← Quay lại trang sách

- 5 -

Gió vẫn thổi trong những ngày ấy. Đó là những cơn gió đã mang mưa tới đây. Mưa đã đi nhưng gió vẫn ở lại. Ở đằng ấy, trên những cánh đồng, ngô non trải rộng lá, cúi rạp xuống luống để tránh gió. Ban ngày gió thổi thật là mạnh uốn cong cây cỏ và gầm rít trên những mái ngói. Ban đêm yếu đi, nó thều thào rên rỉ, rên rỉ. Những áng mây xốp lặng lẽ bay trên bầu trời, chúng bay là là như thể hôn lên mặt đất.

Susana San Juan nghe tiếng gió đập vào cửa sổ đã khép lại. Nàng nằm hai tay kê dưới đầu để mà suy nghĩ, để mà nghe ngóng những tiếng động trong đêm yên tĩnh và nàng cảm thấy những chập gió giật đã kéo đêm đến rồi lại kéo nó đi. Sau đó đột nhiên mọi thứ dừng lại.

Cửa đã được mở. Một làn gió mạnh ùa vào nhà thổi tắt ngọn đèn. Nàng chỉ còn thấy bóng tối và thế là nàng ngừng mọi suy tư. Nàng cảm thấy những tiếng động loạt soạt. Ngay lập tức nàng nghe rõ tiếng đập thình thịch loạn xạ của con tim mình. Qua bờ mi khép lại nàng nhìn thấy ngọn lửa hồng tỏa sáng.

Nàng không mở mắt. Tóc xõa xuống mặt nàng. Ánh sáng đốt nóng từng giọt mồ hôi trên môi nàng. Nàng hỏi:

- Có phải cha đấy không?

- Phải, cha đây, con gái ta ạ.

Nàng hé mở đôi mắt. Qua làn tóc mình nàng nhìn thấy một chiếc bóng in hình lên trần nhà và đầu nó đang cúi xuống mặt nàng. Và chiếc bóng mờ ảo ấy thành hình ở ngay trước hàng mi rợp ẩm ướt của nàng. Một thứ ánh sáng huyền ảo, một thứ ánh sáng ở ngay trong trái tim, trong hình thù con tim nhỏ bé đang rộn ràng đập thình thình như một ngọn lửa bập bùng cháy. “Cha đã chết vì nỗi đau trong lòng mình, - nàng nghĩ. - Con đã biết rằng cha đến để kể chuyện Florencio chết; nhưng điều ấy con đã biết rồi. Cha chẳng nên bận tâm vì những người khác. Cha cũng đừng lo cho con. Con mãi mãi giữ lấy nỗi đau thương của mình. Cha đừng để cho trái tim mình nguội lạnh”.

Nàng nhổm dậy, cố lê tấm thân đến gần cha Rentería.

- Hãy để cha an ủi con bằng chính nỗi bất hạnh của cha, - cha nói, hai bàn tay che ngọn nến đang cháy sáng.

Cha Rentería để nàng xích lại gần mình rồi nàng úp hai tay quanh ngọn nến, và ghé sát mặt vào ngọn lửa cho đến khi mùi thịt cháy khét lẹt buộc cha phải vẫy vẫy cây đèn nến, tắt phụt nó đi. Thế là bóng đêm lại ập đến và nàng vội chạy về giường để ẩn dưới những tấm vải trải giường. Cha Rentería bảo nàng:

- Cha đến để an ủi con, con gái ta ạ.

- Vậy thì, xin chào cha, - nàng trả lời. - Cha đừng trở lại nữa. Con không cần cha.

Rồi nàng nghe rõ những bước chân đã đi xa, xa dần, những bước chân từng gây cho nàng cảm giác lạnh lẽo, sợ hãi đến phát run lên:

- Cha đến để làm gì kia chứ một khi cha đã chết rồi!

Cha Rentería khép cửa lại rồi bước vào đêm đen đầy gió.

Gió vẫn thổi liên hồi.

Một người đàn ông được mệnh danh là Kẻ nói lắp [14] đã tới Media Luna và hỏi thăm Pedro Páramo.

- Ông tìm ngài có việc gì?

- Tôi muốn nói chuyện với với ngài.

- Ngài đi vắng rồi.

- Khi khi nào ngài trở về thì hãy bẩm với ngài rằng tôi thay thay mặt don Fulgor đã tới đây.

- Tôi sẽ đi tìm ngài, nhưng xin ông hãy đợi cho một lát.

- Hãy bẩm với ngài đây là chuyện khẩn cấp đấy.

- Được, tôi sẽ nói.

Người đàn ông được mệnh danh là Kẻ nói lắp ngồi nguyên trên yên ngựa để đợi. Được một lúc, Pedro Páramo, người mà ông ta chưa hề gặp, đã đứng ngay trước mặt ông ta.

- Anh kia, anh đến báo chuyện gì đấy.

- Tôi muốn thưa chuyện trực tiếp với don Pedro Páramo, ông chủ kia.

- Chính ta đây, anh muốn gì, nói.

- Vậy thưa ông chủ chẳng có chuyện gì ngoài chuyện này ạ. Người ta đã giết don Fulgor Sedano rồi. Con đi cùng ông ta. Chúng con đi về phía những bờ bờ mương bị rò nước để xem xem vì sao nước về đây ít thế. Chúng con đang đi thì thì nhìn thấy một đám đàn ông bỗng bỗng nhảy ra chận đường chúng chúng con ạ. Trong cái đám đông hỗn độn ấy con nghe rõ có tiếng tiếng nói: “Tôi biết mặt gã kia. Gã là quản lý trưởng ở ở điền trang Media Luna đấy”.

Bọn họ không để để ý đến con. Nhưng lại để để ý đến don Pulgor và ra lệnh cho cho don phải xuống ngựa. Bọn họ nói rằng bọn họ là những người cách mạng: rằng họ đến đây là vì vấn đề ruộng đất của ngài. “Hãy vắt chân lên cổ mà chạy, - bọn họ ra lệnh cho don Fulgor. - Hãy đi đi và hãy nói với chủ mày rằng chúng ta đang đợi ông ta ở đây nghe chưa!”. Ông ta lấy sức chạy, sợ sợ chết khiếp. Nhưng ông ta chạy chạy không được nhanh vì vì ông ta béo ịch. Thế là họ đã giết khi ông ta đang chạy. Ông ta chết trong tư thế đang chạy, một chân hất lên, chân kia đi xuống đất.

Thế là con đứng yên không dám nhúc nhích. Con đợi cho đến khi trời tối và bây giờ con có mặt ở đây để báo cho ông chủ chuyện xảy xảy ra ở đằng ấy ạ!

- Thế anh còn đợi gì nữa nào? Vì sao anh không hoạt động lên? Anh hãy đi đến đằng ấy và bảo bọn họ rằng ta ở đây để đợi họ thỏa mãn mọi yêu cầu của họ. Bảo họ hãy đến đây mà thảo luận với ta. Nhưng trước khi đi đến đằng ấy anh hãy đảo qua đồn điền La Consagración. Anh có quen cái anh chàng tên gọi là Tilcuate [15] không đấy? Anh ta ở đấy. Hãy đi tìm anh ta và bảo rằng ta cần gặp anh ta ngay. Và hãy nói với những người lạ mặt kia rằng hãy đến đây khi họ có thời gian nghe chưa? Bọn họ thuộc phái cách mạng nào?

