← Quay lại trang sách

- 4 -

Người ta gọi cửa nhưng ngài không trả lời. Ngài nghe rõ đám đông tiếp tục gõ cửa làm mọi người kinh động. Ngài nghe rõ những bước chạy của lão Fulgor -ngài nhận ra nhờ bước chân của lão - về phía cửa lớn bỗng dừng lại một lúc như thể lão còn muốn gọi nữa. Sau đó lão lại tiếp tục chạy.

Ồn ào những tiếng nói. Những bước chân nặng nề lê đi như thể đang khiêng một vật nặng lắm.

Những tiếng động bâng quơ.

Cái chết của cha ngài bỗng lại hiện về trong tâm trí ngài, cũng trong một buổi mai như buổi mai này; dù lúc ấy cửa vẫn mở toang để lọt vào một mảng da trời màu ghi xám, buồn rầu, đúng như cái thời kỳ ấy cũng buồn rầu và ảm đạm. Một người đàn bà đang dựa lưng vào cánh cửa cố ghìm tiếng khóc. Đó là một người mẹ mà ngài đã quên và nhiều lần quên đi, đang nói với ngài: “Người ta đã giết bố mày rồi!”. - Người đàn bà ấy nói với tiếng nói thất thanh, rời rạc chỉ được nối lại bởi tiếng khóc nức nở.

Không bao giờ ngài muốn sống lại cái kỷ niệm ấy bởi vì nó kéo tới những kỷ niệm khác nữa, như thể người ta làm toạc cái túi đựng hạt căng phồng và sau đó lại cố giữ cho hạt không rơi ra. Cái chết của cha ngài kéo theo những cái chết khác và trong từng cái chết ấy luôn luôn hiển hiện hình ảnh một gương mặt bị giập nát: một con mắt nát bét, còn con mắt kia cứ nhìn đầy hằn thù. Rồi kỷ niệm khác tới, lại kỷ niệm khác tới, cho tới khi hình ảnh về cái chết bị nhạt nhòa trong ký ức ngài khi không còn ai gợi ngài nhớ tới.

- Hãy đặt cậu ta nằm ở đây! Không, không để như thế được? Cần phải xoay lại để đầu cậu ấy quay về phía sau. Anh kia, còn đợi gì nữa hả?

Tất cả đều nói rất khẽ khàng.

- Ngài đâu?

- Ngài đang ngủ. Người ta không dám đánh thức ngài dậy. Xin hãy nhẹ nhàng, chớ động chạm mạnh. -Ngài, to lớn, đứng lù lù ở đấy nhìn mọi người đang ì ạch đưa cái thây ma được những túi vải cũ bọc lại, có dây thừng ràng buộc cẩn thận như thể nó đã được liệm rồi.

- Ai thế? - Ngài hỏi.

Fulgor Sedano tiến lại gần ngài nói:

- Thưa don Pedro, cậu Miguel ạ.

- Bọn nó đã làm gì cậu hả? - Ngài quát hỏi.

Ngài như đợi nghe thấy: “Bọn nó đã giết cậu”. Vì người ta đã đoán trước được cơn thịnh nộ của ngài, cơn giận của ngài đang nổi lên; cho nên ngài nghe thấy những từ ngữ rất mềm mỏng của Fulgor Sedano đang nói với ngài:

- Chẳng ai làm gì cậu ấy cả. Chỉ tại cậu ấy đã gặp thần chết.

Có những ngọn đèn dầu hỏa thắp sáng đêm đen.

-... Con ngựa đã giết chết cậu ấy, - có người bạo phổi dám nói rõ nguyên nhân cái chết cho người nghe.

Người ta đặt tử thi lên chiếc giường của nó, trên chiếc giường đã lột bỏ tấm đệm, để lộ những tấm ván bóng nhẵn ấy. Cái tử thi đó sau khi được cởi bỏ hết dây nhợ được đặt ngay ngắn trong tư thế thoải mái trên chiếc giường. Người ta đặt hai tay anh ta lên ngực rồi lấy mảnh vải đen che mặt cho anh ta. “Dường như thân xác cậu to ra hơn lúc còn sống”, lão Fulgor Sedano thầm thì nói.

Ngài Pedro Páramo đứng lặng không cử động, không nói năng gì hết, như thể ngài đã bỏ đi rồi. Nhưng trên đầu ngài những luồng suy nghĩ cứ phát ra, phát ra không ngừng nghỉ. Cuối cùng ngài nói:

- Ta bắt đầu phải trả giá đây. Thà rằng bắt đầu sớm để kết thúc sớm, như thế càng tốt.

Ngài không cảm thấy đau đớn.

Khi đứng trước đám đông tụ tập trong sân để cảm tạ họ đã tới chia sẻ nỗi bất hạnh của mình, ngài nói liến thoắng và tiếng nói của ngài oang oang lấn át tiếng than khóc của các bà phụ nữ. Sau đó, trong cái đêm ấy, chỉ có tiếng con ngựa hồng của Miguel Páramo hí vang thảm thiết.

- Ngài mai, hãy ra lệnh giết con ngựa ấy đi để nó khỏi đau đớn thêm nữa, - ngài ra lệnh cho lão Fulgor Sedano.

- Thưa vâng, ông chủ cứ yên tâm. Tôi hiểu rồi ạ. Chắc con ngựa khốn khổ ấy đau đớn lắm ạ.

- Lão Fulgor ạ, ta cũng hiểu thế. Lão nhớ là hãy đi nói với các bà ấy chớ nên làm ồn quá mức như vậy. Thực tình họ đã quá ồn ĩ vì người chết của gia đình ta rồi. Nếu là người thân của họ thì có lẽ họ sẽ chẳng khóc lóc thảm thiết đến như thế đâu.

Rất nhiều năm sau đó, cha Rentería nhớ lại cái đêm cha đã thức dậy và buộc phải ra khỏi phòng ngủ vì giường giát cứng không cho cha ngủ tiếp. Đó chính là đêm Miguel Páramo chết.

Cha đi lại trên những con đường cô quạnh của làng Comala. Bước chân cha làm giật thột những con chó đang mải kiếm ăn ở bãi rác. Cha ra tận bờ sông và tại đây cha thích thú ngắm nhìn sao trời lung linh trên mặt nước phẳng lặng. Cha cứ đứng như vậy trong vài giờ, vật lộn với những suy tư của mình rồi ném chúng xuống dòng sông nước đen ngòm.

“Câu chuyện bắt đầu khi, cha nghĩ, Pedro Páramo, vốn là kẻ hèn kém, vươn lên thành ông chủ lớn. Ngài đã lớn lên như một cây cỏ độc. Điều tệ hại đó là do ta mà ra: “Thưa cha, con thú tội là đêm qua con đã ngủ với Pedro Páramo”. “Thưa cha, con thú tội là con đã có con với don Pedro Páramo”. “Thưa cha, con thú tội rằng con đã hiến con gái mình cho don Pedro Páramo”. Lúc nào ta cũng đợi ngài tới thú tội nhưng chẳng bao giờ ngài tới nhà thờ. Giờ đây qua thằng con ấy, ngài đã vươn đôi cánh tay tội ác của mình dài thêm nữa. Đối với đứa con được ngài thừa nhận thì chỉ có Thượng đế mới hiểu vì sao. Điều ta biết chắc chắn là ta đã đặt cái công cụ gây tội ác ấy vào tay ngài.

Cái ngày người ta mang thằng bé tới - nó còn đỏ hon hỏn dường như vừa mới sinh - lại hiện về rõ mồn một. Cha bảo ngài:

- Don Pedro này, người mẹ đã qua đời khi sinh cháu. Bà ấy bảo nó là của ngài. Kìa, nó kia kìa.

Ngài không nghi ngờ, chỉ nói với cha:

- Vì sao cha không giữ lại mà nuôi dạy cho nó thành thầy tu, hở cha?

- Ta không muốn chịu trách nhiệm đối với nó, kẻ mang dòng máu của ngài trong người.

- Có thật là cha tin rằng ta mang máu xấu phỏng?

- Quả thật là vậy, don Pedro ạ.

- Ta sẽ chứng tỏ cho ngài thấy là không đúng. Hãy để nó lại đây. Có khối người sẽ chăm sóc thằng bé.

