì niềm vui đã vãn. Vì thế ta không ngạc nhiên thấy điều đó chấm dứt.

- Đúng thế! - Bà ta lại nói với tôi. - Cái làng này âm vang tiếng vọng. Bây giờ thì ta không ngạc nhiên nữa. Ta nghe thấy tiếng chó sủa và ta cứ điềm nhiên mặc cho chúng sủa. Ta cứ để mặc cho chúng sủa vì ta biết rằng chẳng ai sinh sống ở cái làng này. Và trong những ngày gió thổi, gió cuốn theo những tàu lá, khi mà ở đây, như cháu nhìn đây, làm gì có cây cối. Trước đây, nơi này có cây cối. Nếu không thì những chiếc lá ấy từ đâu bay tới kia chứ?

Đáng sợ hơn cả là khi cháu nghe thấy đám đông chuyện trò. Cháu sẽ thấy những tiếng nói ấy dường như thoát ra từ những kẽ hở, tuy nhiên, chúng được nghe rõ ràng, rất rõ ràng đến mức cháu nhận biết được chúng. Ngay từ lúc nãy thời ta đã gặp một đám tang. Ta dừng lại để đọc Kinh Lạy Cha. Trong lúc ta đang đọc kinh có một bà tách ra khỏi đám bạn bè của mình để đi lại với ta, nói:

- Damiana! Hãy cầu Chúa cho chị đi, Damiana!

Người ấy bỏ khăn che mặt ra và ta nhận ra gương mặt của chị gái ta. Đó là chị Sixtina.

- Chị làm gì ở đây? - Ta hỏi người đàn bà ấy.

Thế là người đàn bà ấy vội chạy đi lẫn vào trong đám bạn bè.

- Chị Sixtina của ta đã chết khi ta mới mười hai tuổi. Hình như cháu không biết chị ấy nhỉ? Chị ấy là chị cả. Chúng ta có cả thảy mười sáu chị em. Nhờ đó cháu hãy tính xem chị ấy chết được bao lâu rồi. Thế mà, như cháu thấy, giờ đây chị ấy còn đang lởn vởn trên thế giới này. Do vậy chớ nên giật mình trước những tiếng vọng vừa đoạn, Juan Preciado ạ!

- Mẹ cháu cũng báo cho bà biết là cháu đến đây sao?

- Không! Nhân tiện ta hỏi cháu nhé: Mẹ cháu thế nào rồi?

- Mẹ cháu qua đời rồi, - tôi nói.

- Đã chết rồi sao? Chết vì sao?

- Cháu không biết vì sao. Có lẽ chết vì buồn. Mẹ cháu cứ thở dài đến não lòng.

- Hỏng thật. Mỗi cú thở dài là một lần tổn thọ. Thế là bà ấy chết rồi đấy?

- Đúng thế ạ. Có lẽ bà đã biết rồi.

- Làm sao ta biết được kia chứ? Đã nhiều năm nay ta không hay biết gì cả.

- Vậy làm sao bà gặp cháu nhỉ?

- Bà là người sống đấy chứ, bà Damiana? Hãy nói cháu nghe đi bà!

Thế là tôi chỉ còn mỗi mình trên những con đường vắng bóng người ấy. Cửa sổ của các nhà mở toang hướng lên trời để mặc cho những ngọn cỏ lòa xòa trùm lên. Những bức tường bong tróc phơi ra những viên gạch vỡ vụn.

- Bà Damiana ơi! - Tôi gào tướng lên. - Bà Damiana Cisneros!

Chỉ có những tiếng vọng: “... ana... neros......; ana... neros...!” đáp lại tôi.

Tôi nghe rõ tiếng chó sủa như thể tôi đã làm kinh động chúng. Tôi nhìn thấy một người đàn ông đi qua đường.

- Này, ông bạn! - Tôi gọi.

- Này, ông bạn! - Chính tiếng hỏi của tôi lại trả lời tôi.

Và tôi nghe rõ tiếng nói chuyện của các bà phụ nữ như thể họ đang đứng ở đầu phố phía sau lưng.

- Nhìn kìa, ai đi kia? Có phải Filoteo Aréchiga không?

- Đúng hắn rồi. Chị hãy che mặt đi nào.

- Chúng mình chạy đi là hơn cả. Nếu hắn theo sau chúng mình ắt hẳn thích một trong hai chúng mình. Đố em biết hắn sẽ theo đuổi ai nào?

- Chắc chắn là hắn theo chị.

- Nỡm à. Chị lại nghĩ em mới là người hắn theo đuổi kia đấy.

- Thôi khỏi phải chạy nữa. Hắn đã dừng lại ở đầu phố đằng kia rồi.

- Thấy chưa, hắn chẳng theo đuổi ai trong chúng mình.

- Nhưng sẽ ra sao nếu như hắn đuổi theo chị hoặc đuổi theo em nào? Sẽ ra sao nào?

- Thôi đi, chớ có mơ mộng đi, nỡm ạ!

- Thà rằng cứ như thế mà lại hay đấy. Đồn rằng hắn là kẻ dắt gái cho don Pedro đấy. Vì thế mà chúng mình nên tránh xa hắn.

- Thế hả? Với con dê già ấy chị chẳng muốn có quan hệ gì cả.

- Chúng mình đi thôi.

- Em nói phải đấy. Chúng mình đi khỏi nơi đây thôi.

Đêm. Đêm khuya lắm rồi. Những tiếng nói râm ran đây đó.

-... Em nói với bác thế này nhé: Nếu ngô năm nay được mùa em sẽ có tiền để trả nợ bác. Nhưng giờ đây, nếu ngô thất thu, bác cho em khất lại nhé.

- Tôi có đòi nợ dượng đâu. Dượng biết rồi đấy, tôi luôn luôn thủy chung với dượng. Nhưng dượng nhớ rằng ruộng bây giờ không còn là của dượng nữa. Dượng đã cày cấy trên đất đai của người khác. Thế thì thử hỏi dượng lấy gì để trả nợ tôi kia chứ?

- Ai bảo ruộng đất không còn là của em nữa nào?

- Người ta nói chắc rằng dượng đã bán ruộng cho Pedro Páramo.

- Em đã giáp mặt cái nhà ông ấy bao giờ. Ruộng đó vẫn cứ là ruộng đất của em.

- Đó là dượng bảo. Còn dân chúng bên ấy nói tất cả ruộng đất ở đây đều là của ông ấy.

- Thì có giỏi họ hãy đến đây mà nói với em.

- Thế này nhé, Galileo ạ, tôi tin dượng và quý trọng dượng mà. Bởi vì dượng là chồng của em gái tôi, hơn nữa dượng yêu thương nó, về điều này không ai có thể hồ nghi được. Nhưng dượng chớ nên chối là đã bán ruộng cho người ta rồi.

- Em thề với bác là em không bán ruộng đất của mình cho ai cả.

- Vậy mà ruộng đất ấy đã là của Pedro Páramo rồi. Rồi rằng chính ông ta đã quả quyết là như vậy đấy. Don Fulgor vẫn chưa đến gặp dượng sao?

- Chưa!

- Chắc chắn rằng ngày mai dượng sẽ thấy ông ta tới đây. Và nếu không phải là ngày mai thì ngày kia, ngày kìa. Chắc chắn là ông ta sẽ tới trong một ngày nào đó.

- Như vậy thà giết tôi hoặc hắn chết đi còn hơn. Nhưng không có chuyện hắn muốn gì là được.

- Requieseat in pace [6] amen! Thế đấy dượng ạ. Còn nếu như dượng có nghi ngờ thì cứ đi mà xem.

- Rồi bác sẽ hiểu em. Rồi bác sẽ hiểu mà. Bác không phải bận tâm cho em. Bà cụ nhà em đã rèn luyện em dày dạn để em chịu đựng được đòn roi mà.

- Thôi nhé, chào dượng. Bảo với Felicitas rằng đêm nay tôi không ăn cơm. Tôi không thích sau này lại phải kể lể rằng: “Tôi đã gặp ông ta tối trước hôm chuyện đó xảy ra”.

- Chúng em để phần bác chút ít phòng khi sắp đi ngủ bác muốn ăn.

Nghe rõ tiếng chân trần đi giữa những tiếng đinh thúc ngựa leng keng.