- Bẩm ông chủ, con không không biết ạ. Bọn họ chỉ bảo rằng bọn họ là là những người cách mạng.

- Hãy nói với Tilcuate rằng ta cần gặp anh ta lắm đấy, nghe chưa!

- Thưa ông chủ, con sẽ nói ạ.

Pedro Páramo lại đóng cửa văn phòng ở yên trong đó. Ngài cảm thấy mình già nua và chán nản. Ngài không bận lòng tới Fulgor, dù sao lão đã ngấp nghé thuộc về thế giới bên kia rồi. Lão đã cống hiến tất cả sức lực của lão cho những công việc đã qua. Lão là một người tận tụy đấy nhưng trong công việc sắp tới đây phải có người khác mới làm được. “Chỉ Tilcuate mới đương đầu nổi với những con người được gọi là cách mạng này”, ngài nghĩ.

Ngài nghĩ nhiều hơn về Susana San Juan, người đàn bà lúc nào cũng chỉ ở trong phòng đóng kín để mà ngủ, còn khi không ngủ, thì dường như đang ngủ. Đêm qua ngài đứng suốt đêm, lưng tựa vào tường để mà qua ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn nến chong suốt đêm mà ngắm cơ thể Susana đang cựa quậy, mà ngắm gương mặt nàng lấm tấm mồ hôi hột, và nghe đôi bàn tay nàng giật giật những tấm vải trải giường và bóp bẹp chiếc gối cho đến mệt lử rồi ngất lịm đi.

Kể từ khi mang nàng về sống ở đây, ngài chưa biết tới những đêm ngủ bên cạnh nàng mà chỉ biết tới những đêm như đêm ấy, đau thương và lo lắng khôn nguôi. Rồi ngài tự hỏi không biết đến khi nào thì kết thúc được cái cảnh khổ não này.

Ngài hy vọng sẽ không quá lâu. Những lúc như thế không thể kéo dài được lâu và không có kỷ niệm nào dù cho có sâu sắc đến đâu đi nữa cũng không thể không bị xóa nhòa ngay.

Dường như ngài không biết cái gì đã làm cho nàng đau điếng trong lòng, làm cho nàng không ngủ được, những thứ đó hầu như đã phá hủy thân xác nàng đến mức nàng trở nên vô dụng.

Ngài tin rằng mình hiểu biết nàng. Và mặc dù nếu không như vậy thì điều đó vẫn đủ để nàng là người đáng yêu nhất đời đối với ngài. Ngoài ra, điều này mới quan trọng hơn: Hình ảnh đẹp của nàng sẽ làm cho ngài kiêu hãnh đi trong cuộc đời, hình ảnh của nàng sẽ xóa nhòa hết những kỷ niệm khác.

Nhưng thế giới của Susana là gì? Đó chính là điều mà Pedro Páramo không bao giờ biết được.

“Thân thể ta khoan khoái khi tiếp xúc với hơi nóng trên cát. Ta nhắm mắt lại, dang rộng hai cánh tay, và hai chân đón gió nhẹ từ biển thổi vào. Biển ở đằng trước mặt, xa vời, hầu như không để dấu vết của bọt khi táp sóng lên bãi cát”.

- Juan Preciado, đó là tiếng nói của bà ta đấy. Cháu đừng quên nói lại cho ta nghe điều bà ta nói đấy nhé.

“Trời hãy còn sớm. Theo làn sóng, biển dâng lên rồi tụt xuống. Nó dâng lên tung bọt trắng xóa, nhưng khi rút đi, theo những làn sóng lặng lẽ, nó kéo theo nước xanh trong vắt.

- Em chỉ tắm truồng dưới biển thôi, ta nói với anh. Anh kèm ta suốt ngày đầu, cũng tắm truồng như ta, và khi lên khỏi biển người rực ánh sáng lân tinh. Lúc này biển không có lấy một bóng chim hải âu, chỉ có những con chim mỏ xấu thôi. Những con chim này khi kêu chúng kêu như người ngáy khò khò và khi mặt trời ló dạng thì chúng cũng biến luôn. Anh theo ta suốt ngày đầu, nhưng lúc nào anh cũng thấy cô đơn mặc dù luôn ở bên ta.

- Em giống như con chim mỏ xấu ấy, lại thêm một con nữa trong số những con chim ấy. - Anh bảo ta thế. - Về ban đêm em khiến anh thú hơn cả. Khi trong bóng tối chúng ta cùng gối chung một gối, cùng đắp chung một chăn.

Rồi anh bỏ đi.

Ta trở lại với biển. Ta luôn luôn trở lại. Biển làm ướt mắt cá chân ta rồi lại rút xa xa. Rồi biển làm ướt hai đầu gối ta, hai bẹn ta. Biển với đôi cánh tay mềm mại, ôm lấy thắt lưng ta, rồi quàng tay ngang ngực ta, rồi ôm lấy cổ ta và cuối cùng ôm chặt lấy hai vai ta. Ta hiến thân trọn vẹn cho biển trong hơi thở cường tráng của nó, trong sức mạnh dịu dàng của nó.

- Em thích tắm biển, - ta nói với anh.

- Nhưng anh không hiểu điều đó.

Rồi một ngày khác ta lại ra biển. Dấn thân mình trong những làn sóng của nó, ta lại tắm cho người ta sạch bong.

Chiều tỏa nắng vàng. Những người đàn ông xuất hiện. Họ đến mang theo súng carbine, vai quàng những băng đạn. Bọn họ có khoảng hai chục người. Pedro Páramo mời họ ăn tối. Không thèm bỏ mũ, họ ngồi vào ăn, lặng lẽ đợi. Chỉ nghe thấy tiếng sì sụp húp sô-cô-la khi người nhà mang đến cho họ sô-cô-la, và tiếng nhai chóp chép khi người nhà mang đến cho họ bánh đa ngô và đậu.

Pedro Páramo nhìn họ. Ngài không thấy có gương mặt nào quen biết. Ngay sau ngài một ít, đứng trong bóng tối, là Tilcuate.

- Thưa các ngài, - ngài nói khi nhìn thấy bọn họ ăn xong, - tôi có thể thù tiếp các ngài gì nữa ạ?

- Ông là chủ của điền trang này phải không? - Một người đang lấy tay phe phẩy hỏi ngài. Nhưng người khác vội cắt ngang lời ông ta:

- Ở đây ta là người nói thay cho tất cả.

- Tốt lắm. Tôi có thể giúp gì được các ngài? - Pedro Páramo lại hỏi.

- Như ông đã thấy đấy, chúng ta đã nổi dậy cầm vũ khí.

- Và?

- Và như thế là tất cả những điều ta cần nói. Ông thấy vẫn chưa đủ sao?

- Nhưng mà vì sao các ngài lại nổi dậy?

- Là bởi vì những người khác cũng đã cầm súng đứng dậy. Ông không biết sao? Hãy đợi cho đến khi nào có các chỉ thị và lúc đó chúng ta sẽ nói rõ nguyên nhân cho ông nghe. Vào lúc này thì chúng ta có mặt ở đây thôi.