- Đúng thế đấy, ta cũng chỉ nghĩ thế thôi. Chí ít ra ngài cũng còn có chỗ tránh mưa tránh nắng để nó nương náu.

Đứa bé vặn vẹo người, nó bé bỏng như vốn thế, giống như một con rắn độc.

- Damiana! Cô hãy lo việc nuôi nấng thằng bé. Nó là con ta.

Sau đó ngài mở nút chai rượu:

- Ta sẽ uống cốc rượu này để mừng người đã quá cố và mừng cha.

- Và cả đứa trẻ nữa chứ?

- Dĩ nhiên là cả thằng bé nữa.

Ngài rót thêm cốc rượu nữa và cả hai cùng cạn chén chúc mừng tương lai của đứa trẻ mới sinh ấy.

Câu chuyện là như thế đấy.”

Những chiếc xe bò bắt đầu diễu qua đi về điền trang Media Luna. Cha cúi xuống nấp trong mô đất nơi con sông uốn khúc. “Mi phải trốn ai?”. Cha tự hỏi lòng mình.

- Kính chào đức cha, - cha nghe có tiếng chào mình.

Cha đứng dậy và đáp lại:

- Xin chào! cầu Chúa ban phước lành cho con.

Đèn trong làng đã tắt. Nước trên sông sáng lấp lánh sắc màu.

- Thưa cha, đã bình minh chưa ạ? - Một người đánh xe bò hỏi.

- Có lẽ bình minh đã được lâu rồi, - cha trả lời. Rồi cha đi ngược chiều với những chiếc xe bò, định bụng sẽ không dừng lại.

- Cha đi đâu mà sớm thế?

- Kẻ hấp hối ở đâu thế, thưa cha?

- Thưa cha có ai chết ở làng Contla thế?

Cha muốn trả lời họ: “Ta, ta là người chết đây”. Nhưng rồi cha lại mỉm cười.

Khi ra khỏi làng, cha rảo bước đi.

Cha trở về thì trời đã sáng rồi.

- Chú ở đâu vậy, thưa chú, - Ana, cô cháu của cha, hỏi cha. - Nhiều bà đến đây tìm chú để xin xưng tội kẻo ngày mai là ngày thứ Sáu đầu tháng rồi.

- Hãy bảo họ đến đây vào buổi tối nhé!

Cha ngồi một lúc lâu trên chiếc ghế băng kê ngoài hiên, cảm thấy rất mệt mỏi.

- Gió mát nhỉ, phải không Ana?

- Ôi, đang nóng đấy chú ạ.

- Vậy mà ta không cảm thấy nóng.

Cha không muốn nghĩ gì về việc cha đã ở làng Contla. Ở đây cha đã làm lễ xưng tội chung với tu sĩ và tu sĩ này, dù cha khẩn khoản cầu xin, đã từ chối làm lễ xá tội cho cha.

- Con người mà cha không dẫn tên ra ấy đã phá hoại nhà thờ của cha và cha đã để cho kẻ ấy làm vậy. Thế thì thử hỏi giờ tôi còn mong đợi gì ở cha nữa? Với sức mạnh của Chúa, cha đã làm gì? Tôi muốn tin rằng cha là người tốt và rằng ở đó cha đã được mọi người kính nể; nhưng như thế vẫn chưa đủ để làm người tốt. Tội lỗi là không tốt. Và để kết thúc mọi thứ tội lỗi cần phải kiên quyết ra tay trừng phạt không thương tiếc. Tôi muốn tin rằng tất cả mọi người đều giữ trọn niềm tin Thiên Chúa giáo nhưng cha lại không phải kẻ giữ vững niềm tin của họ. Họ làm là vì mê tín và sợ hãi. Hơn nữa tôi muốn ở bên cạnh cha trong hoàn cảnh khốn khổ cha đã sống và làm việc để thực thi chức phận của mình. Tôi biết cái khó của chúng ta khi phải thực thi nhiệm vụ ở những làng nghèo đói này, nơi chúng ta bị phân về; nhưng chính điều đó lại cho phép tôi được quyền nói với cha rằng chẳng phải vậy mà đi hầu hạ một số kẻ nào đó. Chúng đổi cho cha một ít của cải để lấy linh hồn của cha. Khi linh hồn mình đã ở trong tay họ, thì thử hỏi cha có thể làm gì để tốt đẹp hơn những kẻ tốt đẹp hơn cha nào? Không, thưa đức cha, bàn tay tôi không đủ sạch để làm lễ xá tội cho cha. Cha cần tìm sự xá tội ở nơi khác thì hơn.

- Thưa cha, cha muốn tôi đi sao?

- Cha cần phải đi. Cha không thể cứ tiếp tục ban phước khi chính bản thân cha đang ở trong vòng tội lỗi.

- Song nếu các chức vụ của tôi bị bãi miễn thì sao ạ?

- Có thể cha đáng bị thế. Điều này sẽ còn tùy thuộc vào ý kiến của bọn họ.

- Vậy cha không thể...? Một cách tạm thời thôi, chúng ta hãy nói... Tôi cần làm lễ xức dầu Thánh... Lễ ban Thánh thể. Thưa cha, ở làng tôi người chết vô kể ạ.

- Cha hãy để Chúa phán xử những người chết ấy.

- Vậy là không thể được, phải không ạ?

Và vị tu sĩ làng Contla đã bảo rằng không.

Sau đó cả hai người cùng dạo bước trên những hành lang nhà tu sĩ râm bóng cây đỗ quyên. Bọn họ ngồi dưới dàn dây leo mà trên đó những chùm nho đã chín.

- Đều là những quả chua cả, cha ạ, - tu sĩ đã nhanh nhẩu trả lời câu hỏi mà cha sẽ hỏi. - Chúng ta sống trên miền đất nhờ đấng Toàn năng sản đủ thứ. Nhưng tất cả các thứ quả sản ra ở đây đều chua. Chúng ta bị kết tội chỉ được hưởng những quả chua đó.

- Thưa cha, cha nói có lý ạ. Ở Comala tôi đã định trồng nho. Chúng không ra quả. Ở đấy chỉ có cam và sim sống nổi thôi. Cam chua và sim chua. Tôi đã quên mất mùi vị của quả ngọt. Cha chắc còn nhớ những quả ổi tàu hồi chúng ta đi học chứ? Những quả đào, những quả quýt này, những thứ quả chỉ cần bóp nhẹ thôi là vỏ đã long ra. Ở đây tôi có mang theo một số hạt ấy, ít thôi, chưa đầy một túi nhỏ. Nhưng sau đó tôi lại nghĩ rằng nếu để chúng ở nơi chúng sinh trưởng thì tốt biết bao, bởi vậy tôi đã mang chúng theo mình về đây mà chết.

- Tuy nhiên, đức cha ạ, người ta bảo rằng đất đai ở làng Comala là thứ đất tốt. Chỉ tiếc là chúng lại nằm cả trong tay một người. Pedro Páramo vẫn là chủ những đất đai ấy phải không?

- Đó là ý nguyện của Chúa.

- Tôi không tin rằng trong trường hợp này ý nguyện của Chúa lại tham dự vào. Cha có tin như thế không?

- Đôi lúc tôi cũng có nghi ngờ tí chút. Nhưng ở đó, mọi người đều thừa nhận quyền chủ nhân của don Pedro Páramo.

- Mà trong số những người ấy có cả cha nữa phải không nào?

- Tôi chỉ là một người nghèo đã quyết chí sống một cách nhẫn nhục, khi cần thiết phải thế.

Sau đó bọn họ chia tay nhau. Cha cầm lấy tay vị tu sĩ rồi hôn. Giờ đây cha trở lại cuộc đời thực, không muốn nghĩ thêm nữa về buổi sáng ở làng Contla.

Cha đứng dậy rồi đi ra cửa.

- Chú đi đâu đấy, thưa chú?

Ana, cô cháu gái của cha, lúc nào cũng có mặt, lúc nào cũng ở bên cạnh cha cứ như thể cô tìm bóng cha để che chở cho cuộc đời mình.

- Ta sẽ đi dạo một lúc, Ana ạ! Nếu cứ ngồi lì như này người ta đến nổ tung ra mất.

- Chú khó ở sao?