-... Ngày mai, vào lúc sáng tinh mơ, em sẽ đi với anh, Chona thân yêu nhé. Anh đã chuẩn bị sẵn một đôi lừa cho hai chúng mình rồi mà.

- Nhưng nếu lỡ cha em giận mà chết thì sao? Cha em đã già yếu lắm rồi, người sắp... không bao giờ em cho phép mình có những hành động sẽ gây thương tổn cho cụ. Chỉ còn em là người duy nhất đỡ đần cụ trong những lúc cụ cần thiết. Nhà chẳng còn ai thân thích nữa. Mà sao anh cứ phải bắt cóc em vội vàng thế nhỉ? Hãy ráng đợi thêm một chút nữa thôi. Cụ nhà em cũng chẳng còn ở với em được bao lâu nữa.

- Em đã nói với anh như vậy từ mấy năm nay rồi. Ngoài ra em còn khinh ra mặt rằng anh thiếu mạo hiểm trong khi đó, còn em, theo như em nói, quá mệt mỏi vì mọi thứ rồi. Điều đó làm anh vội vàng tậu lừa và giờ đây chúng ta đã có sẵn lừa rồi. Em đi với anh nhé?

- Để em suy nghĩ đã nào.

- Chona thân yêu, em không biết anh yêu em biết chừng nào đâu! Anh không thể tự kiềm chế những thèm muốn của mình, Chona ạ. Thôi, em hãy đi với anh, đi với anh, em nhé.

- Hãy để em suy nghĩ đã nào. Anh nên hiểu cho. Chúng ta cần chờ thêm một ít ngày nữa thôi là cha em qua đời mà. Lúc ấy em sẽ đi với anh và anh chẳng việc gì phải bắt cóc em.

- Một năm nay em đã nói như thế rồi.

- Thế thì sao?

- Em hiểu cho là anh đã mua lừa rồi. Anh đã có lừa rồi. Chúng đang đợi em. Mặc cụ tự lo liệu lấy có được không. Em đẹp, em xinh, em trẻ. Trong khi đó không thiếu bà già đến chăm nom ông cụ. Ở đây thiếu gì người hảo tâm.

- Em không thể bỏ đi được.

- Em có thể đi mà.

- Em không thể. Em xấu hổ, anh biết không? Hơn nữa, cụ là cha đẻ của em.

- Vậy thì ứ thèm nói nữa. Anh đi nói chuyện với Juliana, kẻo cô nàng đang héo lòng vì anh mà.

- Cứ việc. “Người ta” có nói gì đâu mà lo.

- Không thích gặp lại “người ta” nữa chắc?

- Không. Tôi không thích nhìn thấy anh nữa, có thế thôi.

Tiếng động. Tiếng nói. Những tiếng rầm rì. Những bài hát dân ca xa xa vọng tới:

Người thương trao ta một chiếc khăn tay

Với bốn riềm thấm đầy nước mắt...

Tiếng hát nghe the thé như thể các cô gái là người đang hát nó.

Tôi nhìn thấy những chiếc xe bò đang đi qua. Những con bò thong thả đi. Nghe rõ tiếng kêu lạo xạo của đá sỏi dưới bánh xe lăn. Những người đàn ông vật vờ đi như những kẻ mộng du.

“... Vào tất cả các buổi sáng sớm, làng rùng rình thức dậy trong lúc xe bò đi qua. Chúng đến từ mọi nẻo đường, chở đầy quặng diêm tiêu, ngô bắp, cỏ lông. Tiếng cót két của bánh xe làm rung các cánh cửa sổ, đánh thức dân làng dậy. Đó cũng là giờ các nhà nhóm bếp và thơm phức mùi bánh nướng mới ra lò. Rồi bỗng nhiên trời nổ ran sấm. Mưa. Có thể mùa xuân đã về. Ở đấy con sẽ làm quen với những “bỗng nhiên”, con ạ”.

Những chiếc xe không đang khuấy động bầu không khí thanh lặng trên những con đường. Thế rồi chúng mất hút trong những con đường tối mò mò ấy. Rồi những bóng người và tiếng vọng của những bóng người ấy cũng mất hút luôn.

Tôi nghĩ đến đường trở về. Tôi cảm thấy ở phía trên kia có con đường mà tôi đã đi để đến đây. Con đường ấy tựa như một vết thương há miệng giữa khoảng tối sẫm của các đỉnh núi.

Giữa lúc ấy có người vỗ vai tôi.

- Anh làm gì ở đây thế?

- Tôi đến tìm... - đang định dẫn tên người ấy ra thì vừa hay tôi đã dừng lại. - Tôi đến tìm cha tôi.

- Vì sao không vào đi?

Tôi bước vào. Đó là một ngôi nhà đã đổ mất nửa mái. Ngói nằm trên sàn nhà. Trần nhà cũng nằm trên sàn nhà. Ở nửa nhà còn lại, có một người đàn ông và một người đàn bà đang ngồi.

- Các ông bà không phải là những người chết đấy chứ? - Tôi hỏi họ.

Người đàn bà mỉm cười. Còn người đàn ông nghiêm sắc mặt nhìn tôi.

- Đang say đấy. - Người đàn ông nói.

- Chỉ hoảng hốt thôi. - Người đàn bà lại nói.

Có một ngọn đèn dầu hỏa, một chiếc giường bằng tre, một chiếc ghế trên đó vắt quần áo của người đàn bà. Bởi vì bà ta đang trần như nhộng, ông ta cũng vậy.

- Chúng tôi nghe thấy có người đang kêu ca và tiếng va của đầu anh ta đập vào cửa nhà chúng ta. Chẳng hóa ra anh, phải không? Có việc gì thế anh?

- Ô, có biết bao sự việc đã ập tới với tôi và giờ đây tôi chỉ muốn được ngủ thôi.

- Chúng tôi đã ngủ rồi.

- Vậy chúng ta cùng ngủ.

Đêm và sáng đã dìm tắt những ký ức của tôi.

Thỉnh thoảng tôi nghe thấy âm thanh những lời nói và tôi phân biệt được chúng. Bởi vì những lời nói cho đến lúc ấy tôi nghe được, cho đến lúc ấy tôi biết được, không có âm thanh, không vang lên. Chúng được cảm thấy chứ không phải nghe thấy. Chúng giống như những tiếng nói được nghe thấy trong giấc mơ.

- Ai vậy? - Người đàn bà hỏi.

- Ai biết được! - Người đàn ông trả lời.

- Làm sao ông ta có thể đến tận đây được?

- Biết à!

- Hình như em nghe thấy ông ta nói gì về người cha của mình.

- Anh cũng nghe thấy ông ta nói như thế.

- Liệu ông ta có thể bị lạc đường không? Anh hãy nhớ lại hồi những người tình cờ vào đây và họ bảo rằng họ bị lạc đường. Họ đi tìm Cõi Vô Biên và anh đã trả lời họ rằng anh không biết nó ở đâu.

- Đúng thế, anh nhớ ra rồi. Nhưng thôi, hãy để yên anh ngủ nào. Trời đã sáng đâu.

- Sắp sáng đến nơi rồi. Nếu như em nói chẳng qua là để đánh thức anh dậy mà thôi. Anh dặn em rằng nhớ đánh thức anh dậy trước khi trời sáng. Vì thế mà em không để anh ngủ. Dậy đi anh.

- Em muốn anh dậy làm gì nào?

- Em cũng chẳng biết để làm gì. Đêm qua anh bảo em đánh thức anh mà. Thôi đi, anh đừng hỏi vặn nữa.

- Trong trường hợp này, hãy để anh ngủ nào. Em không nghe thấy điều ông ta nói khi đến đây sao? Ông ta bảo chúng mình hãy để cho ông ta ngủ. Đó là điều duy nhất ông ta đã nói ra.

Hình như những tiếng nói ấy đi mất. Hình như chúng mất âm thanh. Hình như chúng nghẹn tắc lại. Không một ai nói năng gì. Đó chỉ là giấc mơ.

Một lúc sau tôi lại nghe thấy:

- Ông ta vừa cựa quậy đấy. Ông ta đã tỉnh giấc và dường như ông ta biết. Và nếu như nhìn thấy chúng mình ông ta sẽ hỏi các chuyện.