- Tôi biết rõ nguyên nhân, - người khác nói, - nếu ông muốn biết thì ông sẽ nghe đây. Chúng ta đứng dậy để chống lại chính phủ và chống lại các ông bởi vì chúng ta không thể chịu đựng thêm nữa ách áp bức của các ông. Chống lại chính phủ vì đó là bọn người hèn mạt và chống lại các ông là vì các ông chỉ là một lũ giun ăn bám và một lũ chuột đục khoét. Đối với chính phủ tôi chẳng cần phải nói gì vì chúng tôi sẽ dùng đạn để nói cái điều chúng tôi cần nói và muốn nói.

- Các ngài cần bao nhiêu tiền để tiến hành cuộc cách mạng của mình? - Pedro Páramo hỏi. - Có lẽ tôi có thể giúp được các ngài đấy.

- Ngài đây nói phải đấy, ông bạn Perseverancio ạ. Ông bạn không cần phải mở miệng. Chúng ta đang cần tìm một người giàu có để giúp đỡ mình thì may quá lại gặp được ngài đây. Casildo, anh bạn thử nói xem chúng ta cần độ bao nhiêu tiền nhỉ?

- Hãy cho chúng ta bao nhiêu cũng được, tùy hảo tâm của ngài thôi.

- Thôi đi, cứ như thế thì chẳng lấy được gì đâu. Tốt hơn hết là phải tranh thủ lúc chúng ta có mặt ở đây để buộc ông phải nộp cho chúng ta ngay đến cả ngô bột dành để vỗ béo lợn.

- Hãy yên nào, Perseverancio. Lạt mềm buộc chặt, lời lẽ thân ái bao giờ cũng tốt hơn. Chúng ta hãy cùng thảo luận để đi đến thống nhất. Nào Casildo, anh hãy nói xem chúng ta cần bao nhiêu?

- Ở đằng ấy tôi đã tính rồi. Chúng ta cần khoảng hai mươi nghìn cho công việc ở lúc khởi đầu. Như vậy cũng gọi là tàm tạm thôi ạ. Các anh thấy thế nào? Hoặc giả biết đâu bấy nhiêu tiền thấm tháp gì đối với ngài đây. Ngài sẽ cho là ít chăng nếu như ngài sẵn lòng giúp đỡ chúng ta. Vậy thì chúng ta đặt con số năm mươi nghìn nhé. Các anh có đồng ý không nào?

- Tôi sẽ ủng hộ các ngài một trăm nghìn peso đấy, - Pedro Páramo nói với họ. - Các ngài có cả thảy bao nhiêu người?

- Ba trăm người.

- Tốt. Tôi sẽ cho các ngài mượn ba trăm người nữa để các ngài tăng thêm lực lượng của mình. Chỉ trong vòng một tuần thôi, các ngài sẽ có người và tiền. Tiền thì ủng hộ các ngài, người thì cho các ngài mượn. Khi nào các ngài không cần đến nữa xin trả lại cho tôi. Các ngài bằng lòng chứ?

- Sao lại không?

- Vậy thì xin hẹn gặp lại các ngài sau tám ngày nữa. Tôi rất hài lòng được làm quen với các ngài.

- Được, - người đi ra cuối cùng nói, - ngài hãy nhớ cho rằng nếu không thực hiện những lời đã hứa với chúng tôi thì hẳn ngài sẽ được nghe nói tới tên Perseverancio, đó là tên tôi.

Pedro Páramo bắt tay ông ta để từ biệt.

- Anh nghĩ ai sẽ là người chỉ huy bọn người này, -ngài hỏi người được mệnh danh là Tilcucite.

- Cái gã rậm râu ngồi ở giữa bàn, không hề ngước mắt nhìn lên trong suốt buổi thảo luận, đã làm con phải chú ý. Con cảm thấy hắn là... Rất ít khi con nhầm, thưa don Pedro.

- Không phải đâu Damasio ạ. Người chỉ huy chính là anh. Hay là anh không muốn trà trộn vào đám người này thì bảo!

- Thưa ông chủ, con chỉ sợ muộn mất thôi ạ. Như ông chủ đã biết rồi đấy, con chúa thích ẩu đả ạ.

- Vì là anh đã tận mắt nhìn thấy chúng ta bàn về việc gì rồi cho nên cũng chẳng cần phải chỉ bảo anh thêm nữa. Anh hãy tập hợp đủ số ba trăm thanh niên, những người tin cậy của anh, rồi đem họ đến nhập vào đám nổi loạn. Hãy bảo với bọn họ rằng anh mang đến cho họ đủ số ba trăm người mà ta đã hứa cho mượn. Những việc còn lại anh đã biết phải hành động như thế nào rồi.

- Thế còn chuyện tiền nong con sẽ nói với họ như thế nào đây ạ? Con cũng mang luôn tiền cho họ một thể sao?

- Ta sẽ cho mỗi người một chục đồng peso. Chỉ có thế thôi để cho họ tiêu những thứ thật cần thiết. Anh sẽ nói với họ rằng số tiền còn lại được giữ ở đây và khi họ cần chi tiêu thì đến mà lấy. Cũng không thực tiện lắm việc mang nhiều tiền đi lại trên những đường hẻm đầy nguy hiểm như thế. Còn bây giờ là chuyện riêng của anh và ta. Anh có thích trang trại Puerta de Piedra không? Được! Từ giờ trở đi nó là của anh đấy. Anh sẽ mang một tờ văn tự đến cho luật sư Gerardo Trujillo, ở Comala, để ông ta điền tên anh vào văn tự là người chủ của nó. Anh thấy thế nào hả Damasio?

- Thưa ông chủ, ngài chẳng phải hỏi con điều ấy. Dù có hay không có nó con sẽ làm với tất cả sức mình. Ngài cứ làm như thể không hề biết tính con ấy. Nhưng dù sao con cũng phải cám ơn ông chủ, ít ra người vợ con cũng có cái để mà vui khi con vắng nhà.

- Nhưng hãy nghe đây, ở đằng ấy mỗi khi về nghỉ anh sẽ phải chăn dắt một ít bò cái đấy. Điều cần thiết hiện nay đối với trang trại ấy là phải cho nó hoạt động bình thường.

- Con lấy mấy con bò Brahma được chứ ạ?

- Hãy chọn lấy những con bò cái mà anh thích nhất và những con anh chọn vợ anh có thể chăm nom được. Và bây giờ trở lại vấn đề của chúng ta nhé: Anh hãy nhớ chớ có bỏ đi quá xa đất đai của ta để đề phòng khi những kẻ khác đến chúng sẽ thấy rằng đất đai ấy đã có chủ rồi, nghe chưa. Và anh hãy đến thăm ta mỗi khi anh có thể đi và cả khi anh có những tin tức mới.

- Xin chào ông chủ ạ. Chúng ta sẽ gặp lại nhau sau.

- Bà ta nói gì hả, Juan Preciado?

- Bà ta nói rằng chân bà ta thọc vào giữa hai bẹn ông ấy. Đôi chân bà ta lạnh như tiền và khi ở giữa hai bẹn ông ta chúng được sưởi ấm như thể ở trong lò nướng bánh. Bà ta bảo rằng ông ta cắn hai chân bà và nói rằng chúng giòn như là bánh vừa mới ra lò. Bà ta nói rằng bà ta ngủ trong lòng ông ta, bị ông ta ghì chặt, rồi bà thấy mình đã đánh mất mình trong cõi hư không khi cảm thấy da thịt mình bị nứt ra bởi một cái dùi nóng hôi hổi mở một đường rãnh như đường cày trên thân xác mình, sau đó bà thấy dìu dịu êm êm, sau nữa bà thấy ngọt ngào do nó cứ nhún lên nhún xuống trên da thịt mềm mại của bà, rồi bà lịm đi, lịm đi cho tới khi rên rỉ. Nhưng cái chết của ông làm bà ta đau đớn hơn cả. Bà ta nói thế.