- Không, ta không ốm. Đúng hơn là ta tồi quá. Một con người tồi. Ta đang cảm thấy mình là người như vậy.

Cha đến điền trang Media Luna và chia buồn cùng don Pedro Páramo. Cha lại nghe don Pedro Páramo nói những lời biện hộ cho con trai mình trước những lời buộc tội của đám đông, cha cứ để cho don Pedro nói. Cuối cùng, chẳng có gì hệ trọng cả. Nhưng cha đã từ chối lời mời dùng cơm của don Pedro.

- Tôi không thể ăn được, don Pedro Páramo ạ. Tôi cần phải có mặt sớm ở nhà thờ vì một hàng dài lũ lượt các bà đang đợi tôi ở phòng xưng tội. Xin khất ngài để dịp khác vậy.

Cha đi một mạch về nhà. Khi chiều xuống, cha đi thẳng vào nhà thờ. Cũng như lúc cha ra đi, bây giờ cha trở về với vẻ thiểu não người đầy bụi. Cha ngồi xuống bên bàn xưng tội.

Người đầu tiên tiến đến bàn xưng tội là bà già Dorotea, người lúc nào cũng ở đây để đợi cho cánh cửa nhà thờ mở toang.

Cha ngửi thấy mùi rượu phả ra từ bà ta.

- Sao, con lại say phải không? Từ bao giờ?

- Thưa cha, kể từ khi con dự lễ tang của Miguelito[9]. Con hơi quá chén. Người ta cho con uống quá nhiều rượu cho tới khi con say, nói năng nhảm nhí như một con hề.

- Lúc nào con cũng thế, Dorotea ạ!

- Thưa cha, nhưng giờ đây con có tội ạ! Và nhiều lắm ạ.

Trong một vài dịp khác, cha đã bảo bà: “Thôi, con đừng xưng tội. Dorotea, con chỉ làm mất thời giờ của cha thôi. Con không thể phạm bất kỳ một thứ tội nào cả dù con có cố chăng nữa. Hãy nhường chỗ cho người khác nhé”.

- Bây giờ thì con có tội, thưa cha, quả là con có tội.

- Hãy nói nghe nào.

- Vì giờ chuyện này không còn có thể gây ảnh hưởng nữa, con sẽ nói thực: Con là người đã dẫn gái cho Miguelito Páramo tội nghiệp.

Cha xứ Rentería, người từng nghĩ hãy để cho mình được suy nghĩ, dường như vừa ra khỏi cõi mộng mị của mình, và cha hỏi theo thói quen thường lệ:

- Từ bao giờ?

- Từ khi cậu ấy còn là một thanh niên choai choai. Kể từ khi cậu ấy lên sởi.

- Hãy nói lại điều con vừa nói cho ta nghe nào, Dorotea.

- Nghĩa là con là người đã dẫn gái cho Miguelito.

- Con đã đích thân dẫn gái cho cậu ấy?

- Thưa cha, một đôi lần thôi ạ. Trong một số lần khác con chỉ rỉ tai các cô để các cô tự đến. Một số lần khác con chỉ chỗ cho cậu Miguelito. Cha nên biết rằng trong lúc các cô rỗi rãi lại chỉ có một mình thì đó là lúc cậu ấy có thể lôi các cô đi.

- Nhiều lắm phải không?

Cha xứ không muốn nói thế nhưng câu hỏi theo thói quen đã buột khỏi miệng cha.

- Thưa cha, con không nhớ là bao nhiêu cô nhưng nhiều lắm ạ.

- Dorotea, con muốn cha làm gì con nào? Con hãy tự phán xét mình đi. Nào thử xem con có thể tha thứ cho mình được không nào?

- Thưa cha, con không dám ạ! Nhưng cha có thể phán xử con. Vì thế mà con đến với cha.

- Đã bao lần con đến đây để xin ta cho con lên thiên đường khi con chết hả? Con muốn sẽ gặp lại con trai mình ở đó phải không, Dorotea? Vậy thì con sẽ không thể lên thiên đường được. Nhưng mong Chúa tha tội cho con.

- Thưa cha, con đa tạ cha.

- Ừ! Nhân danh Người ta cũng tha tội cho con. Con đã có thể ra được rồi.

- Con không phải tự hành xác để hối lỗi sao, thưa cha!

- Không cần đâu, Dorotea ạ!

- Thưa cha, con đa tạ cha.

- Thôi, con hãy đi đi. Chúa sẽ che chở cho con.

Cha gõ ngón tay lên cửa sổ phòng xưng tội để gọi một trong những người phụ nữ ấy. Và trong lúc nghe câu nói: “Con là kẻ có tội” thì cái đầu cha gục xuống như không bao giờ có thể cất thẳng được lên. Sau đó, đến với cha cơn chóng mặt, đến với cha cái sự hoảng loạn nhầm lẫn ấy, đến với cha cái việc đi như tan vào trong nước đặc, đến với cha sự chao đảo của ánh sáng - thứ ánh sáng chan hòa buổi ban ngày tan biến đi thành từng mảnh nhỏ - và đến với cha cái vị tanh mùi máu nơi đầu lưỡi. Lời xưng “Con là kẻ có tội” được nghe rõ ngày một mạnh hơn, ngày một lặp đi lặp lại nhiều hơn để rồi sau đó kết thúc bằng câu “hàng thế kỷ và hàng thế kỷ, amen”, “hàng thế kỷ và hàng thế kỷ, amen”, “hàng thế kỷ...”.

- Thôi đi. Có im đi không nào! - Cha nói - Đã bao nhiêu ngày không xưng tội?

- Thưa cha, hai ngày ạ.

Lại một lần nữa cha ở đó. Cứ như thể nỗi bất hạnh đang vây bọc lấy cha. “Ngươi làm gì ở đây vậy?”. - Cha nghĩ. - “nghỉ ngơi! Thế thì ngươi hãy đi nghỉ đi. Ngươi mệt mỏi lắm rồi”.

Cha đứng dậy ra khỏi bàn xưng tội rồi đi thẳng vào kho chứa đồ Thánh. Không ngoảnh đầu lại, cha nói với đám người đang đợi mình:

- Tất cả những ai cảm thấy mình không có tội, ngày mai có thể chịu lễ ban Thánh thể.

Đằng sau cha, chỉ nổi lên tiếng nói lầm rầm.

Ta đang nằm trên chính chiếc giường nơi mẹ ta đã chết cách đây rất nhiều năm; trên chính tấm đệm ấy; và ở dưới chính tấm chăn dạ đen mà hai chúng ta vẫn đắp để ngủ. Lúc ấy ta ngủ bên cạnh bà, nằm ở chỗ bà vẫn thường ôm ấp ta.

Ta tưởng như mình vẫn cảm nhận tiếng thở nhịp nhàng đều đặn của bà; tiếng tim đập và tiếng thở dài của bà vẫn thường đưa ta vào giấc ngủ... Ta tưởng như mình vẫn cảm nhận nỗi đau thương của bà khi bà chết...

Nhưng điều đó không đúng.

Ta đang ở đây, đang nằm ngửa mặt, mà nghĩ về thời kỳ ấy để quên đi nỗi cô đơn của mình. Bởi vì ta không chỉ nằm trong chốc lát và cũng không phải là nằm trên chiếc giường của mẹ mà trái lại ta nằm trong một chiếc hòm đen như chiếc hòm thường được dùng chôn người chết. Bởi vì ta đã chết.

Ta nhận ra nơi mình đang có mặt và ta nghĩ...

Ta nghĩ đến thời những trái chanh chín mọng. Đó là thời kỳ gió tháng Hai thổi quật gãy những cành lá cây dương xỉ trước khi khô héo hết vì không được chăm sóc. Lúc đó những trái chanh chín mọng tỏa hương sực nức cả chiếc sân cũ.

Gió từ những dãy núi tràn xuống vào những buổi sáng tháng Hai. Mây còn ở mãi tít trên ấy, chúng đang đợi thời tiết tốt để du chơi xuống các thung lũng dưới này. Do đó bầu trời hiện ra biêng biếc trong vắt và ánh sáng rơi xuống trò chơi của gió đang xoay tròn xoay tròn trên mặt đất, đang tung bụi, tung bụi mù mịt, và rung rinh rung rinh lay động những cành cam.