- Ông ta sẽ hỏi chúng mình về cái gì nhỉ?

- Ừ, sẽ phải nói về một cái gì đấy, phải không nào?

- Mặc xác ông ta. Có thể ông ta đang mệt mỏi.

- Anh tin như thế hả?

- Im đi nào!

- Nhìn kìa, ông ta cựa mình. Anh có thấy ông ta vươn vai như thế nào không? Dường như thứ gì đó đang làm cho ông ta rệu rã từ bên trong ấy. Em biết điều đó vì chính em cũng đã có lần như thế.

- Cái gì đã xảy ra với em!

- Cái ấy.

- Anh chịu không biết em nói gì.

- Em chỉ nói về ký ức của em khi lần đầu tiên nhìn thấy cái ấy, cứ cựa quậy hoài, về cái việc lần đầu tiên anh làm với em. Em nhớ mình đau như thế nào và vì nó em phải ân hận như thế nào.

- Về cái gì cơ?

- Về cái mà em cảm thấy như thế nào ngay sau khi anh làm với em, về cái mà mặc dù anh không thích nhưng em lại biết nó xấu như thế nào.

- Chao ôi, cho đến tận bây giờ em vẫn còn nhắc tới chuyện ấy hay sao? Vì sao em không ngủ đi và để cho anh ngủ yên với nào?

- Anh bảo em rằng em phải nhắc anh nhớ lại. Em đang làm điều ấy. Lạy Chúa, em chỉ làm điều anh yêu cầu em. Nào, dậy đi nào. Đã đến giờ anh dậy rồi.

- Hãy để cho anh yên nào.

Hình như người đàn ông đã ngủ. Người đàn bà vẫn lải nhải nói, nhưng tiếng nói của bà ta rất khẽ khàng, hầu như không nghe nổi:

- Trời đã sáng rõ rồi chăng, vì ánh sáng đã rọi vào. Từ đây mình có thể nhìn rõ ông ấy và nếu như nhìn rõ ông ấy là vì ánh sáng cho phép nhìn thấy. Chẳng mấy lúc mà mặt trời sẽ mọc. Rõ rồi, chẳng cần phải hỏi cũng đã biết. Nhỡ hóa ra ông ấy đã làm điều xấu xa. Nhưng mà chúng mình đã cho ông ta ngủ nhờ. Chỉ cho ông ta ngủ nhờ đêm nay thôi: Nhưng chúng mình phải giấu ông ta. Về lâu về dài việc ấy sẽ mang lại điều chẳng lành cho chúng mình... Hãy nhìn kìa, ông ta cựa quậy đến kinh, dường như không tìm được tư thế thoải mái. Cứ như thể ông ta đang cắn rứt lương tâm.

Trời sáng rõ. Ngày đã xua đi bóng đêm. Căn phòng ấm dần lên do hơi nóng của những người đang ngủ. Ánh bình minh lọt qua mi mắt tôi. Tôi cảm thấy ánh sáng và nghe rõ:

- Ông ta cứ quằn quại như một tên tội phạm, ông ta có đủ những đặc điểm của một người xấu. Donis, hãy dậy đi nào. Ông ta cứ quằn quại trên sàn nhà. Sùi cả bọt dãi ra. Có thể là một tên nợ máu nhiều. Mà anh không hề nhận ra.

- Có thể ông ta là một người đáng thương. Thôi, em hãy ngủ đi và để cho tụi anh ngủ nào.

- Tại sao em cứ phải đi ngủ khi em không buồn ngủ nhỉ?

- Thế thì dậy và cút đi nơi khác cho rảnh?

- Được thôi. Em sẽ nhóm bếp. Khi trở lên, em sẽ bảo ông ấy đến ngủ ở đây với anh, sẽ nằm xuống chỗ em sắp bỏ đi đây.

- Cứ việc bảo ông ta đi.

- Nhưng mà... em không thể. Em sợ lắm.

- Thế thì đi làm việc của em đi và để cho bọn anh yên thân nào.

- Được thôi.

- Còn đợi gì nữa nào?

- Thì đi vậy.

Tôi cảm thấy người đàn bà bước xuống giường. Chân đất của bà ta nện trên sàn nhà và bước qua đầu tôi. Tôi mở mắt rồi lại nhắm mắt lại ngay.

Khi tôi dậy, mặt trời đã đứng bóng. Một tách cà phê đã để sẵn ở bên cạnh tôi. Định bụng uống nó và tôi đã uống được vài ngụm.

- Nhà không còn nữa. Ông hãy bằng lòng với tách cà phê ít ỏi này. Chúng tôi rất thiếu thốn, thiếu thốn đủ mọi thứ.

Đó là tiếng nói của một người đàn bà.

- Xin đừng bận tâm vì tôi, - tôi nói. - Xin đừng bận tâm vì tôi mà. Tôi đã quen chịu đựng thiếu thốn rồi. Làm sao đi ra khỏi đây được nhỉ.

- Đi về đâu kia?

- Bất cứ đâu cũng được, miễn là ra khỏi nơi đây.

- Có rất nhiều đường. Có đường đi về làng Contla, lại có đường từ nơi ấy tới đây. Lại có con đường khác san sát lán trại hai bên đường đi vào rừng. Con đường mà từ đây chúng ta nhìn thấy ấy, tôi không được rõ nó đi về đâu, - ngón tay bà ta chỉ vào cái lỗ thủng trên mái nhà. - Và một con đường khác chạy từ đây đến điền trang Media Luna. Lại còn một con đường khác chạy qua toàn bộ đất nơi đây và nó là con đường đi xa nhất.

- Có lẽ tôi đã đến đây bằng con đường ấy đấy, bà ạ.

- Bây giờ ông định đi đâu?

- Tôi đi đến Sayula.

- Ông hãy biết cho, tôi cứ nghĩ rằng Sayula ở phía này kia. Lúc nào tôi cũng ao ước được đến thăm Sayula. Đồn rằng ở đấy đông vui lắm, có đúng thế không?

- Ở đâu mà chẳng đông vui.

- Xin ông biết cho, ông lầm rồi. Chúng tôi sống ở đây rất cô quạnh. Chúng tôi khao khát muốn biết cuộc sống dù chỉ một mấu nhỏ xíu của nó, biết nhường nào.

- Chồng bà đi đâu rồi?

- Ông ấy không phải là chồng tôi đâu. Ông ấy là ông anh tôi; mặc dù ông ấy không muốn cho ông biết điều này, nhưng tôi vẫn nói cho ông biết, ông ấy đi đâu ư? Chắc chắn ông ấy đi tìm chú bò rừng đang nhởn nhơ ở phía đằng kia, ít ra ông ấy đã bảo với tôi như vậy.

- Ông bà ở đây được bao lâu rồi?

- Lâu lắm rồi. Chúng tôi sinh ra ở đây mà.

- Chắc là ông bà có biết bà Dolores Preciado nhỉ?

- Có lẽ Donis biết đấy. Tôi quen rất ít người ở đây. Chẳng bao giờ tôi bước ra khỏi cửa. Ở đây, nơi ông nhìn thấy tôi, tôi vĩnh viễn ở đây... Thực tình mà nói, chả phải là vĩnh viễn đâu. Tôi chỉ mãi mãi ở trong nhà này kể từ khi ông ta đã biến tôi từ em gái thành người vợ của ông ấy. Kể từ độ ấy tôi chỉ ở trong nhà vì tôi ngại dân chúng nhìn thấy mình, ông ấy không muốn tin điều đó nhưng có thật là trông tôi không đáng sợ sao? - Và bà ta nhích gần lại nơi ánh nắng rọi vào. - Ông hãy nhìn mặt tôi mà xem!

Đó là một gương mặt bình thường như tất cả những gương mặt khác.

- Bà muốn tôi nhìn thấy cái gì kia?

- Ông không nhìn thấy tội lỗi trên mặt tôi sao? Ông không thấy những vết tím bầm như nốt hắc lào mọc đầy mặt từ trán xuống cằm sao. Nhưng đó chỉ là biểu hiện về ngoài; còn bên trong tôi, bên trong tôi là cả một biển bùn nhơ.

- Nhưng ai nhìn mới được khi ở đây là đất không người? Tôi đi khắp làng mà chẳng gặp một ai.