- Nói về ai thế nhỉ?

- Về một người chết trước bà ta, chắc chắn là như thế.

- Nhưng là ai vậy?

- Cháu không rõ. Bà ta bảo rằng trong cái đêm ông ta về muộn bà ta cảm thấy ông ta về rất muộn, có thể lúc ấy đã là nửa đêm về sáng. Dường như bà ta nhớ rõ bởi vì đôi chân bà vốn bị lạnh cóng, lại được đắp ấm bằng một vật nào đó, rằng đã có người đã lấy một vật nào đó đắp lên chân bà, sau đó chúng dần dần ấm lại. Khi tỉnh dậy bà ta thấy chân mình được một tờ báo phủ lên. Đó là tờ báo bà đọc trong lúc đợi ông ta, rồi vì buồn ngủ quá bà đánh rơi nó xuống sàn nhà. Và rằng khi chân bà vẫn còn đắp tờ báo thì có người đến mách cho bà hay rằng ông ta đã chết.

- Hình như chiếc quan tài chôn bà ta bị vỡ ra bởi vì nghe rõ tiếng kêu toang toác như tiếng ván gỗ nát.

- Đúng thế, cháu cũng nghe thấy như vậy.

Đêm ấy lại xảy ra những cơn mộng mị. Tại sao lại chỉ nhớ đến biết bao nhiêu chuyện nhỉ? Tại sao không chỉ nhớ riêng cái chết mà không phải thứ âm nhạc dịu dàng ấy của quá khứ nhỉ?

- Thưa bà, Florencio đã chết rồi.

- Ôi con người ấy sao mà lớn thế, sao mà cao thế! Giọng nói của ông ta sao khô cứng thế, còn khô hơn cả đất khô không khốc. Và hình ảnh của ông sao mờ ảo đến thế cứ như thể giữa bà và ông có một màn mưa chấn giữa. “Ông ta đã nói gì thế nhỉ? Florencio? Florencio nào cơ? Anh của ta á? Ôi tại sao ta không khóc và tại sao không ngợp chìm trong nước mắt để đỡ đau khổ! Hỡi Thiên Chúa, Người không tồn tại thực. Con xin Người hãy che chở cho anh ấy, hãy chăm nom cho anh ấy. Đó là những gì con hằng cầu khẩn Người. Nhưng Người chỉ quan tâm tới linh hồn. Mà cái mà con cần ở anh ấy chính là tấm thân anh ấy. Một tấm thân trần và nóng hổi tình yêu làm sục sôi những thèm khát, làm run rẩy bộ ngực và cánh tay con. Thân xác trong như pha lê của con ngưng tụ trong thân xác anh ấy. Thân xác mềm mại của con săn lại hay mềm ra hoàn toàn tùy thuộc vào sức mạnh con đực của anh. Giờ đây, con sẽ làm gì với đôi cánh tay mình khi không có miệng ấy để hôn? Con sẽ làm gì với đôi môi đau thương của mình?”

Trong lúc Susana San Juan trằn trọc không dứt thì Pedro Páramo từ rất lâu rồi đứng ở ngay bên cạnh cửa, nhìn nàng và đếm từng giây từng giây trôi đi, của cơn mộng mị đang diễn ra. Dầu trong dĩa đèn sôi lên xèo xèo và ngọn lửa đèn ngày một lu đi, ngày một chập chờn. Chẳng bao lâu lửa đèn sẽ tắt.

Nếu đó không phải là những cơn mộng mị quằn quại, kéo dài không dứt và nếu ít ra nó chỉ là nỗi đau mà nàng đang cảm nhận thì ngài đã có thể tìm được cách an ủi nàng. Don Pedro Páramo nghĩ như vậy trong lúc dõi mắt theo từng cử chỉ, từng động tĩnh nhỏ của Susana San Juan. Cái gì sẽ xảy ra nếu nàng tắt thở trong khi ngọn đèn dầu leo lét tỏa ánh sáng yếu ớt để ngài nhìn nàng đang lụi tắt đi?

Sau đó ngài khẽ khàng khép cửa lại và nhẹ nhàng bước đi. Ở bên ngoài không khí trong lành của buổi đêm đến khiến cho hình ảnh Susana San Juan biến mất khỏi tâm trí don Pedro Páramo.

Trước lúc trời rạng sáng một lúc, Susana San Juan thức dậy. Người nàng ướt đẫm mồ hôi. Nàng ném xuống sàn nhà những tấm chăn nặng trình trịch và rũ sạch đến cả hơi ấm trong những tấm ga trải giường. Thế là lúc đó nàng ở truồng và cơn gió lọt vào phòng quạt mát cho nàng. Nàng thở dài rồi sau đó lại ngủ lịm đi.

Mấy giờ sau, cha Rentería đã bắt gặp nàng như vậy: trần truồng mà ngủ.

- Thưa don Pedro, ngài có biết rằng Tilcuate đã bị đánh bại rồi không?

- Ta biết rằng đêm qua có mấy loạt súng nổ, bởi nghe rõ tiếng ồn ào. Nhưng từ đó đến nay ta chẳng biết gì cả. Gerardo này, ai kể cho anh nghe thế?

- Có mấy người bị thương đến Comala. Mụ vợ tôi đã giúp họ băng bó vết thương. Bọn họ nói rằng họ là người của Damasio và rằng có rất nhiều người chết. Hình như bọn họ chạm trán với nghĩa quân của Villa [16] thì phải.

- Ôi thực là khốn thân, Gerardo ạ. Ta đang thấy thời loạn lạc đã đến. Còn anh, anh sẽ làm gì nào trong cái thời buổi loạn lạc này?

- Thưa don Pedro Páramo, tôi sẽ đi. Tôi sẽ đến Sayula. Ở đấy tôi sẽ lại lập nghiệp từ đầu.

- Bọn luật sư nhà các anh luôn có thuận lợi ấy. Các anh có thể mang nghề nghiệp của mình đi khắp nơi mà chẳng hề bị tróc da lòi xương vất vả gì.

- Xin ngài đừng nghĩ như vậy. Chúng tôi luôn luôn phải đối chọi với những khó khăn đấy chứ ạ. Mặt khác, chúng tôi rất đau lòng phải xa những người như ngài đây, và chúng tôi sẽ rất nhớ chuyện đã được ngài tôn trọng. Chúng ta sống trong lúc chúng ta hủy hoại dần mòn thế giới của mình, nếu như tôi có thể nói được như vậy. Ngài muốn tôi để lại những giấy má này ở chỗ nào?

- Chớ để lại. Anh hãy mang chúng theo. Hay là khi anh tới đằng ấy để sinh sống lẽ nào anh không thể tiếp tục gánh vác những công việc của ta?