“Chích chích”, chim sẻ cười. Chúng mổ những tàu lá rung và “chích chích”, chúng cười; chúng để lại những chiếc lông vương lại trên những cành gai rồi đuổi theo những con bướm vàng và chúng cười “chích chích”. Đó là khung cảnh của thời kỳ ấy.

Đó là tháng Hai khi những dải núi đầy gió, đầy chim sẻ và chan hòa ánh sáng màu xanh. Ta nhớ rõ như thế.

Mẹ ta chết vào thời kỳ ấy.

Lẽ ra ta phải gào; lẽ ra hai bàn tay ta phải vỡ từng mảnh vì đã bóp quá chặt khi bà bỏ chúng ta để ra đi mãi mãi. Lẽ ra ta phải muốn mọi chuyện như thế. Nhưng thật ra buổi sáng ấy mới vui làm sao? Gió ùa vào cửa chính làm gãy những ngọn thường xuân. Ở bẹn ta lông tơ bắt đầu nhú mọc và hai tay ta bắt đầu run rẩy khi chạm phải ngực. Những con chim sẻ đùa giỡn. Trên những đồi nương phất phơ cờ hoa ngô. Ta mủi lòng vì bà đã không trở lại mà xem gió đùa giỡn trên những cây hoa lài, mà nhắm mắt lại trước ánh nắng chói chang buổi ban ngày. Nhưng làm sao lại phải khóc nhỉ?

Justina, vú em còn nhớ không? Vú em xếp ghế dọc theo hành lang để dân làng đến viếng mẹ có chỗ mà ngồi. Nhưng những chiếc ghế vẫn để trống không ai ngồi. Chỉ một mình mẹ nằm giữa những ngọn nến lung linh, gương mặt bà xanh xám và hàm răng trắng của bà hầu như lộ ra giữa hai làn môi thâm ngoét và nhăn nhúm bởi cái chết thâm tím. Đôi mày bà không động đậy và trái tim bà đứng im. Vú em và ta, hai đứa ta lầm rầm cầu kinh không dứt mặc dù bà không nghe. Mặc dầu chúng ta không nghe thấy gì, tất cả đều chìm đi trong tiếng gió thổi vù vù của đêm đen.

Vú em là bộ đồ đen cho mẹ, hồ bột cái cổ áo và cả cổ tay áo để tay mẹ trông như mới khi được chắp lại trước bộ ngực chết; đó là bộ ngực thân thương ta đã ngủ một thời và là nơi bà cho ta ăn và vỗ nhè nhẹ để ru ta ngủ ngon lành.

Không một ai tới viếng bà. Như vậy càng tốt hơn. Cái chết vốn không được chia sẻ như một điều tốt lành. Không ai lại đi tìm cái buồn làm gì.

Có tiếng gọi cửa. Vú em đi mở cửa.

- Vú em hãy ra đi, - ta bảo vú em. - Ta không nhìn rõ mặt người, nó nhòe nhoẹt thế nào ấy. Vú em hãy bảo họ đi đi. Có lẽ họ đến cầu kinh misa của Đức Giáo hoàng Gregory để xin tiền đấy mà? Bà cụ chẳng để lại đồng nào cả. Vú em hãy bảo họ như thế, Justina ạ! Chẳng lẽ bà cụ phải xuống luyện ngục nếu như không cầu những bài kinh ấy cho bà? Họ là ai mà có thể phán xét được bà cụ, Justina nhỉ? Vú em nghĩ rằng ta bị điên à? Thế chả sao cả.

Rồi những chiếc ghế của vú em vẫn để trống, không có ai ngồi, cho tới khi chúng ta cùng với những người đàn ông làm mướn, những người đổ mồ hôi dưới sức nặng của người dưng, những người làm thinh trước bất kỳ nỗi đau thương nào, đi chôn bà cụ. Họ lấp mồ bằng cát ướt. Họ từ từ hạ quan tài xuống huyệt với sự bình thản của nghề nghiệp. Cơn gió mát xua tan những mệt nhọc của họ. Đôi mắt họ lạnh lùng, xa lạ. Họ bảo rằng: “Tốn kém lắm đấy!”. Vú em trả tiền cho họ như ai đó mua một món hàng, thế thôi. Vú em cởi nút chiếc mùi xoa đẫm lệ của mình, cái mùi xoa đã được vắt kiệt nước để rồi lại vắt kiệt nước và giờ đây đang gói món tiền tang lễ...

Rồi khi bọn họ ra đi, vú em quỳ gối ở ngay phía đầu mộ, rồi hôn lên đất, và vú em cứ quỳ mãi ở đây tưởng chừng đất lún xuống thành một cái lỗ nếu như ta không báo với vú em rằng: “Justina, chúng mình về thôi. Mẹ chẳng còn ở đây nữa đâu. Mẹ đã đi đến thế giới bên kia rồi. Ở đây chỉ còn là một nấm mồ của người chết thôi”.

- Dorotea, có phải bà vừa nói tất cả những điều ấy không?

- Ai, ta hả. Ta vừa ngủ thiếp đi một lúc. Cháu vẫn hoảng sợ phải không?

- Cháu nghe thấy có ai nói. Một giọng nói của đàn bà. Cháu lại tưởng là bà nói kia đấy.

- Tiếng nói của đàn bà sao? Cháu lại tưởng là ta nói à? Có thể là cái bà hay nói lảm nhảm một mình đấy. Cái nhà bà trong ngôi mộ lớn kia. Đó là bà Susanita [10]. Bà ta được chôn ngay bên cạnh chúng ta đây. Có lẽ tại hơi ẩm đã đến với bà ta và do vậy bà ta đang trăn trở trong mộng mị đấy.

- Bà ta là ai vậy?

- Người vợ cuối cùng của Pedro Páramo đấy. Một số người bảo rằng bà ta điên, số khác thì bảo rằng không. Quả thật là bà ta nói lảm nhảm một mình từ khi còn sống.

- Có lẽ bà ta chết đã từ lâu lắm rồi phải không?

- Ừ, đúng thế! Đã lâu lắm rồi. Thế cháu nghe thấy bà ta nói gì nào?

- Bà ta nói về người mẹ đẻ ra mình.

- Nhưng bà ta làm gì có mẹ kia chứ.

- Thế mà bà ta nói về điều ấy đấy.

-... Ô, hoặc giả khi bà ta đến đây ít ra là bà ta đã không mang mẹ mình đến. Nhưng hãy gượm tí nào. Giờ đây ta nhớ ra rồi: Bà ta sinh ra ở đây nhưng cả gia đình đã bỏ làng ra đi từ rất lâu. Mẹ bà ta chết vì bệnh ho lao. Đó là một bà rất lạ, luôn luôn đau ốm và chẳng hề đi thăm ai cả.

- Bà ta đã nói như thế đấy. Bà ta bảo rằng chẳng một ai đến viếng khi bà cụ mất.

- Nhưng bà ta nói về thời kỳ nào kia chứ? Rõ ràng là chẳng ai ở lại nhà bà ta chỉ đơn giản vì ai cũng sợ lây bệnh lao mà. Con mụ dở này có còn nhớ điều ấy không?

- Vâng, chính bà ta nói về điều ấy mà.

- Khi nào cháu lại nghe thấy thì bảo ta nhé, ta rất thích nghe điều bà ta nói.

- Bà nghe thấy không? Hình như bà ta sắp nói. Cháu nghe như tiếng thì thào.

- Không phải bà ta nói đâu. Tiếng thì thào đó từ rất xa, và từ một hướng khác đến đây đấy. Và đó là tiếng của đàn ông. Điều thường xảy ra đối với những người chết từ lâu rồi là khi hơi ẩm ướt tới với họ thì họ bắt đầu cựa quậy. Họ tỉnh dậy.

“Bầu trời thực là rộng mênh mông. Chúa ở cùng tôi đêm ấy. Nếu không như vậy thì thử hỏi ai đã biết điều từng xảy ra. Bởi vì lúc ấy trời đã tối rồi thì tôi sống lại”.

- Điều cháu nghe thấy đã rõ ràng lắm rồi phải không?

- Thưa bà, vâng ạ.