- Ông cứ tưởng thế thôi, chứ thật ra vẫn có người sống ở làng này đấy. Ông có dám báo với tôi là Filomeno không sống không? Ông có dám bảo rằng Dorotea, Melquiades, ông già Prudencio, Sóstenes, những người này không sống không? Chỉ có điều những người này sống tự giam mình ở trong nhà. Ban ngày thì tôi chịu không biết bọn họ làm gì, nhưng về ban đêm, bọn họ mới ra khỏi nơi tự mình giam hãm mình. Vào những giờ ấy ở đây đầy rẫy những bóng ma. Chẳng hay ông đã nhìn thấy đám linh hồn lởn vởn đi lại ngoài đường chưa? Khi trời nhá nhem tối là lúc những linh hồn này ra đường đi lại lởn vởn đây đó. Không một ai thích nhìn chúng. Bởi chúng đông đúc mà trái lại chúng tôi quá ít ỏi, đến mức chúng tôi chẳng cầu kinh giúp họ an nghỉ nữa. Những lời cầu nguyện của chúng tôi không làm thỏa lòng được hết tất cả họ, cũng có thể một đoạn Kinh Lạy Cha tới với họ. Nhưng lời cầu nguyện ấy cũng chẳng giúp ích được gì cho bọn họ. Mà những tội lỗi của chúng tôi vẫn còn. Không một ai trong chúng tôi đang sống được Chúa che chở. Không một ai có thể ngẩng mặt lên mà ngay lập tức không cảm thấy tủi hổ. Mà tủi hổ cũng không giúp được gì. Ít ra là một vị giám mục có thời gian qua nơi đây làm lễ kiên tín, đã nói với tôi điều đó. Tôi đến trước mặt ngài và tôi tự xưng tội, tôi tự thú tất cả:

- Tội ấy sẽ không được tha, - ngài bảo tôi.

- Con xấu hổ lắm.

- Không có cách nào cứu vãn được.

- Cha hãy làm lễ thành hôn cho chúng con.

- Các con hãy ly gián nhau.

- Con thưa với cha rằng cuộc đời đã buộc chúng con lại với nhau, đã nhốt chúng con lại trong một căn nhà. Chúng con ở đây rất cô đơn. Chúng con là những người sống duy nhất ở đây. Bằng cách cho chúng con lấy nhau, làng này rồi sẽ đông người lên. Có lẽ khi đức cha trở lại đây sẽ có con chiên để mà làm lễ kiên tín.

- Các con hãy ly gián nhau. Đó là tất cả những gì có thể làm được để cứu rỗi linh hồn.

- Nhưng, chúng con sẽ sống ra sao đây?

- Sẽ sống như tất cả mọi người.

Rồi cha bỏ đi. Cưỡi trên lưng một chú lừa đực, mặt lạnh lùng, không ngoái nhìn lại phía sau, vị giám mục ấy ra đi như để lại đây một cảnh tượng của kiếp đọa đày. Không bao giờ giám mục trở lại đây. Và đó là lý do khiến cho làng này đầy những bóng ma. Quả thật nó là một làng để cho những người chết và không được giải tội phải đi lại lởn vởn. Không có cách nào giải tội cho họ và ngay cả chúng tôi cũng thế. Thôi nhé, ông ta đã trở về. Ông có nghe thấy không?

- Có, tôi có nghe thấy.

- Ông ta đấy.

Cánh cửa mở.

- Anh có tìm thấy con bò rừng không? - Người đàn bà hỏi.

- Nó không đến vào giờ này. Nhưng anh đã theo miết dấu vết của nó cho tới khi hầu như anh biết chắc nó ở đâu. Tối nay anh sẽ tóm được nó.

- Anh để em một mình ở nhà sao?

- Có thể lắm chứ.

- Em chịu thôi. Em muốn có anh ở bên cạnh. Đó là giờ duy nhất em cảm thấy yên lòng. Giờ buổi tối.

- Tối nay anh phải đi bắt con bò rừng mà.

- Tôi vừa được biết, - tôi tham gia câu chuyện của họ, - rằng ông bà đây là hai anh em với nhau.

- Ông vừa được biết sao? Tôi đã biết trước từ lâu. Vậy là không nên tham dự vào đời tư người khác. Chúng tôi khó chịu trước việc người khác biết chuyện riêng tư của mình.

- Tôi nói thế để tăng thêm không khí thân quen giữa chúng ta. Ngoài ra không có ý định gì khác.

- Ông hiểu gì nào?

Người phụ nữ đi lại đứng sau người đàn ông, tì lên vai ông ta, rồi nhắc lại:

- Ông hiểu gì nào?

- Tôi chẳng hiểu gì cả, - tôi nói. - Tôi càng ngày càng hiểu biết kém đi. - Rồi tôi nói thêm. - Tôi muốn trở lại nơi tôi ra đi. Cần tranh thủ lúc trời còn sáng này để mà đi.

- Tốt hơn hết là ông nên ở lại, - người đàn ông bảo tôi. - Hãy chờ đến sáng mai. Chẳng bao lâu trời sẽ tối và các con đường um tùm cỏ mọc. Ông sẽ không thấy lối đi và sẽ bị lạc mất. Ngày mai tôi sẽ đưa đường cho ông.

- Thế thì tốt quá. Đêm nay tôi sẽ ở lại đây.

Qua khe hở trên trần nhà tôi nhìn thấy những đàn sáo bay ngang qua. Những con chim này vỗ cánh gấp vào lúc chiều tà trước khi bóng tối che mất lối đi của chúng. Rồi sau đó là những đám mây do gió thổi đến để mang ngày đi.

Cuối cùng sao mọc rồi trăng lên.

Người đàn ông và người đàn bà không ở trong nhà với tôi. Bọn họ đi ra theo cửa mở ra sân và khi trở lại trời đã tối. Vì thế mà bọn họ không biết điều đã xảy ra trong lúc họ ở ngoài.

Và đây là điều đã xảy ra:

Một người đàn bà từ ngoài đường bước ngay vào phòng. Đó là một bà già đã nhiều tuổi, người gầy như bày hết cả xương ra. Bà ta bước vào, đảo mắt khắp phòng. Có lẽ bà ta nhìn thấy cả tôi. Có lẽ bà ta tưởng rằng tôi ngủ. Bà ta đến ngay chỗ kê chiếc giường và lôi từ trong gầm giường ra một chiếc petaca [7]. Lục chiếc hòm, bà ta lấy những tấm vải trải giường, giấu chúng dưới cánh tay rồi nhón chân bước ra ngoài, dường như tránh gây động để khỏi đánh thức tôi.

Tôi sợ đến phát kinh, không dám thở, đưa mắt nhìn đi nơi khác. Cuối cùng tôi quay đầu nhìn. Lúc ấy tôi nhìn thấy sao Hôm ở ngay cạnh mặt trăng.

- Hãy uống thứ này đi!

Tôi nghe thấy, nhưng không dám quay đầu lại.

- Hãy uống thứ này đi nào! Nước hoa cam đấy. Nó sẽ làm cho ông bình tĩnh lại. Tôi biết là ông đang bị hoảng loạn vì thấy người ông run rẩy. Thứ nước này sẽ khiến ông qua cơn sợ hãi mà.

Tôi nhận ra đôi bàn tay quen ấy, và khi ngẩng lên tôi nhận ra gương mặt của bà ta. Người đàn ông đứng đằng sau bà ta hỏi tôi:

- Ông ốm sao?

- Tôi không được rõ lắm. Tôi đã nhìn thấy con người và sự việc ở nơi mà có lẽ là ông bà không nhìn thấy gì. Có một bà vừa mới ở đây xong. Chắc chắn là ông bà cũng nhìn thấy bà ta.

- Lại đây em! - Người đàn ông nói với bà ta. - Hãy để mặc ông ta. Có thể ông ta là một nhà thần bí.

- Chúng mình nên cho ông ta nằm trên giường. Anh hãy nhìn kìa: Ông ta mới run làm sao, chắc chắn là ông ta đang sốt.