- Xin đa tạ lòng tin của ngài, thưa don Pedro. Tôi chân thành cảm ơn ngài. Tôi xin mạo muội nói rằng tôi không thể... Rõ ràng có những tình huống không bình thường. Chẳng hạn... Đó là những bằng chứng mà chỉ duy có ngài biết. Những giấy tờ này sẽ bị trao cho những kẻ xấu nếu nó nằm trong tay người khác... Tốt hơn hết là nên để chúng ở đây với ngài.

- Anh nói đúng đấy, Gerardo ạ. Anh hãy để chúng lại đây cho ta. Ta sẽ đốt chúng đi. Dù có hay không có văn tự, thử xem đứa nào có thể tranh cãi với ta về số tài sản mà ta đã có trong tay nào?

- Hiển nhiên là không một ai, thưa don Pedro, không một ai cả. Thôi xin ngài cho phép tôi được đi ạ.

- Hãy cút đi với Chúa, Gerardo.

- Ngài bảo sao ạ?

- Ta bảo rằng Chúa sẽ che chở cho anh mà.

Luật sư Gerardo Trujillo thong thả bước ra ngoài. Ông đã già nhưng không già đến nỗi lại bước những bước chân ngập ngừng và chờ đợi. Sự thật là ông đang đợi một món tiền thưởng. Ông từng phục vụ don Lucas, người đã quá cố và là cha của don Pedro, từng phục vụ don Pedro và cho đến tận bây giờ ông vẫn tận tụy với chủ mình. Sau cùng ông đã phục vụ cả Miguel, con trai của don Pedro. Thật tình mà nói ông đợi một khoản tiền thưởng. Một khoản tiền thưởng có giá lớn. Ông đã từng nói với vợ mình:

- Tôi sẽ đi từ biệt don Pedro. Tôi biết rằng ngài sẽ thưởng công cho tôi. Tôi dám nói với mình rằng với số tiền ngài cho tôi chúng ta sẽ lập nghiệp đàng hoàng, thật đàng hoàng ở Sayula và trong những ngày còn lại của đời mình chúng ta sẽ sống một cuộc đời nhàn hạ.

Nhưng làm sao bọn đàn bà hay đa nghi thế nhỉ? Họ đã nghe được những lời mách bảo của đấng Toàn năng sao? Bà vợ không tin rằng ông sẽ kiếm chác được gì từ tay ngài Pedro.

- Ông sẽ phải làm việc đến đổ mồ hôi sôi nước mắt ở đằng ấy để mà có thể ngẩng mặt lên với thiên hạ. Ở đây ông sẽ chẳng kiếm chác được gì đâu.

- Vì sao mình lại nói thế nhỉ?

- Tôi biết mà.

Ông đi ra phía cửa chính mà tai vẫn lắng nghe bất kỳ một tiếng gọi nào: “Này, Gerardo này! Ta đang bận tâm quá đến mức không còn kịp nghĩ tới anh. Nhưng ta biết rằng mình mang ơn anh nhiều và những ơn huệ này không thể lấy tiền mà trả được. Thôi hãy nhận lấy cái này: gọi là một chút quà kỷ niệm, nó chẳng đáng giá là bao”.

Nhưng không có tiếng gọi giật lại nào cả. Ông bước qua cửa, rồi tháo cương con ngựa đang bị buộc vào một chiếc cột, ông trèo lên yên. Ông rong cho con ngựa đi chậm từng bước một về làng Comala, tai cố lắng nghe xem có tiếng gọi giật trở lại không. Khi nhận ra điền trang Media Luna đã khuất khỏi tầm mắt, ông nghĩ, “Nếu mình ngửa tay vay tiền thì mình đã quỵ lụy ngài nhiều quá”.

- Thưa don Pedro, tôi đã trở lại vì tôi đã tự ân hận nhiều. Tôi rất thích mình được trông nom các công việc của ngài ạ.

Luật sư Gerardo nói vậy, và một lần nữa ông lại ngồi trong văn phòng của don Pedro, nơi chưa đầy nửa giờ trước ông đã có mặt.

- Tốt lắm, Gerardo ạ. Giấy tờ vẫn ở đây. Anh để ở đâu chúng vẫn ở nguyên đấy.

- Tôi cũng muốn... Những tốn kém... Việc di chuyển... Một số tiền tạm ứng ít ỏi... Nếu như ngài bằng lòng thì đó là một khoản tiền ngoại ngạch.

- Năm trăm được không?

- Không thể hơn được nữa sao, một ít nữa thôi mà, thưa don Pedro.

- Một nghìn nhé, anh đã bằng lòng chưa?

- Và nếu như năm nghìn thì có được không ạ?

- Năm gì kia? Năm nghìn đồng peso hả? Ta không có số tiền ấy đâu. Anh đã biết rồi đấy: tất cả đều đã hết nhẵn rồi. Ruộng đất, súc vật. Anh đã biết rồi đấy. Anh hãy cầm lấy một nghìn đồng peso vậy. Ta nghĩ thế là đủ để anh chi dùng rồi đấy.

Luật sư Gerardo ngồi đăm chiêu tư lự. Ông cúi đầu. Ông nghe rõ tiếng kêu leng keng của những đồng peso rơi trên mặt bàn viết nơi don Pedro đang đếm tiền, ông nhớ tới don Lucas, người vẫn còn nợ tiền công của ông. Ông nhớ tới don Pedro, người đang tính tiền công cho ông. Ông nhớ tới Miguel, con trai của don Pedro, kẻ đã buộc ông phải hứng chịu biết bao thứ nhớt nhát trên đời này!

Ông đã giúp hắn thoát khỏi vòng tù tội ít nhất là mười lăm lần và còn phải giúp hắn cho tới khi hắn không thể phạm tội được nữa. Còn cái vụ giết người mà hắn đã phạm, kẻ bị giết có họ là gì nhỉ? Rentería, đúng rồi, kẻ bị giết được gọi là Rentería. Người ta đã đặt vào tay người bị giết một khẩu súng lục. Cậu Miguelito đã sợ chết khiếp mặc dù sau đó cậu cười đắc ý. Chỉ riêng cái vụ này mà được làm cho đến cùng kỳ lý, được làm cho ra lẽ thì thử hỏi don Pedro phải tốn bao nhiêu tiền? Còn các vụ cưỡng hiếp khác thì sao? Đã bao lần ông phải moi tiền túi để các cô kín miệng. “Phải biết ơn khi em sẽ có một đứa con tóc vàng đấy”, ông vẫn thường bảo các cô như thế.

- Đây, tiền của anh đấy, Gerardo ạ. Hãy cất giữ chúng cẩn thận kẻo chúng lại sinh con đẻ cái đấy.

Còn ông, mà lúc này vẫn đang mải suy tư, đã trả lời ngài:

- Đúng thế, ngay cả những người chết cũng chẳng sinh con đẻ cái nữa, - ông khẳng định. - Thật là bất hạnh.

Còn lâu mới hừng đông. Bầu trời dày đặc sao, những vì sao to, tròn trịa lung linh sáng. Trăng ló ra được một lúc rồi lại lẩn mất ngay. Đó là một ông trăng buồn mà không một ai muốn nhìn, không một ai muốn ngắm. Nó méo mó mờ ảo treo lơ lửng ở đây, chẳng kịp tỏa sáng, rồi sau đó nó khuất sau mấy ngọn đèo.