“Khắp người tôi toàn máu là máu. Và vào lúc tôi nhổm dậy, hai tay bì bõm khuấy trong máu thấm ướt tới tận những tảng đá. Đó là máu tôi. Những vũng máu. Nhưng tôi vẫn chưa chết. Tôi biết. Tôi biết rằng don Pedro Páramo không có ý định giết tôi. Ngài chỉ dọa thôi. Ngài muốn điều tra xem cách đây khoảng hai tháng tôi có mặt ở Vilmayo hay không. Đó là ngày lễ Thánh Cristóbal. Trong một đám cưới. Trong đám cưới nào? Trong ngày lễ Thánh Cristóbal nào? Tôi bì bõm lội trong chính máu mình và hỏi don Pedro, “Ở đám cưới nào thưa don Pedro? Không, không phải thế đâu don Pedro ạ, tôi không có mặt ở đấy đâu. Nếu như tôi có mặt ở đấy thì chẳng qua tôi chỉ ghé qua thôi. Nhưng hoàn toàn là ngẫu nhiên thôi...”. Ngài không có ý định giết tôi. Ngài làm tôi thành tàn tật - như các người thấy đấy - và xin lỗi phải nói ra, cụt mất một tay. Nhưng ngài không có ý định giết tôi. Người ta bảo rằng từ dạo ấy tôi bị lác mất một con mắt, vì sợ quá. Nhưng cũng từ đấy tôi trở thành người đàn ông đúng với tư chất đàn ông hơn. Đó là điều quá rõ ràng. Bầu trời quả thật là rộng mênh mông. Và không một ai nghi ngờ điều đó.”

- Ai vậy?

- Sao ta biết được. Một trong số rất nhiều những người đã bị giết đấy. Pedro Páramo đã gây ra vụ giết người đẫm máu ấy ngay sau khi người ta giết cha mình, mà trong vụ này theo như người ta nói, hầu như ngài đã kết liễu tất cả những ai đến dự đám cưới trong đó don Lucas Páramo sắm vai người cha danh dự. Điều đó dẫn đến việc don Lucas phải gánh chịu hậu quả, vì thật ra viên đạn nhắm vào chú rể cơ. Và vì chẳng bao giờ có thể xác định được địa điểm nơi viên đạn bay đến găm vào ông ấy nên Pedro Páramo đã giết sạch luôn. Đó là chuyện xảy ra ở ngọn đồi Vilmayo, là nơi có những trang trại mà giờ đây không còn lấy một dấu vết nào... Này này? Hãy nghe! Giờ đây có thể là bà ta nói đấy. Tai cháu dỏng hãy chú ý nghe nhé. Sau đó kể lại cho ta nghe điều bà ta nói nhé.

- Không nghe rõ gì cả, bà ạ. Dường như bà ta không nói mà chỉ than vãn thôi.

- Vậy thì than vãn về cái gì kia chứ?

- Ai mà biết được.

- Phải là than vãn về một chuyện gì đấy. Chẳng ai lại đi than vãn về một chuyện không đâu. Vậy cháu hãy chú ý mà nghe đi.

- Chỉ than vãn thôi và chẳng thấy nói gì hết. Có thể don Pedro Páramo đã làm cho bà ta đau khổ.

- Cháu đừng nghĩ thế. Ngài yêu thương bà ta mà. Ta dám nói chắc với cháu rằng chưa bao giờ ngài yêu thương người đàn bà nào như đã yêu thương bà ta. Người ta mang bà ta đến cho ngài khi bà này đã bị điên và chịu nhiều đau khổ. Ngài yêu bà ta lắm đến mức ngài để cả phần đời còn lại của mình mà mệt mỏi ngồi trên chiếc ghế mây nhìn theo con đường người ta đưa bà ra nghĩa địa. Ngài chẳng còn thích thú gì nữa. Ngài bỏ hoang ruộng đất của mình, sai đốt hết tất cả những đồ thiết dụng của mình. Một số người bảo rằng ngài đã quá mệt mỏi! Số khác thì bảo ngài bị vỡ mộng. Điều chắc chắn xảy ra có thể nhìn thấy được là ngài chẳng quan tâm đến ai, chỉ ngồi trên chiếc ghế mây ngoảnh mặt ra ngoài đăm chiêu nhìn con đường ra nghĩa địa.

Từ dạo ấy đất đai bị hoang hóa và cả điền trang giống như thể đống đổ nát. Thật là đau lòng khi nhìn thấy đất đai này bị đủ các loại bệnh dịch hoành hành vì không có người trông nom nó. Từ đằng ấy đến tận đây vắng hẳn bóng người; những người đàn ông đã ra đi tìm nơi khác làm ăn. Ta vẫn còn nhớ như in ngày đó Comala rộn rã tiếng chào từ biệt đến mức chúng ta cảm thấy việc đi từ biệt những người bỏ làng ra đi là một việc vui. Và họ ra đi với ý định sẽ trở về. Họ nhờ chúng ta trông nom đồ đạc và gia đình. Sau đó có một số người bảo gửi gia đình họ đi theo nhưng vẫn gửi lại đồ đạc, sau cùng dường như họ đã quên lãng, quên chúng ta và ngay cả đồ đạc của họ. Ta ở lại là vì ta chẳng biết đi đâu. Một số khác ở lại đợi cho tới khi don Pedro Páramo chết bởi vì theo như lời họ nói, ngài đã hứa cho họ quyền thừa kế những tài sản của ngài, rồi họ sống với niềm hy vọng ấy. Nhưng năm lại năm nối đuôi nhau qua đi mà ngài vẫn tiếp tục sống. Lúc nào cũng ở đấy, như một thằng bù nhìn đứng trước những đất đai của Media Luna.”

Rồi khi ngài sắp chết thì chiến tranh Cristeros [11] lan tới đây và quân đội lôi cuốn nốt số đàn ông ít ỏi còn lại trong làng. Đó là lúc ta bắt đầu chết đói và kể từ đó chẳng bao giờ ta chống chọi được nữa.

Tất cả đều vì những ý tưởng của don Pedro, vì những nỗi dày vò trong tâm hồn ngài. Tất cả chỉ vì ngài đã mất người vợ, cái bà Susanita ấy. Bây giờ cháu đã có thể mường tượng được ngài yêu thương bà ta như thế nào.

Fulgor Sedano là người bảo ngài:

- Thưa ông chủ, ông chủ có biết ai về lại đây không ạ?

- Ai?

- Bartolomé San Juan.

- Thế thì sao nào?

- Đó cũng là điều tôi đã tự hỏi mình. Ông ta về đây làm gì?

- Ông vẫn chưa tìm hiểu sao?

- Chưa ạ. Tôi phải báo với ông chủ trước đã. Và bởi vì ông ta không tìm nhà trọ. Ông ta đi thẳng đến nhà cũ của ngài. Tại đó ông ta xuống ngựa và đưa vali xuống cứ như thể ngài đã sẵn lòng cho ông ta thuê nhà. Chí ít ra thì tôi đã nhìn thấy cử chỉ đầy tin tưởng ấy của ông ta.

- Vậy thì lão đã làm gì hở Fulgor? Mà còn chưa đi tìm hiểu chuyện gì đang diễn ra ư? Chẳng phải ta chỉ dùng lão vào việc đó sao?

- Tôi thật lúng túng bởi việc vừa nói với ông chủ xong. Ngày mai, nếu ông chủ thấy cần thiết tôi sẽ làm rõ việc này.

- Việc của ngày mai để mặc ta. Ta sẽ lo liệu hết. Cả hai cùng đến chứ?

- Thưa vâng ạ, ông ta và bà vợ ông ta. Mà sao ngài biết được thế?

- Không phải là cô con gái ông ta hay sao?

- Cứ theo như cách cư xử của hai người thì tôi thấy người đàn bà là vợ ông ta.

- Thôi, đi mà ngủ đi, Fulgor!

- Nếu ông chủ cho phép ạ, tôi xin vâng lệnh ạ.

“Susana hỡi, suốt ba mươi năm nay anh đã đợi em trở về. - Pedro Páramo nói. - Anh đã đợi để có tất cả. Không chỉ một thứ mà tất cả mọi thứ người ta có thể tìm kiếm được để chúng ta không thiếu một thứ gì ngoại trừ em, ngoại trừ nỗi khao khát có em bên cạnh. Đã bao lần anh mời cụ hãy trở về sống ở đây, bằng cách anh bảo cụ là anh rất cần đến cụ? Anh đã làm kể cả sự lừa dối.