- Em đừng có tin ông ta. Những lão này thường giả trang như vậy để khiến người khác phải chú ý. Ở Media Luna, anh có quen một người kiểu như thế này. Đó là gã vẫn thường đoán vận mệnh cho người khác. Điều mà chẳng bao giờ gã đoán là việc gã sắp ngoẻo vì khi đó ông chú đã đoán biết được việc làm thô thiển của gã. Ông ta có thể là một nhà thần bí trong số những kẻ thần bí kiểu ấy. Cả đời chỉ lê la khắp các làng để nói: “Nào để xem đấng Toàn năng mnốn nói gì với các ngài nào”. Nhưng ở đây ông ta sẽ chẳng gặp được ai cho ăn để qua cơn đói bụng. Em xem kìa, ông ta đã hết run rồi. Và có lẽ ông ta đang nghe chúng mình nói chuyện.

Thời gian như quay ngược trở lại. Tôi lại thấy vì sao bên cạnh mặt trăng, thấy những đám mây tản mát đây đó, thêm những đàn sáo đang bay. Ngay lập tức tôi lại thấy buổi chiều còn chan hòa ánh sáng.

Nắng quái chiều hôm chiếu trên những bức tường. Những bước chân tôi lại vang lên khi nện vào đá sỏi. Người dắt lừa nói với tôi: “Hãy tìm bà Eduviges, nếu như bà ta vẫn còn sống”.

Sau đó là một căn phòng tối om. Một người đàn bà đang ngáy khò khò bên cạnh tôi. Tôi nhận ra tiếng thở của bà ta không đều, như thể bà ta đang mơ hay đúng hơn là bà ta không ngủ mà chỉ biết bắt chước những tiếng động do cơn mơ gây ra. Chiếc giường tre được phủ những bao tải khai mùi nước tiểu, những bao tải rỗng không bao giờ được hong phơi dưới ánh nắng mặt trời. Chiếc gối gỗ được bọc vải thô hay là vải lanh, thứ lanh dai, nhờn mồ hôi, nhăn nhúm lại.

Tôi cảm thấy hai chiếc đùi non để trần của người đàn bà ở ngay nơi đầu gối chân mình và cảm thấy hơi thở của bà ta ở ngay bên cạnh mặt mình. Tôi ngồi trên giường, dựa lưng vào một vật như một viên gạch được dùng làm gối.

- Ông không ngủ sao? - Bà ta hỏi tôi.

- Tôi không buồn ngủ. Tôi đã ngủ cả ngày rồi. Ông anh bà đi đâu?

- Đã đi rồi. Ông đã nghe thấy ông ấy nói tên nơi ông ấy cần phải đến. Có lẽ sẽ không trở về tối nay.

- Vậy là ông ấy thường xuyên bỏ đi như thế sao? Để mặc bà ở nhà một mình.

- Đúng thế! Cũng có thể ông ấy không trở về. Tất cả mọi người đều bắt đầu bỏ đi như thế đấy. Họ bảo rằng tôi sẽ đi khỏi đây, rằng tôi sẽ đi xa hơn đây. Họ ra đi, đi rất xa, ngày một xa hơn và có lẽ không bao giờ trở về. Lúc nào ông ấy cũng muốn bỏ đi và tôi nghĩ rằng đã đến lúc ông ấy ra đi thật sự. Có lẽ ông ấy nghĩ rằng tôi không biết được ý định của mình nên ông ấy bỏ đi để tôi lại cho ông chăm nom. Ông ta thấy thời cơ của mình đã tới. Đi bắt bò rừng chẳng qua là một cái cớ mà thôi, ông sẽ thấy rằng ông ta không trở về.

Tôi định bảo bà ta: “Tôi ra ngoài thở hít chút không khí kẻo ở đây tôi thấy ngột ngạt đến buồn nôn”, nhưng tôi lại bảo:

- Bà đừng lo! Thế nào ông ta cũng trở về mà.

Khi tôi đứng dậy, bà ta hỏi tôi:

- Tôi để cho ông một ít thức ăn nướng trên than lửa đấy. Ít thôi nhưng cũng đủ để ông đỡ đói.

Tôi thấy một mẩu thịt khô, mấy chiếc bánh đa ngô hong trên than hồng.

- Đó là những thứ mà tôi có thể kiếm được cho ông, - tôi nghe thấy bà ta từ trong ấy nói vọng ra. - Tôi đã đổi hai chiếc khăn vải trải giường sạch sẽ được cất giữ từ hồi mồ ma bà mẹ tôi cho người chị gái mình. Có lẽ bà ấy đã đến lấy vải trải giường. Tôi không muốn nói điều đó trước mặt Donis. Người đàn bà mà ông nhìn thấy chính là bà ta và bà ta đã làm ông hoảng sợ.

Trời tối đen nhưng đầy sao. Bên cạnh mặt trăng là ngôi sao sáng nhất trong số những ngôi sao khác.

- Mẹ có nghe thấy tiếng con không hở mẹ? - Tôi thầm hỏi.

Tiếng nói của bà đáp lại:

- Con ở đâu?

- Con ở đây, ở ngay trên làng của mẹ đây. Con ở ngay bên cạnh dân làng của mẹ. Mẹ không nhìn thấy con sao hả mẹ?

- Không, mẹ không nhìn thấy con, con ạ.

Tiếng nói của bà hiện ra như bao trùm tất cả. Rồi nó yếu dần, yếu dần cho tới khi tắt hẳn ở phía ấy, phía còn xa hơn cõi trần gian này.

- Không, mẹ không thấy con!

Tôi trở vào đến giữa sàn nhà là nơi người đàn bà ấy ngủ và tôi bảo bà ta:

- Tôi nằm nghỉ ở đây, ở ngay chỗ của mình. Giường nằm cũng chẳng êm ái hơn sàn nhà. Nếu có gì xảy ra bà hãy gọi tôi nhé.

Bà ta bảo tôi:

- Donis sẽ không trở về. Tôi biết chắc điều đó qua ánh mắt của ông ta. Ông ta đợi có người tới nhà là bỏ đi ngay. Bây giờ anh có nhiệm vụ chăm sóc em. Hay là anh không thích chăm nom em nào? Anh hãy tới đây ngủ với em.

- Tôi ngủ đây cũng tốt rồi.

- Tốt hơn hết là anh hãy trèo lên giường. Ở dưới ấy con ve sẽ ăn thịt anh mất.

Thế là tôi đi đến chỗ bà ta và cùng nằm với bà ta.

Vào lúc nửa đêm tôi thức dậy vì oi bức khiến tôi vã cả mồ hôi hột. Thân xác của người đàn bà ấy được làm bằng đất, được bọc trong vỏ đất, đang vữa ra cứ như thể nó đang bị khuấy trong một vũng bùn. Tôi cảm thấy mình đang bơi trong thứ mồ hôi chảy từ thân xác người đàn bà ấy và cảm thấy ngột ngạt vì thiếu không khí. Thế là tôi đứng dậy. Người đàn bà vẫn ngủ. Từ miệng bà ta phát ra âm thanh ma quái giống như tiếng nấc lúc hấp hối.

Tôi bước ra đường để thay đổi không khí, nhưng cơn oi nóng vẫn bám riết lấy tôi, không buông tha tôi. Bởi vì ở đây không có gió mà chỉ có cái nóng bức vì tiết Đại thử của đêm tối lặng lẽ u ám.

Vì thiếu không khí nên tôi buộc phải thở chính không khí do tôi thở ra, bằng cách lấy hai tay giữ hơi thở đó lại ở trước mũi mình trước khi nó bay đi. Tôi cảm thấy không khí do mình thở ngày một ít đi, ít đi đến mức nó mỏng tang có thể lọt vĩnh viễn qua các ngón tay mình.

Tôi bảo là nó vĩnh viễn lọt các ngón tay mình.

Tôi vẫn còn nhớ rằng mình đã nhìn thấy một vật tương tự như những đám mây nổi đầy bọt vần vụ bay trên đầu mình, rồi sau đó tôi tắm mình trong thứ bọt ấy và tôi lạc lối trong đám mây khổng lồ ấy. Đó chính là cái duy nhất và là cái cuối cùng tôi nhìn thấy.