Ở phía xa kia, nơi chìm trong bóng đêm, vọng lên tiếng bò tót gầm gừ.

- Những con vật ấy chẳng bao giờ ngủ yên, - Damiana Cisneros nói. - Chẳng bao giờ chúng ngủ yên. Cứ như quỷ sứ, chúng đi lùng bắt hồn người để mang về địa ngục.

Bà lăn nửa vòng trên giường để quay mặt vào tường. Thế là bà nghe thấy tiếng gõ cửa.

Bà nín thở rồi mở to hai con mắt. Bà lại nghe rõ những tiếng gõ cửa cứ như thể ai đó gõ cùi tay lên tường. Không phải là ở đây, ở ngay bên cạnh bà, mà trái lại ở rất xa; nhưng tiếng gõ ấy được nghe thấy rất gần, tựa như chúng ở ngay trên bức tường này.

- Lạy chúa, thôi đúng rồi! Đó là ba tiếng gõ cửa của Thánh Pascual Bailón, người đã đến để báo cho những môn đệ ưu ái của ngài rằng đã đến giờ phải đi hầu Chúa đây!

Vì cái bệnh thấp khớp bà không cầu nguyện đã từ lâu và do đó bà không lo lắng lắm. Nhưng giờ đây bà sợ và hơn cả nỗi sợ hãi, bà sinh tính tò mò.

Bà nhổm dậy khỏi chiếc giường nan và thò đầu qua cửa sổ.

Những cánh đồng đen ngòm. Tuy nhiên bà nhận ra ngay don Pedro Páramo khi bà nhìn thấy tấm thân vâm váp của ngài in trên cửa sổ phòng con bé Margarita.

- Ôi, don Pedro đáng thương, - Damiana Cisneros nói. - Ngài không bao giờ bỏ được cái thói chạy theo gái. Có điều khiến mình không hiểu nổi là vì sao ngài thích làm chuyện lén lút thế. Nếu ngài bảo mình một tiếng thôi thì mình đã đi bảo ngay Margarita rằng đêm nay ông chủ cần mày đấy và do đó ngài chẳng phải vất vả dậy và đi ra khỏi giường nằm.

Bà đóng cửa sổ lại vào lúc nghe tiếng bò tót gầm gừ. Bà gieo tấm thân, nằm vật xuống giường, trùm chăn kín tai rồi sau đó bà bắt đầu nghĩ đến điều đang xảy ra với con bé Margarita.

Sau đó bà phải cởi bỏ chiếc áo ngủ vì đêm bắt đầu oi nóng.

- Damiana! - Bà nghe thấy có tiếng gọi mình.

Lúc ấy bà còn là con gái đang thì.

- Dậy mở cửa cho ta, Damiana!

Như con cóc nhảy trong lồng ngực mình, trái tim làm bà run rẩy.

- Nhưng, thưa ông chủ, mở cửa để làm gì cơ?

- Hãy mở cửa mau cho ta vào, Damiana!

- Nhưng thưa ông chủ, con đã ngủ rồi ạ.

Sau đó bà cảm thấy don Pedro đã bỏ đi, đang nện gót giày cồm cộp dọc theo những hành lang dài. Bà biết rằng mỗi khi giận dữ ngài vẫn thường nện gót giày như thế.

Đến hôm sau, để ngài khỏi phải khó chịu, bà phải khép hờ cánh cửa và đi nằm không quần áo. Bà làm như vậy cốt để ngài, nếu thích, sẽ không gặp một trở ngại nào.

Nhưng Pedro Páramo không bao giờ quay trở lại với bà nữa.

Thế mà tối nay, giờ đây, khi là quản gia của tất cả những con hầu ở điền trang Media Luna, được mọi người kính trọng, và tuy đã già rồi, bà vẫn còn nghĩ tới cái đêm ấy khi ông chủ bảo mình:

“Dậy mở cửa cho ta, Damiana!”

Bà lại nằm xuống, nghĩ đến nỗi niềm hạnh phúc mà vào lúc này con bé Margarita đang được hưởng.

Sau đó bà lại nghe thấy tiếng gõ cửa, nhưng lần này là những tiếng gõ ở cửa chính, như thể người ta lấy báng súng nện lên cánh cửa.

Lại một lần nữa bà nhỏm dậy và thò đầu qua cửa sổ để nhìn vào đêm đen. Bà chẳng nhìn thấy gì hết, mặc dù bà có cảm giác rằng mặt đất đầy những bong bóng hơi và đen đặc những con sâu bọ giống như thể nó vừa qua một trận mưa. Bà cảm thấy rằng có một cái gì đó giống như hơi nóng của rất nhiều người đàn ông đang bay lên. Bà nghe rõ tiếng ếch nhái kêu vang và tiếng trùng rên rỉ. Đó là đêm thanh lặng của mùa mưa. Sau đó bà lại nghe rõ tiếng báng súng nện vào cửa chính.

Một ngọn đèn dầu rọi ánh sáng vào mặt một số người đàn ông. Sau đó đèn tắt.

“Đó là những việc chẳng khiến ta thích thú gì”, Damiana Cisneros nói, rồi bà lại đóng cửa lại.

- Ta biết rằng chúng nó đã đánh bại anh, Damasio ạ. Vì sao anh lại để xảy ra như vậy hả?

- Thưa ông chủ, người ta báo tin sai cho ngài đấy. Con vẫn còn đủ số người của con ạ. Con mang về đây bảy trăm quân và vô số người tình nguyện theo quân ta ạ. Chuyện xảy ra là thế này: có một số ít kẻ già nua, vốn ngao ngán cảnh ăn không ngồi rồi, đã nã súng vào một trung đội lính húi đầu trọc, thực ra đó là một quân đội hẳn hoi nhé. Đó là những người thuộc quân đội của Villa. Ngài có biết đạo quân này không?

- Bọn người này từ đâu tới?

- Bọn họ từ miền Bắc tới. Họ đi đến đâu san bằng tất cả mọi sự đề kháng tới đó. Cứ theo như những điều quan sát được thì dường như họ đi kiểm tra đất đai, kiểm tra rất kỹ. Họ hùng mạnh lắm ạ. Không một ai có thể địch nổi họ đâu ạ.

- Vì sao anh không sáp nhập với họ. Ta chả đã bảo anh rằng hãy đứng về phía kẻ nào sẽ chiến thắng là gì.

- Dạ, thưa ngài, con đang ở với họ mà.

- Thế thì anh còn về đây gặp ta để làm gì nào?

- Thưa ông chủ, chúng con cần tiền ạ. Chúng con đã ngấy thịt đến tận cổ rồi. Quả tình là chúng con chẳng muốn ăn thịt nữa. Và cũng chẳng một ai còn tin ở chúng con nữa. Bởi thế chúng con kéo nhau về đây để ông chủ tận mắt nhìn thấy mà chu cấp cho ít tiền để chúng con khỏi phải đi ăn trộm của người khác. Nếu trước đây chúng con ở xa thì chúng con chẳng nề hà việc đi ăn trộm của dân địa phương. Nhưng giờ ở đây tất cả chúng con đều là anh em với nhau và chúng con thấy tủi hổ khi phải ăn trộm ạ. Tóm lại, tiền là cái mà chúng con đang cần để đi chợ, dù với chỉ một hào bạc để mua ớt thôi ạ. Chúng con chán ngấy thịt rồi.