Anh đã mời cụ làm quản lý trưởng với mục đích để gặp lại em. Và ông cụ đã trả lời anh như thế nào? “Không có thư trả lời, - gã đưa thư luôn luôn bảo anh như vậy, - ngài Bartolomé đã xé toạc thư ngài khi con trao thư”. Nhưng qua miệng hắn anh được biết em đã lấy chồng và ngay sau đó lại góa bụa và một lần nữa em lại sống với ông cụ.”

Sau đó là im lặng.

“Gã đưa thư đi rồi về, đi rồi về, luôn luôn thưa với anh:

- Thưa don Pedro, con không gặp được họ ạ. Người ta bảo với con rằng họ đã đi khỏi Mascota. Người thì bảo họ đi theo ngả này; người thì bảo họ đi theo đường kia. Con chẳng biết đường nào mà lần.

Còn anh đã bảo hắn:

- Con đừng ngại phải tiêu tốn, con hãy gắng mà tìm cho được bọn họ. Ngay cả khi đất đã nuốt chửng bọn họ, con cũng phải tìm được chỗ ấy cho ta.

Cho đến một ngày hắn trở về nói với anh:

- Con đã sục sạo khắp vùng núi để tìm cho ra cái xó xỉnh don Bartolomé ẩn nấp, cho tới khi con gặp được họ. Ông ấy sống mai danh ẩn tích tại một hang núi, trong một túp lều gỗ, ngay ở khu mỏ La Andrómeda. La Andrómeda đã bị bỏ, không khai thác nữa.

Lúc ấy trong bầu không khí chính trị chung của đất nước đã nổi lên những luồng gió lạ. Người ta nói rằng đã có những người cầm vũ khí nổi dậy. Những tin đồn dồn dập bay tới đây. Đó chính là cơn gió đã thổi cha em về đây. Cụ trở về không vì cụ mà theo như cụ nói trong thư là để bảo đảm an toàn tính mạng cho em, cụ muốn mang em tới nơi an toàn.

Anh cảm thấy trời như mở ra. Anh có đủ nhiệt tình để mà chạy một mạch tới chỗ em, để mà quàng quanh em niềm vui khôn tả, để mà khóc, Susana ạ, anh đã khóc khi được biết em đã trở về với anh.”

- Có những làng biết là sẽ khổ. Chỉ cần hít thở một ít không khí già nua và tù đọng, nghèo nàn và mỏng manh như tất cả điều cổ xưa là đã nhận ra nó. Đày chính là một trong những làng như thế đấy, Susana ạ.

Ở đằng ấy, nơi chúng ta đến bây giờ, khác hẳn, chí ít ra con cũng sẽ vui lên khi nhìn thấy ngọn nguồn của các sự vật: trời mây, chim chóc và rong rêu, con có nhớ không nào? Ở đây thì khác hẳn, con chỉ cảm thấy không khí vàng vọt, chua như giấm mà dường như nó bao quanh khắp nơi khắp chốn. Đó là vì đây là một làng bất hạnh đã lún chìm trong nỗi bất hạnh.

Ông ta đã khẩn khoản mời chúng ta trở về. Ông ta cho chúng ta mượn nhà và cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần. Nhưng chúng ta không nên hàm ơn ông ta. Ở đây chúng ta là những kẻ bất hạnh vì chúng ta chẳng có gì để có thể mong thoát chết. Cha dự cảm thấy điều đó.

Con có biết Pedro Páramo tha thiết xin ta điều gì không? Ta cảm thấy những cái mà ông ta cho chúng ta không phải là của cho không. Và cha đã sẵn sàng chịu để cho ông ta bóc sống mình bởi vì chúng ta cần phải trả nợ ông ta dưới một hình thức nào đó chứ. Cha đã nói cặn kẽ với ông ta về những cái lợi của mỏ La Andrómeda và cha đã làm cho ông ta thấy rằng có thể khai thác được miễn là biết làm việc có phương pháp. Và con có biết ông ta đã trả lời cha thế nào không? “Tôi không quan tâm đến những lợi lộc mà khu mỏ của cụ mang lại cho tôi, cụ Bartolomé San Juan ạ. Cái duy nhất tôi muốn xin ở cụ là cô con gái. Đó chính là công việc tốt nhất của cụ đấy”.

Vậy là ông ta yêu con đấy, Susana ạ. Ông ta bảo rằng con đã cùng chơi với ông ta khi cả hai còn là trẻ thơ. Cha không biết việc này, chứ biết thì cha đã dùng dây thắt lưng đánh chết con rồi.

- Con không nghi ngờ điều đó.

- Chính con là người vừa nói con không nghi ngờ phải không?

- Vâng, con đã nói thế.

- Vậy là con đã sẵn sàng chung chăn chung gối với ông ta rồi phải không?

- Vâng, đúng thế đấy, Bartolomé ạ.

- Con không biết rằng ông ta đã là người có vợ, và hơn nữa còn có không biết bao nhiêu là phụ nữ hay sao?

- Đúng thế Bartolomé ạ.

- Thôi đi, đừng có gọi ta là Bartolomé trọn lỏn như vậy. Ta là cha mày!

Bartolomé San Juan là một thợ mỏ đã chết. Susana San Juan là con gái của một người thợ mỏ đã chết trong khu mỏ La Andrómeda. Ông ta nhìn thấy đường đi nước bước của mình một cách thật rõ ràng: “Mình cần đến đó để chết”, ông nghĩ. Sau đó ông nói:

- Ta đã bảo với ông ta rằng, con tuy là góa bụa nhưng vẫn tiếp tục sống với chồng mình, hoặc giả ít ra con muốn sống thờ chồng: Ta đã tìm cách thuyết phục để ông ta từ bỏ ý định nhưng ông ta cứ đảo nhỡn liên tục khi ta nói, rồi ngay khi tên con được dẫn ra trong lời nói của ta thì lập tức ông ta nhắm mắt lại. Ta không nghi ngờ gì, ông ta là một kẻ xấu xa tuyệt đối. Pedro Páramo là con người như thế đấy.

- Thế con là ai?

- Là con gái ta. Con ta. Là con gái của Bartolomé San Juan.

Trong tâm trí Susana San Juan, những ý nghĩ của cô bắt đầu vận động, lúc đầu còn thong thả, sau đó dừng lại để rồi cuối cùng vụt chạy rất nhanh cho tới mức cô chỉ còn kịp nói ra:

- Không đúng, không đúng.

- Thế giới này từ mọi hướng cứ riết chặt lấy chúng ta, cứ vốc từng vốc thịt xương của chúng ta tung ra khắp mọi miền, cứ nghiền nát chúng ta thành từng mẩu vụn như thể lấy máu chúng ta tưới cho thứ đất khô cằn này. Chúng ta đã làm gì nào? Vì sao tâm hồn chúng ta bị mục ruỗng? Mẹ con từng bảo rằng trừ khi lòng thương của Chúa còn lại với chúng ta thì tâm hồn chúng ta mới không bị mục ruỗng. Và con chối bỏ điều đó, Susana ạ. Và vì sao con lại từ chối ta là cha con? Con điên rồi sao?

- Cha chưa biết điều đó sao?

- Con điên rồi sao?

- Rõ là con đã điên, Bartolomé ạ. Cha vẫn chưa biết sao?

- Fulgor, lão có biết rằng nàng ấy là người đàn bà đẹp nhất đã sinh ra trên thế gian này không? Đã có lúc ta nghĩ rằng mình mãi mãi mất nàng rồi. Nhưng giờ đây ta không muốn mất nàng nữa. Lão có hiểu ta không, Fulgor? Lão nói với cha nàng rằng hãy tiếp tục đi khai quặng đi. Rồi ở đó... ta đã nghĩ việc làm mất tích ông già ở những vùng chẳng ai đặt chân tới bao giờ. Việc ấy quả là dễ dàng lắm, dễ dàng lắm. Lão có tin như vậy không?

- Có thể lắm.