- Juan Preciado, cháu muốn làm cho ta tin rằng cháu bị ngạt mà chết phải không? Ta gặp cháu ở quảng trường, cách rất xa nhà Donis và ông ta cũng ở bên cạnh ta nói rằng cháu đã chết. Chúng ta cùng kéo cháu tới dưới bóng mái hiên và lúc này cháu nằm thẳng cẳng. Cháu đã chết như những người chết vì sợ hãi. Nếu đêm ấy như cháu nói không có không khí để thở thì chúng ta cũng chẳng còn hơi sức để mang cháu đi chôn. Và giờ đây, cháu thấy đấy, chúng ta đã chôn cất cháu rồi.

- Doroteo ạ! Bà nói có lý lắm. Bà bảo tên mình là Doroteo phải không?

- Gọi thế nào cũng được. Mặc dù tên ta là Dorotea kia. Thôi được, gọi thế cũng được.

- Đúng thế đấy, Dorotea ạ. Những tiếng rì rầm đã giết chết cháu.

“Ở đó con sẽ gặp lại nơi chôn nhau cắt rốn của mẹ. Đó là nơi mẹ hằng yêu mến, là nơi những ước mong thời trẻ khiến mẹ bủn rủn cả người. Làng mẹ nổi lên trên đồng bằng, um tùm cây cối. Nó giống như một con lợn đất để mẹ cất giữ những kỷ niệm của mình. Con sẽ cảm thấy người ta muốn sống trăm tuổi, nghìn tuổi, sống mãi mãi. Buổi ban mai, buổi sáng, buổi trưa, buổi tối, tất cả các buổi ấy đều giống nhau duy chỉ có gió là khác. Ở đó, gió làm thay đổi sắc màu của cảnh vật; ở đó, cuộc sống thay đổi giống như những tiếng rì rầm hay nói cho đúng hơn là nó tựa như những tiếng rì rầm trong trẻo của cuộc sống...”

- Đúng thế bà Dorotea ạ. Những tiếng rì rầm đã giết chết cháu. Mặc dù nỗi hoảng sợ cũng đến với cháu nhưng nó đến chậm hơn. Nó đã đến bên cháu cho tới khi cháu không thể chịu đựng hơn được nữa. Và khi cháu nghe thấy những tiếng rì rầm ấy thì gân cốt cháu như đứt tung ra.

Bà có lý, cháu đến quảng trường. Tiếng ồn ào của đám đông đã lôi cháu đến đó và cháu cứ tưởng rằng ở đó có người thật. Lúc đó cháu đã không còn tỉnh táo. Cháu nhớ rằng cháu đã lần theo các bờ tường mà đến như thế, cháu đã đi bằng hai tay. Những tiếng rì rầm phát ra như nước chui qua các vết nứt, các kẽ hở, từ trong các bức tường nhỏ giọt ra, nhỏ giọt ra. Cháu nghe rõ chúng. Đó là tiếng nói của đám đông, nghe thầm thì thầm thì chứ không rõ ràng, như thể khi cháu đi qua muốn nói thầm cho cháu nghe, hoặc giả những tiếng rì rầm ấy đập thẳng vào tai cháu. Cháu liền tách ra khỏi các bức tường và đi ở chính giữa đường, nhưng như trước đây cháu vẫn nghe thấy chúng như thể chúng đến thẳng với cháu. Chúng đến từ phía trước và cả từ phía sau. Cháu không cảm thấy nóng như đã nói với bà trước đây; trước đây thì ngược lại. Cháu cảm thấy rét. Kể từ lúc cháu ra khỏi nhà người đàn bà ấy và như cháu đã nói với bà, cháu nhìn thấy bà ta vữa ra trong chính mồ hôi của bà ta, kể từ lúc ấy cái rét thấm vào người cháu. Và ngay lập tức cháu bỏ đi, cái rét cũng tăng lên tăng lên cho tới khi da cháu nổi da gà. Cháu muốn trở lại vì nghĩ rằng nếu trở lại sẽ tìm thấy hơi ấm mà mình vừa để lại ở phía sau: nhưng đi được một quãng ngắn thì cháu nhận ra cái rét từ trong mình mà ra, từ ngay trong máu mình. Chính lúc ấy cháu thấy mình đang hoảng sợ. Cháu nghe rõ có tiếng ồn ào dữ dội ở ngoài quảng trường và nghĩ rằng nếu cháu ở giữa đám đông thì sẽ bớt sợ hơn. Vì thế mà bà bắt gặp cháu ở quảng trường. Vậy là cuối cùng Donis vẫn trở về, phải không bà? Người đàn bà ấy chắc chắn rằng Donis sẽ không bao giờ trở về nhà nữa.

- Ông ta đi từ sáng, khi chúng ta gặp cháu. Ta không biết ông ta từ đâu tới. Ta không hỏi ông ta mà.

- Vậy là cháu đã tới quảng trường. Cháu dựa lưng vào một cột thềm. Cháu chẳng thấy một ai dù rằng cháu vẫn nghe thấy tiếng nói rì rầm, như cái tiếng ồn ào của chợ phiên đang lúc đông vui. Một tiếng ồn đều đều, chẳng có ý vị gì cả giống như tiếng rì rầm của gió vuốt lá cây khi không thấy có cây cối nhưng nghe rõ tiếng rì rầm. Cứ như thế mãi. Cháu cũng không chịu lùi một bước. Cháu bắt đầu cảm thấy cái tiếng nói rít qua hàm răng ấy đến gần mình rồi vây lấy mình như thể cả một bầy ong đang bay quanh mình, cho tới khi cháu nhận ra được một số lời nói gần như không có âm thanh bảo mình: “Hãy cầu khẩn Chúa cho chúng ta đi”. Cháu nghe rõ điều đó. Lúc ấy cháu lạnh cả người. Chính lúc ấy ông ta và bà bắt gặp cháu đã chết.

- Có lẽ mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn nếu cháu không đến đây. Cháu tới đây để làm gì nào?

- Cháu đã bảo với bà ngay từ đầu rồi. Cháu đến để tìm ông Pedro Páramo, một người hình như là cha cháu thì phải. Một ảo ảnh đã dắt dẫn cháu tới đây.

- Ảo ảnh à! Nếu bị ảo ảnh dắt dẫn thì thật là khốn thân đấy. Vì nó ta đã phải sống lâu hơn mức nhẽ ra được sống. Ta đã phải trả giá cho việc đi tìm con trai mình mà thực ra nó chỉ là một ảo ảnh không hơn không kém. Vì ta chưa bao giờ có con. Giờ đây khi mà ta đã chết, ta có đủ thời gian để suy nghĩ và hiểu hết mọi lẽ. Chúa chẳng cho ta thứ gì, ngay tới cả một tổ ấm để ấp ủ nó. Ta chỉ có cuộc đời dài lê thê, ấy vậy mà lúc nào đôi mắt buồn của ta cũng dõi nhìn theo đám đông ở chỗ này chỗ kia để tìm con ta, để ngờ vực một ai đó, đã giấu con trai ta. Tất cả những cái đó là tội lỗi của một giấc mơ bất hạnh. Ta có hai giấc mơ. Một cái được gọi là giấc mơ hạnh phúc, còn một cái được gọi là giấc mơ bất hạnh. Giấc mơ thứ nhất là giấc mơ khiến ta mơ màng rằng mình có một đứa con trai. Trong lúc sống không khi nào ta nghi ngờ điều đó vì thường xuyên ta cảm thấy đứa con trai ấy đang ở trong vòng tay ta, nó ngây thơ, tay chân mắt mũi nó không lúc nào để yên; trong một thời gian dài ta vẫn giữ mãi trên ngón tay ta cái run rẩy của đôi mắt nó ngủ, cái rung động của trái tim nó đập. Làm sao mà nghĩ rằng đứa con ấy không phải là có thật được kia chứ? Đi bất kỳ chỗ nào ta cũng mang nó theo, quấn nó trong khăn của ta, nhưng rồi bỗng nhiên ta mất nó. Ở trên trời người ta bảo rằng người ta đã nhầm ta, rằng người ta đã cho ta trái tim một người mẹ nhưng với một cái dạ con của một con điếm. Đó chính là giấc mơ bất hạnh. Ta lên đến thiên đường, ngó nhìn mặt các thiên thần để xem may ra nhận được mặt con trai mình. Mà không hề có. Tất cả các gương mặt đều giống nhau như đúc. Thế là ta cất tiếng hỏi. Một trong những vị thiên thần ấy đến gần ta không hề nói năng gì, thọc ngay một bàn tay vào dạ dày ta như thể thọc vào một lọ sáp. Khi rút bàn tay ra, thiên thần ấy chỉ cho ta xem một vật giống như vỏ quả hồ đào, rồi bảo ta: “Cái này chứng thực điều ta đã bày tỏ với nhà ngươi”.