- À ra thế, bây giờ anh lại sách nhiễu ta phải không, Damasio?

- Thưa ông chủ, con đâu dám thế ạ. Con chỉ được các bạn trẻ ủy thác cho việc thưa chuyện này với ông chủ. Về phần mình, con không dám mạo muội thế đâu ạ.

- Thôi được, cứ cho là anh bị người của anh buộc phải làm điều này. Nhưng các anh hãy moi tiền kẻ khác nhé. Ta đã cho anh tiền rồi. Anh hãy bằng lòng với số tiền ta cho anh, nhưng điều ta sắp nói với anh đây chỉ đơn thuần là lời khuyên với anh thôi. Vì sao anh không nghĩ đến việc tấn công vào làng Contla? Tại sao anh lại nghĩ là anh đang làm cách mạng nhỉ? Nếu anh đi ăn xin thôi thì anh đã lạc hậu rồi đấy. Nếu chỉ có thế thôi thì tốt hơn hết anh hãy đi chăn gà với vợ. Anh hãy làm cỏ một làng nào đó chẳng hạn! Anh đang mạo hiểm đánh nhau sao không bắt bọn quân kia làm một cái gì đi chứ? Contla toàn bọn giàu có. Anh hãy tước đoạt của họ ít nhiều chứ. Hoặc giả anh nghĩ rằng anh là vú em của họ và anh phải chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của họ? Không, không đúng thế đâu, Damasio ạ. Anh phải làm cho họ thấy rằng anh không đi chơi cũng không đánh nhau chỉ để thỏa chí của mình. Anh hãy cho bọn họ nếm tí đòn đi rồi tiền sẽ chảy về như nước ngay.

- Vâng thưa ông chủ, con sẽ làm như điều ông chủ dạy bảo ạ. Ở ngài lúc nào con cũng học được những điều bổ ích ạ.

- Ừ, thế thì anh hãy tranh thủ đi.

Pedro Páramo nhìn đám quân lính ra đi. Ngài cảm thấy đàn ngựa đen, dễ dàng lẫn trong đêm tối, phi nước kiệu diễu qua trước mặt mình. Ngài cảm thấy mùi mồ hôi, mùi bụi và cả tiếng rùng mình của mặt đất. Khi ngài nhìn thấy những con đom đóm lập lòe bay ngang qua mặt mình, lúc ấy ngài cũng nhận ra rằng tất cả bọn họ đã đi rồi. Chỉ còn lại có ngài, một mình đơn độc, giống như một thân cây cứng đã bắt đầu mục ruỗng từ bên trong.

Ngài lại nghĩ tới Susana San Juan. Ngài nghĩ tới cô gái vừa chung đụng ban nãy. Cái tấm thân nhỏ bé run rẩy sợ sệt ấy đã làm cho trái tim nó suýt nữa vọt ra đằng miệng. “Ôi tấm thân nhỏ bé”, ngài nói với cô bé. Ngài đã ôm ghì cô bé trong lòng mà định bụng biến cô thành da thịt của Susana San Juan, “một người đàn bà đẹp không thuộc thế giới này”.

Trong lúc trời hừng đông, ngày chậm rãi quay trở lại, hầu như nghe rõ tiếng các bản lề quả đất đã khô dầu kêu lạo xạo. Quả đất già này rùng mình đang lật xoay bóng tối của nó.

- Justina này, có thật là đêm tối mang đầy những tội lỗi không?

- Đúng thế đấy, Susana ạ.

- Thật không?

- Có thể lắm chứ, Susana ạ.

- Justina này, vú em có tin rằng cuộc đời là một thứ tội nợ không? Vú em không nghe thấy sao? Vú em không nghe thấy trái đất đang kêu cọt kẹt sao?

- Không, Susana ạ. Tôi không nghe thấy gì cả. Vận may của tôi không được lớn như vận may của bà.

- Vú em sẽ giật mình kinh ngạc đấy. Ta bảo vú em rằng vú em sẽ rùng mình kinh ngạc nếu vú em nghe được cái ta đã nghe thấy.

Justina tiếp tục dọn dẹp lại căn buồng. Vú em trải lại tấm thảm phủ trên những tấm ván ẩm lát sàn nhà, lau khô vũng nước do bình hoa vỡ làm nước vung ra sàn nhà, nhặt nhạnh những bông hoa, rồi ném những mảnh thủy tinh vào cái xô đựng đầy nước.

- Trong cuộc đời mình vú em đã giết bao nhiêu con chim cả thảy nào, Justina?

- Ôi, nhiều lắm, Susana ạ.

- Và vú em không cảm thấy buồn sao?

- Có chứ, buồn lắm, Susana ạ.

- Vậy thì vú em chờ đợi gì để chết nào?

- Đợi thần chết.

- Nếu không còn gì hơn thế nữa thì thần chết đang đến rồi. Vú em chẳng còn phải lo lắng nữa.

Susana San Juan gượng người dậy trên những tấm gối của nàng. Đôi mắt nàng đung đưa nhìn khắp mọi phía. Hai tay nàng đặt lên bụng, ôm kín bụng làm như thể chúng là một tấm chăn hộ mạng. Có những tiếng kêu vo vo như tiếng cánh quạt bay ngang trên đầu nàng. Có tiếng động ầm ầm của bánh xe quay trong guồng đạp nước. Lại có cả tiếng ồn ào của đám đông khi thức dậy.

- Vú em tin là có âm phủ không?

- Có chứ Susana ạ. Và tôi còn tin có cả thiên đường nữa.

- Ta chỉ tin là có âm phủ thôi, - nàng nói. Sau đó nàng nhắm mắt lại.

Khi Justina ra ngoài rồi, Susana San Juan lại ngủ thiếp đi. Ở bên ngoài, ông mặt trời tỏa sáng lấp lánh. Trên đường đi, Justina gặp Pedro Páramo.

- Bà thế nào rồi hả?

- Bà yếu lắm ạ, - vú em cúi đầu trả lời ngài.

- Bà có kêu ca gì không?

- Thưa ngài, không ạ. Bà chẳng kêu ca gì cả. Nhưng người ta bảo rằng những người chết không kêu ca. Bà đang mất đi đối với tất cả chúng ta.

- Cha Rentería vẫn chưa đến thăm nom bà nhà sao?

- Đêm qua cha đến và đã làm lễ xưng tội cho bà rồi. Hôm nay sẽ là lễ ban Thánh thể cho bà nhưng bà không được ân sủng, bởi vì cha Rentería không mang đồ lễ ban Thánh thể đến. Cha bảo sẽ làm lễ ban Thánh thể rõ sớm nhưng như ngài thấy đấy, mặt trời đã lên cao mà cha vẫn chưa đến. Có lẽ bà nhà không có được ân sủng.

- Ân sủng của ai?

- Của Chúa ạ, thưa ngài.

- Thôi đi, đừng có mà lẩn thẩn, Justina ạ.

- Con xin nghe lời ngài, bẩm ngài.

Pedro Páramo mở cửa rồi ngài ở bên cạnh nàng. Cánh cửa hé mở để cho một luồng ánh sáng đọng trên người Susana San Juan. Ngài nhìn đôi mắt đã nhắm lại của nàng như thể nàng đang cảm thấy một nỗi đau bên trong, ngài nhìn miệng nàng hé mở, ướt át và nhìn những tấm ga trải giường bị vén lên đến độ để lộ tấm thân trần truồng bắt đầu co quắp lại của nàng.