- Chúng ta muốn sự việc phải như thế. Nàng cần phải là một đứa con mồ côi. Còn chúng ta buộc phải trông nom nàng. Lão có tin không?

- Bẩm, tôi không thấy việc này có khó khăn ạ.

- Vậy thì Fulgor, lão hãy làm đi, làm đi.

- Nhưng rồi cô ta biết việc thì sao?

- Ai sẽ nói với nàng? Nào, thử xem, giữa hai chúng ta đây, lão và ta, ai sẽ đi nói với nàng? Lão thử nói ta nghe nào.

- Tôi tin rằng không một ai.

- Thôi, lão hãy bỏ cái lối nói “tôi tin rằng” ấy đi. Ngay từ bây giờ, lão hãy bỏ nó đi và rồi lão sẽ thấy công việc tốt đẹp như thế nào. Lão hãy nhớ công việc ở mỏ La Andrómeda mà chúng ta giao cho ông già. Hãy sai ông già đến đấy tiếp tục công việc khai mỏ. Hãy bảo ông già đi đến đấy rồi về đây. Cụ không cần phải lo lắng cho con gái nữa. Chúng ta sẽ chăm nom nàng ở đây. Đằng ấy là công việc của ông già, còn ở đây là nhà của ông già nơi ông già đến để nhận nó. Lão hãy nói với ông già như thế, Fulgor ạ.

- Thưa ông chủ, tôi lại thích thú thấy ông chủ hành động như vậy, như thể tâm hồn ngài đang trẻ lại ấy.

Mưa rơi xuống những cánh đồng thuộc thung lũng Comala. Đó là một cơn mưa dầm dề, xa lạ với miền đất này vốn chỉ được biết những trận mưa rào. Hôm nay là ngày Chủ nhật. Những người đàn ông Anh-điêng từ vùng núi Apango mang theo những xâu manzanilla [12], những bó lá hương thảo và những bó rau xạ hương, sản vật của quê họ tới chợ phiên Comala. Họ không mang theo củi ngo vì chúng đã ướt sũng nước mưa. Cùng với những mớ rau và bó lá của mình, bọn họ ngồi trên sàn, dưới mái vòm hàng hiên nhà thờ lớn đợi khách đến mua hàng.

Mưa vẫn rơi, vẫn rơi trên những vũng nước.

Nước chảy như suối giữa những luống ngô. Hôm nay những người đàn ông làng này không đi chợ, họ bận đi khơi rãnh cho nước thoát nhanh để khỏi cuốn theo ngô non mới mọc. Họ đi thành từng nhóm, dùng xẻng phá đi những con bờ ngăn nước, lấy tay đỡ dậy những cây ngô đổ, ráng sức làm việc để cho ngô non phát triển tốt hơn. Họ lội trong bùn non, đi trong mưa rơi.

Những người đàn ông Anh-điêng ngồi đợi. Họ cảm thấy hôm nay là ngày xấu. Có lẽ vì thế mà người họ run rẩy bên trong chiếc áo tơi làm bằng rơm đã ướt sũng nước. Họ run không phải vì trời rét mà vì sợ hãi. Họ ngước mắt nhìn mưa rơi dầm dề và bầu trời đen kịt mây mưa.

Không ai đến chợ. Làng như thể không một bóng người đi lại. Một bà đã hỏi họ mua chỉ thêu và ít đường ăn và nếu có thì một cái rây để lọc bột ngô. Áo tơi ngâm nước ngày càng trĩu nặng trên vai họ khi buổi trưa xích tới gần. Họ tranh cãi, họ kể chuyện tiếu lâm rồi phá lên cười. Họ nghĩ, “giá như mang theo rượu pulque [13] thì chẳng có gì phải lo. Nhưng chồi cây thùa đã rữa thành nước. Cuối cùng còn làm thế nào để cất rượu pulque nữa?”.

Theo con đường từ Media Luna đổ tới mà hai bên nó những mái hiên ròng ròng trút nước xuống, Justina Díaz đội ô đi đến chợ. Bà làm dấu thánh rồi tiếp tục đi qua cửa nhà thờ lớn. Bà bước vào hiên nhà. Những người đàn ông Anh-điêng nhìn bà. Bà thấy những cái nhìn đó như đang tạc hình mình. Bà đứng lại ngay ở bậc thềm thứ nhất, mua mười xu lá hương thảo rồi quay trở về. Những người đàn ông Anh-điêng vẫn chằm chằm nhìn theo bà.

- Trời ơi sao mà đắt đỏ thế không biết, - bà Justina nói vào lúc bà bước vào con đường trở về điền trang Media Luna. - Mấy cái lá chết tiệt này mà hết những mười xu. Bấy nhiêu thì chẳng đủ xông mùi.

Vào lúc trời tối, những người Anh-điêng thu dọn hàng quán. Họ khom lưng bước vào trời mưa, rồi đi qua nhà thờ lạy chào Đức Mẹ Đồng trinh và để lại ở đó ít lá xạ hương làm của bố thí. Sau đó họ đứng thẳng đi về làng Apango của mình. “Ở đằng ấy bây giờ đã là ngày mới rồi”, bọn họ nói. Dọc đường đi họ lại kể chuyện tiếu lâm và phá lên cười vui vẻ.

Justina Díaz bước vào phòng ngủ của Susana San Juan và đặt mớ lá hương thảo lên giá. Những tấm rèm khép kín ngăn không cho ánh sáng lọt vào. Vậy là trong không gian tối mò ấy chỉ nhìn thấy những chiếc bóng mờ và phải dò đoán. Bà đoán rằng Susana San Juan đã ngủ - bà này lúc nào cũng chỉ thích ngủ. - Bà cảm thấy như vậy và bà vui vui trong lòng. Nhưng ngay lúc ấy, bà cảm thấy có một tiếng thở dài nghe xa xăm, dường như nó được phát ra từ một xó xỉnh nào đó trong căn buồng tối om om ấy.

- Justina này! - Người ta gọi bà.

Bà quay đầu lại. Không nhìn thấy ai nhưng bà cảm thấy có một bàn tay đặt lên vai mình và tiếng thở ngay bên tai mình. Người ấy thầm thì nói với bà: “Hãy đi đi, Justina! Hãy thu xếp đồ đạc và hãy đi đi. Chúng ta không cần nhờ vả bà nữa”.

- Nhưng bà ấy lại cần con, - trong lúc đứng thẳng người dậy bà nói. - Bà ấy ốm và cần được chăm sóc ạ.

- Bây giờ không cần nữa rồi. Ta sẽ ở lại đây để chăm sóc nó rồi.

- Có phải ngài là don Bartolomé không? - Bà cũng chẳng đợi lời đáp của người kia, kêu lên một tiếng thất thanh. Tiếng kêu đau thương này vọng xuống tận tai những người đàn ông và đàn bà đang từ ngoài đồng trở về và nó khiến họ phải nhận xét: “Giống như tiếng người kêu nhưng lại không giống tiếng kêu của một ai cả”.

Tiếng mưa rơi dìm tắt tiếng người chuyện trò. Tiếng mưa rơi vẫn nổi lên trên hết, đều đều từng giọt từng giọt một, se thêm chắc cái sợi chỉ cuộc đời.

- Sao thế hở Justina? Vì sao lại gào lên thế? - Susana San Juan hỏi.

- Susana, tôi có gào đâu. Có lẽ bà đang nằm mộng thì có.

- Ta đã bảo với vú em rằng ta không nằm mơ bao giờ mà vú em chẳng coi lời ta ra làm sao nữa. Ta bị mất ngủ nặng mà. Đêm qua vú em không đuổi con mèo ra ngoài phòng nên ta đã mất ngủ cả đêm.

- Nó ngủ với tôi, ngay trong lòng tôi mà, nó bị ướt sũng, vì thương nó nên tôi đã để nó ngủ trên giường tôi và nó không hề gây tiếng động.

- Không phải thế. Đúng là nó không gây tiếng động. Nó chỉ có làm trò mà nhảy từ chân lên đầu ta và kêu nho nhỏ như thể nó đang đói.

- Tôi đã cho nó ăn no và cả đêm nó nằm bên tôi. Lại một lần nữa bà nằm mộng đấy, Susana ạ.