Cháu có biết ở trên ấy người ta ăn nói lạ lùng như thế nào không, nhưng mọi người hiểu nhau hết. Ta muốn nói với các thiên thần rằng cái ấy là do đói và do có ít cái ăn nên dạ dày ta nhăn nhúm lại. Nhưng một vị trong số những vị thiên thần đó đã nắm lấy vai ta đẩy ta đi về phía cửa và bảo ta: “Con hãy trở về cõi trần, mà nghỉ ngơi thêm ít lâu nữa và con nhớ tu thân để trở thành người tốt, để quãng thời gian ở địa ngục của con sẽ ngắn đi”.

Đó chính là giấc mơ bất hạnh mà ta có và nhờ nó ta đã sáng tỏ rằng ta chưa hề có con cái. Ta hiểu điều đó thì đã quá muộn rồi khi mà thân xác ta đã teo tóp, khi mà cái xương sống nhô lên khỏi đầu ta, khi mà ta không thể đi lại được nữa. Rồi bỗng nhiên tất cả đều bỏ đi hết. Làng này trở nên cô quạnh. Mọi người đi nơi khác và thứ ân huệ mà nhờ nó ta sống được cũng theo họ đi nốt. Ta ngồi chờ chết. Sau đó ta gặp cháu, xương tóc ta cũng bằng lòng ở yên một chỗ. “Không một ai thèm nghe ta”, ta nghĩ thế. Ta là một người hiền lành chẳng hề đụng chạm đến ai. Cháu thấy đấy, ta không ăn trộm đất của bất kỳ một ai. Người ta chôn ta ngay trong ngôi mộ của cháu và ta nằm gọn trong vòng tay cháu. Ở đây, ngay trên xó xỉnh này, nơi lúc này cháu đang ở trước mặt ta. Ta chỉ nghĩ rằng, ta nên là người ôm lấy cháu. Có nghe thấy không. Ở bên trên đang mưa đấy. Cháu không nghe thấy tiếng gõ của mưa sao?”

- Cháu cảm thấy như có người đang đi trên chóp chúng mình.

- Cháu đã hết sợ rồi chứ. Giờ thì không ai có thể làm cháu sợ được nữa. Cháu hãy nghĩ tới những câu chuyện vui vì chúng ta còn bị chôn lâu đấy.

Vào lúc trời hừng đông, những hạt mưa nặng hạt rơi xuống đất. Khi chạm phải đất bụi và đất tơi trên những luống cày, chúng vang lên những tiếng lộp bộp. Một chú chim nhại bay là là trên mặt đất và rên rỉ như tiếng rên rỉ của trẻ nhỏ. Nó bay ra xa nhưng vẫn nghe thấy tiếng rên rỉ của nó như tiếng rên rỉ đầy mệt mỏi. Khi bay ra tít phía xa ở tận chân trời, nó phóng hết sức lực bay vút lên và sau đó nó cười khành khạch, để rồi sau đó lại rên rỉ.

Lão Fulgor Sedano cảm nhận hương vị của đất và chạy ra xem mưa xóa đi những luống cày như thế nào. Niềm vui bùng lên rạng rỡ trong hai con mắt bé tí hin của lão. Lão nuốt liền ba ngụm cái hương vị ấy rồi há miệng rộng toang hoác cười để lộ hết răng hàm.

- Chà chà! - Lão nói. - Lại một năm mưa thuận gió hòa đã ập đến với chúng ta. - Rồi lão nói thêm. - Nước thân thương, hãy xuống đây, hãy xuống đây. Em cứ thả sức mà rơi xuống nhé! Sau đó xin mời em sẽ chạy ra phía xa kia và hãy rơi xuống thả sức, vì cô em nên nhớ cho là chúng ta đã cày cuốc trên đất đai của cả vùng này chỉ để cho cô em thả sức mà rơi xuống, rơi xuống cho tới khi nào chán thì thôi.

Rồi lão cười.

Chú chim nhại, sau khi bay khắp đồng đã bay trở lại. Lúc này nó bay ngang qua trước mặt lão và nó lại rên rỉ, rên rỉ như sắp hết hơi.

Mưa xối xả rơi từ những đám mây cho đến khi ở phía xa kia, nơi lúc trước vừa le lói chút tia sáng thì trời đóng sập lại và dường như bóng đêm trở lại sau khi nó đã phải lùi ra xa nhường phần cho ánh sáng.

Cửa lớn của điền trang Media Luna bị gió táp mưa ướt kêu rin rít khi nó mở toang ra. Hai người lao ra, rồi hai người khác lao ra, rồi lại hai người nữa lại lao ra cứ như thế cho đủ số hai trăm người cưỡi ngựa phóng ra tản đi khắp các cánh đồng đang gội trong mưa gió.

- Hãy lùa đàn gia súc ở trại Enmedio đi xa hơn trại Estagua và lùa đàn gia súc ở trại Estagua về dãy đồi Vilmayo, - lão Fulgor Sedano ra lệnh trong lúc bọn người này lao ngựa ra đi. - Nhanh lên kẻo nước ngập hết chúng ta đấy.

Lão nói nhiều lần và chỉ những người ra sau mới nghe rõ: “Từ đây ra đằng ấy và từ đằng ấy ra xa hơn”.

Tất cả và từng người một đưa tay lên mũ ra hiệu để lão biết rằng họ đã hiểu.

Dường như người cuối cùng vừa ra khỏi cổng thì Miguel Páramo phóng ngựa vào, không thèm dừng lại, anh ta xuống ngựa ngay trước mũi lão Fulgor, để mặc con ngựa tự đi tìm lấy máng ăn của nó.

- Cậu cả, cậu từ đâu trở về vào lúc này thế?

- Ta đi vần vú về mà.

- Ai thế cậu.

- Ý hẳn lão không đoán được ai chăng?

- Có lẽ là Dorotea, người đàn bà được mệnh danh là cô Cuarraca [8]. Đó là người đàn bà chỉ có những đứa nhóc con mới thích.

- Lão là một thằng hèn, Fulgor ạ. Nhưng mà thôi, lão không có lỗi.

Rồi anh ta bỏ đi ngay không kịp cởi cựa thúc ngựa, để người ta cho mình ăn trưa.

Tại nhà ăn, Damiana Cisneros cũng hỏi anh ta chính câu hỏi ấy.

- Nhưng, cậu Miguel, cậu từ đâu về đây?

- Ở đằng ấy! Đi thăm các mẹ về đây mà.

- Thật tình tôi không muốn cậu nổi giận mà. Hãy nguôi giận đi nào. Thế cậu muốn ăn trứng làm theo kiểu nào đây?

- Tùy bà, muốn làm thế nào cũng được.

- Ơ hay, tôi đang nói thật lòng mà, cậu Miguel ạ.

- Damiana ạ, ta hiểu lòng bà già. Bà đừng quản ngại. Này, bà có quen biết một bà tên là Dorotea nào đấy không? Đó là người vẫn được mệnh danh là Cuarraca ấy mà!

- Có đấy. Nếu cậu muốn xem mặt thì bà ta ở ngay ngoài kia kìa. Bà ấy vẫn thường dậy rất sớm để đến đây xin ăn sáng. Đó là người đàn bà lấy một cuộn len gói trong khăn, cuốn nó lại giống như một đứa trẻ để bảo với mọi người rằng đây là con mình. Hình như trong thời trẻ của mình, bà ta đã gặp phải chuyện bất hạnh. Nhưng vì chẳng bao giờ bà ta nói, nên không một ai biết rõ chuyện gì chẳng lành đã xảy ra với bà ta. Bà ấy sống bằng của bố thí.

- Lão già chết tiệt! Ta phải trêu cho lão đến đổ máu mắt mới được.