- Ta nói với vú em rằng cả đêm qua nó làm ta giật mình vì những cú nhảy của nó đấy. Mặc dù con mèo của vú em rất tình cảm nhưng ta không muốn có nó khi ta ngủ.

- Bà chỉ thấy những ảo ảnh thôi, Susana ạ. Đó chính là điều đã xảy ra. Khi nào Pedro Páramo đến tôi sẽ nói với ngài rằng tôi không chăm nom bà nữa. Tôi sẽ nói rằng tôi đi. Không thiếu người tốt chăm sóc bà. Không phải ai cũng làm nũng như bà và sống bằng cách quấy rầy người khác như bà. Ngày mai, tôi đi và tôi sẽ mang theo con mèo đi, rồi bà sẽ được ở yên mà.

- Không được đi đâu hết, Justina ranh mãnh và đáng trách ạ. Vú em sẽ không đi đâu hết bởi chẳng bao giờ sẽ gặp được người yêu vú em như ta đâu.

- Không, tôi sẽ không đi đâu hết. Tôi sẽ không đi mà. Bà đã hiểu rõ rằng tôi ở đây là để chăm nom bà. Dù bà có bảo người ta đuổi tôi đi cũng không quan trọng, tôi sẽ ở lại để chăm nom bà.

Bà đã chăm sóc Susana từ khi nàng chào đời. Bà đã ôm ẵm nàng trong vòng hai cánh tay. Bà đã dạy nàng để cho nàng đi những bước chân chập chững buổi ban đầu mà bà cứ tưởng là những bước đi vĩnh viễn. Bà đã nhìn thấy miệng nàng và mắt nàng lớn lên ngọt ngào như kẹo đường. “Kẹo bạc hà màu xanh. Vàng và xanh. Xanh lá và xanh da trời. Sự hòa lẫn giữa bạc hà và húng lủi”. Bà cắn chân nàng, bà cho nàng nghịch bộ ngực mình, bộ ngực teo tóp chẳng có gì, giống như một thứ đồ chơi. “Hãy đùa đi nào, - bà nói, - hãy đùa với cái đồ chơi của cô đây này”. Bà ôm siết như thể làm nàng tan chảy được.

Bên ngoài mưa vẫn rơi trên những tàu lá chuối, trên những vũng nước như thể nước sôi lào rào trên nước.

Những chiếc ga trải giường lạnh hơi ẩm. Mưa vẫn nhỏ giọt tí tách, làm ngầu bọt. Mưa mệt mỏi rơi suốt ngày, suốt đêm và lại suốt ngày. Nước cứ cuộn chảy, cứ dâng lên trong những chiếc bong bóng không biết ngừng nghỉ.

Đã nửa đêm, và bên ngoài tiếng nước tí tách và rì rầm dìm tắt mọi tiếng động khác.

Susana San Juan từ từ nhổm dậy. Nàng chậm chạp vươn mình rồi đứng dậy đi ra khỏi giường nằm. Ở đây, lại một lần nữa có bóng người sờ chân nàng. Sờ quanh người nàng rồi cuối cùng định sờ mặt nàng.

- Có phải cha đấy không, Bartolomé? - Nàng hỏi.

Dường như nàng nghe thấy tiếng kẹt cửa, như thể có người vào rồi lại đi ra. Sau đó chỉ có mưa, mưa dai dẳng, lạnh lẽo, vây lấy những tàu lá chuối, sôi réo trong sự trào sôi của mưa.

Trong buổi mai màu tím của một ngày mới, nàng ngủ và chỉ thức dậy khi ánh nắng chiếu sáng những viên gạch hồng, thấm mưa đêm... Nàng gào:

- Justina!

Ngay lập tức Justina xuất hiện, như thể bà đã có mặt ở đây từ bao giờ, cuộn người trong một chiếc khăn quàng.

- Bà muốn gì nào, Susana?

- Con mèo. Lại một con nữa nó đến đây.

- Khổ thân bà quá đi mất, Susana ạ.

Nàng dựa vào ngực bà, ôm lấy bà cho tới khi nàng ngẩng mặt lên và hỏi:

- Sao vú em khóc? Ta sẽ bảo với Pedro Páramo rằng vú em rất tốt đối với ta mà. Ta sẽ không kể chuyện con mèo của vú em làm ta giật mình. Vú em đừng buồn như thế, Justina.

- Cha bà đã chết rồi, Susana ạ. Ông ấy chết đêm qua và hôm nay người ta đến đây bảo rằng chẳng có cách nào cứu được ông, rằng người ta đã chôn ông cụ ở khu mỏ rồi, rằng không thể nào mang được thi hài ông cụ về đây vì đường sá xa xôi quá. Bây giờ bà ở một mình, Susana ạ.

- Vậy là Bartolomé, - nàng cười. - Cha đã về từ biệt con, - nàng nói rồi cười.

Rất nhiều năm trước đó khi nàng còn là một đứa trẻ, Bartolomé bảo nàng:

- Xuống đi, Susana! Hãy nói cho cha biết cái con nhìn thấy nhé.

Cô đang được một sợi thừng buộc chặt làm đau nơi thắt lưng và hai tay cô không chịu rời nó mặc dù đã rớm máu. Sợi thừng như sợi chỉ duy nhất nối cô với thế giới bên ngoài.

- Con không nhìn thấy gì, cha ạ.

- Hãy nhìn cho tinh vào, Susana. Cố tìm cho ra nó.

Và ông rọi đèn pin cho cô.

- Con chẳng nhìn thấy gì hết cha ạ.

- Cha sẽ rong con xuống sâu nữa và hãy báo cho cha biết khi con đã xuống đến sàn nhé.

Cô đã chui vào một cái hang mở ra giữa những tấm ván lát. Cô đã đi trên những tấm ván mục, cũ kỹ, bập bênh và đầy đất bột.

- Hãy xuống sâu hơn nữa và con sẽ gặp được cái vật cha đã nói với con.

Rồi cô bước xuống, bước xuống trong cảm giác quay cuồng choáng ngợp sâu trong lòng đất, với những bước chân chệnh choạng không tìm được nơi đặt chân vào.

- Xuống nữa đi, Susana, xuống nữa đi. Hãy nói cho cha biết khi con bắt gặp một vật gì đó.

Và khi cô đã đứng vững trên nền đất, cô đứng yên ở đó, không nói năng vì nỗi sợ hãi choán hết tâm hồn cô. Ánh đèn pin cứ xoay tròn và ánh sáng đó đi cùng cô. Rồi tiếng thét từ phía trên làm cô rùng mình:

- Hãy nói cho cha biết con đã thấy gì ở đấy nào, Susana.

Hai tay cô ôm lấy cái đầu lâu và khi ánh sáng ngọn đèn pin rọi sáng chỗ cô, thế là cô vội vất nó xuống:

- Một cái đầu lâu, - cô nói.

- Con có thể còn tìm thấy những vật khác bên cạnh nó và đưa cho cha những gì con đã thấy nhé.

Tử thi vỡ ra từng mảng khi tay cô đụng vào. Xương sườn tơi ra như thể được nặn từ đường. Cô chuyền lên cho ông từng mẩu, từng mẩu xương một cho đến tận các đốt xương ngón chân. Đầu tiên là cái đầu lâu sói tựa như quả bóng tròn bị vỡ tung khi tay cô chạm phải.

- Hãy tìm những thứ khác đi, Susana. Tiền ấy, những đồng tiền tròn như những bánh xe, chúng bằng vàng. Hãy tìm chúng đi Susana.

Thế là lúc ấy cô chẳng còn biết đến mình là ai. Rất nhiều ngày sau cô tỉnh dậy trong nỗi giá lạnh của băng giá, cái băng giá trong con mắt của cha cô.

Vì thế mà giờ đây nàng cười:

- Con biết ngay là cha mà, Bartolomé ạ.

Và bà già khốn khổ Justina, mà lúc này đang gục đầu khóc trên ngực nàng đã phải ngẩng mặt lên nhìn nàng cười, và nụ cười của nàng ngay lập tức biến thành một tràng cười ròn rã.

Bên ngoài trời vẫn mưa. Những người đàn ông Anh-điêng đã ra đi. Đó là ngày thứ Hai và thung lũng Comala vẫn chìm đi trong mưa rơi.