Sau đó anh ta ngồi nghĩ để xem cái người đàn bà ấy có thể giúp mình được gì chăng. Và không chần chừ gì nữa, anh ta bước ra cửa sau của nhà ăn rồi gọi Dorotea:

- Lại đây nào. Ta sẽ thảo luận với bà một việc, - anh ta nói vậy.

Và không một ai biết Miguel đã thảo luận với người đàn bà về việc gì. Người ta chỉ biết chắc chắn rằng khi trở lại nhà ăn, anh ta xoa hai tay, nói:

- Hãy mang những quả trứng ấy lại đây mau, - anh ta gọi Damiana rồi nói rõ. - Từ hôm nay trở đi, bà hãy cho người đàn bà này ăn như bà cho ta ăn nghe chưa. Dù bà có trầy vi tróc vẩy thì cũng mặc bà nhé.

Trong lúc đó lão Fulgor ra nhà kho để kiểm tra lượng ngô còn trong các thùng. Lão đang lo lượng ngô ít dần đi vì mùa thu hoạch còn lâu mới tới. Thật tình thì ngô vừa mới được gieo hạt. “Ta muốn xem chúng ta có đủ mà ăn không”. Ngay lập tức lão lại nói thêm: “Cái cậu cả ấy? Cái cậu cả ấy giống hệt cha nó nhưng bắt đầu khí sớm. Cứ theo cái đà này ta không tin rằng cậu ta sẽ thành đạt. À, ta quên không bảo cậu ta rằng hôm qua người ta tới đây tố cáo cậu ấy giết một người. Nếu cứ tiếp tục như thế thì...”.

Lão thở dài rồi cố mường tượng xem những người chăn bò hiện đang ở chỗ nào. Nhưng con ngựa hồng của Miguel mà lúc này đang cọ cọ cái mõm vào hàng rào khiến lão thích thú. “Cũng không thèm tháo yên cương cho con vật”, lão nghĩ. “Cũng sẽ chẳng bao giờ tháo yên cương. Chí ít ra don Pedro còn là người biết phép tắc hơn và cũng có những lúc điềm tĩnh hơn. Tuy vậy ngài vẫn cứ bênh vực Miguel nhiều. Hôm qua mình đã trình ngài tội lỗi của con trai ngài và ngài bảo: “Fulgor ạ, lão hãy nghĩ rằng ta là tội phạm; còn thằng bé không đủ khả năng làm việc ấy: nó không đủ sức để giết người. Để giết người cần phải có quả thận to bằng ngần này kia”. Ngài đưa tay ra hiệu vòng một cái tướng như bằng quả bí đỏ. “Tất cả những tội ác mà thằng bé làm hãy đổ lên đầu ta”.”

- Cậu Miguel sẽ làm cho ngài đau đầu đấy, thưa don Pedro. Cậu ấy rất thích đánh lộn mà.

- Cứ để thằng bé hoạt động. Nó hầu như hãy còn trẻ ranh mà. À, nó bao nhiêu tuổi nhỉ, có phải đã mười bảy rồi phải không Fulgor?

- Hình như là thế đấy. Tôi nhớ rằng người ta vừa mang cậu ấy tới đây, dường như mới hôm qua thôi, ấy thế mà cậu ấy táo tợn quá và sống gấp quá đến nỗi tôi nghĩ rằng cậu ấy đang chạy đua với thời gian. Cậu ấy bại đến nơi rồi, ngài sẽ thấy nhanh thôi.

- Nhưng mà thằng bé hãy còn thơ dại lắm, Fulgor ạ.

- Don Pedro ạ, cứ coi điều ngài nói là đúng đi nhưng người đàn bà đến đây khóc lóc vào ngày hôm qua lại khẳng định con trai ngài đã giết chồng người ta. Bà ta đang đau đớn quá chừng. Tôi biết đo nỗi đau đớn ấy, thưa don Pedro. Và nỗi đau đó rất nặng. Tôi đã cho bà ta 5.000 lít ngô để bà ta quên câu chuyện, nhưng bà ta không nghe. Thế là tôi buộc phải hứa sẽ tìm cách giải quyết vấn đề thỏa đáng, thật thỏa đáng. Bà ta không bằng lòng.

- Lão đang nói về ai thế?

- Tôi cũng không được rõ mấy kẻ đó lắm.

- Vậy thì lão không nên lo, lão Pulgor ạ. Mấy đứa vô danh tiểu tốt ấy mà.

Lão đã vào nhà kho và cảm nhận hơi nóng của ngô. Lão vốc một nắm ngô lên để xem đã bị mọt đục chưa. Lão đo xem lượng ngô trong thùng cao đến độ nào: “Ăn chắc rồi, - lão nói. - Trong lúc cỏ lớn chúng ta không phải cho gia súc ăn ngô hột nữa. Có khối ngô rồi!”.

Khi trở về, lão nhìn bầu trời đầy mây. “Chúng ta sẽ có đủ nước mưa cho mùa màng”. Thế là lão quên hết mọi sự đời.

- Có lẽ ở bên ngoài thời tiết đang thay đổi. Mẹ cháu kể với cháu rằng khi mưa bắt đầu rơi xuống thì tất cả, tất cả, đều chan hòa ánh sáng và mùi vị của chồi xanh. Mẹ cháu tả mây vần vụ như thế nào rồi mưa đổ xuống như thế nào và tất cả đều đổi thay màu sắc... Mẹ cháu, người từng sống tuổi hoa niên và những năm tháng đẹp nhất của đời mình trong cái làng này, đã không thể trở về làng, ngay đến lúc nhắm mắt xuôi tay cũng không thực hiện được ước muốn trở về làng. Chính vì thế mà bà đã bảo cháu thay bà trở về làng. Bà Dorotea ạ, thật là kỳ lạ cháu không nhìn thấy bầu trời. Có lẽ ít ra cái bầu trời ấy cũng phải giống bầu trời mẹ cháu biết chứ.

- Ta không rõ đâu, Juan Preciado ạ. Đã nhiều năm ta không ngẩng mặt lên, đã nhiều năm ta quên mất bầu trời. Dẫu rằng ta có nhìn lên thì thử hỏi ta được gì nào? Bầu trời quá cao xa mà mắt ta không nhìn thấy và ta chỉ hởi lòng hởi dạ khi biết đất ở chỗ nào. Mặt khác ta mất hết hứng thú kể từ khi cha Rentería khẳng định với ta rằng không bao giờ ta được biết thiên đường là gì. Kể cả việc từ xa mà ngắm nhìn cũng không... Đó là tội lỗi của ta, nhưng cha cũng chẳng nên nói với ta điều ấy làm gì. Hiển nhiên là cuộc sống đầy những chuyện cực nhọc. Cái duy nhất khiến chân tay người ta hoạt động là niềm tin rằng khi nhắm mắt xuôi tay sẽ được mang từ nơi này đến nơi khác. Nhưng khi người ta chết rồi thì một cánh cửa đã khép bước họ lại và chỉ mở ra cho họ một cánh cửa dẫn đến địa ngục, đã thế thì chẳng nên sinh ra trên cõi đời làm gì... Đối với ta ấy mà, Juan Preciado ạ, thiên đường đang ở nơi ta hiện tồn lúc này.

- Còn linh hồn bà thì sao? Bà nghĩ nó đang đi đâu?

- Có thể nó đang lang thang trên mặt đất như những linh hồn khác để tìm người sống cầu khẩn Chúa cho nó. Có thể nó căm thù ta vì ta đã đối xử tệ với nó. Nhưng bây giờ, điều đó ta không bận tâm nữa. Ta không còn phải nghe nó rên rỉ về những hối hận. Ta đắng lòng ngay cả với cái ăn ít ỏi và ta trằn trọc trong những đêm đầy ý nghĩ hoảng loạn với hình ảnh về sự trừng phạt. Khi ta nằm xuống để chết tâm hồn ta van ta hãy đứng dậy và ta hãy cố kéo lê lết cuộc đời ta, cố trông đợi một phép mầu nào tới để giải tội cho ta. Ta không để lộ ý định thực hiện điều đó: “Đến đây ta đã hết đường - ta nói - ta không còn sức lực nữa”. Ta mở miệng để linh hồn ta bay ra. Linh hồn ta bay đi. Ta cảm thấy dòng máu nhỏ gắn bó với trái tim ta rơi xuống trên đôi tay ta.