Ngài vượt qua khoảng không nhỏ bé ngăn cách ngài với chiếc giường rồi ngài lấy ga trải giường che tấm thân trần truồng đi, cái tấm thân vẫn uốn cong lại như con sâu đo. Ngài cúi sát xuống tai nàng, nói: “Susana!”. Rồi ngài lại gọi: “Susana!”.

Cánh cửa lại bật mở và cha Rentería bước vào, miệng lẩm bẩm:

- Cha sẽ làm lễ ban Thánh thể cho con, con ạ.

Cha đợi cho đến khi Pedro Páramo nâng nàng dậy, đặt nàng ngồi dựa vào thành giường, Susana San Juan, mà lúc này vẫn còn đang ngái ngủ, đã thè lưỡi ra và nuốt miếng bánh Thánh. Sau đó nàng nói: “Chúng mình đã cùng tận hưởng một lúc thật hạnh phúc. Florencio nhỉ”. Sau đó nàng lại chui vào trong nấm mồ những tấm ga trải giường của mình.

- Doña Fausta này, bà có nhìn thấy cái cửa sổ kia không? Đấy đấy! Đó là cửa sổ ngôi nhà ở Media Luna, nơi lúc nào cũng thắp sáng đèn.

- Không, Ángeles. Tôi không nhìn thấy cửa sổ nào hết.

- Là bởi vì vừa mới đây thôi ánh đèn đã bị tắt nên nó tối om. Lẽ nào ở Media Luna lại sẽ không xảy ra điều gở nhỉ? Hơn ba năm nay, đêm lại đêm, cái cửa sổ kia đều thắp sáng đèn. Những người từng tới chỗ ấy nói rằng đó là căn phòng của bà vợ don Pedro Páramo, một người đàn bà điên lúc nào cũng sợ bóng tối. Doña hãy nhìn kìa: ánh đèn vừa mới tắt ngay lúc này thôi. Lẽ nào đó lại không phải là điềm báo một chuyện xấu sẽ xảy ra nhỉ?

- Có lẽ bà ta đã chết rồi. Bà ta ốm yếu lắm rồi. Người ta bảo rằng bà ta chẳng nhận ra một ai và người ta còn bảo rằng bà ta chỉ lảm nhảm nói một mình thôi. Thật là một đòn trừng phạt đích đáng đối với Pedro Páramo bằng cách run rủi ông ta phải cưới người đàn bà ấy.

- Thương thay don Pedro!

- Không nên thế doña Fausta ạ. Ngài ấy đáng phải nhận đòn trừng phạt ấy. Và ngài còn cần phải bị trừng phạt hơn thế nữa.

- Bác hãy nhìn kìa, cái cửa sổ ấy vẫn tối om om.

- Thôi, hãy thay cha cái cửa sổ ấy và chúng mình về đi ngủ thôi kẻo đêm đã khuya lắm rồi, không hợp để chúng ta, đôi bạn già này dạo chơi ở ngoài đường làng.

Rồi hai người đàn bà ấy, những người ra khỏi nhà thờ vào lúc gần mười một giờ đêm, đã lẩn mình dưới vòm sân hiên nhà thờ, để dõi mắt nhìn theo bóng dáng một người đàn ông đang vội vã vượt qua quảng trường lớn đi về phía điền trang Media Luna.

- Này, doña Fausta này, bác không thấy rằng cái ngài đi về phía đằng kia là bác sĩ Valencia sao?

- Hình như thế thì phải. Mặc dù tôi đã kém mắt quá đến mức không thể nhận ra được ngài bác sĩ nữa, nhưng tôi vẫn cho là như thế.

- Bác hãy nhớ rằng bác sĩ luôn luôn mặc quần trắng và chiếc áo khoác màu đen. Tôi cuộc với bác rằng ở Media Luna đã xảy ra chuyện chẳng lành rồi. Bác hãy nhìn điệu bộ vội vàng mà ông ta đi như thể ông ta đang gấp lắm vậy.

- Miễn thực sự là không phải chuyện chẳng lành. Tôi muốn trở lại ngay để nói với cha Rentería rằng cha hãy đi đến đó kẻo người đàn bà bất hạnh ấy chết mà không được xưng tội.

- Xin bác đừng nghĩ tới điều đó, Ángeles ạ. Ngay cả Chúa cũng không muốn điều đó. Sau tất cả những gì mà bà ta phải chịu đựng ở cõi thế tục này, không một ai lại muốn đi mà không được xưng tội và muốn mình vẫn mang tội trong cuộc đời khác. Dù cho những nhà duy linh từng nói rằng đối với những kẻ điên loạn, thì không cần thiết phải xưng tội, vì ngay trong lúc tâm hồn họ nhơ bẩn thì họ vẫn cứ là những kẻ vô tội. Điều đó duy chỉ có Thượng đế biết mà thôi... Bác hãy nhìn kìa, ở cửa sổ kia đèn lại được thắp sáng lên rồi. Lạy trời mọi sự đều tốt lành cả. Bác thử nghĩ mà xem công lao mà chúng ta bỏ ra mấy hôm nay để sửa sang lại nhà thờ và trang trí cho nó thật lộng lẫy để đón lễ Noel sẽ ra sao nếu như có một người chết trong cái ngôi nhà kia. Với quyền lực mà don Pedro có trong tay, trong chốc lát ông ta sẽ phải phá hết công lao của chúng ta.

- Lúc nào bác cũng nghĩ đến chuyện chẳng lành, doña Fausta. Tốt hơn hết là bác hãy làm như tôi: phó mặc tất cả cho đấng Toàn năng. Bác hãy cầu nguyện Đức Mẹ Đồng trinh và tôi tin chắc rằng từ nay cho đến sáng mai sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Còn sau đó Chúa sẽ thực hiện ý nguyện của người bởi vì cuối cùng bà ta cũng chẳng vui vẻ gì trong cõi đời này.

- Ángeles, bác hãy tin lời tôi nói rằng lúc nào bác cũng làm cho tôi được vững dạ. Tôi sẽ đi ngủ và mang theo những tư tưởng này vào giấc ngủ. Người ta bảo rằng những suy tư trong giấc ngủ bay thẳng lên trời. Mong rằng những suy tư của tôi cũng vươn tới tầm cao ấy. Tạm biệt nhé.

- Tạm biệt Fausta.

Hai bà già, theo cửa chính, bước vào nhà mình. Yên tĩnh lại khép kín đêm đen trùm lên làng quê này.

- Miệng tôi toàn đất và đất thôi.

- Thưa cha, đúng thế đấy.

- Con không được nói: “Thưa cha, đúng thế”. Con hãy nhắc lại điều cha sắp nói.

- Cha sẽ nói gì với con nào? Cha lại cho con xưng tội một lần nữa phải không? Vì sao phải xưng tội nữa?

- Lần này không phải là lễ xưng tội đâu, Susana ạ. Cha đến nói chuyện với con để chuẩn bị cho con chết được thanh thản mà.

- Con sắp chết rồi sao, thưa đức cha?

- Đúng thế đấy, con ạ.

- Vậy thì tại sao cha không để cho con được yên thân. Con thèm được nghỉ ngơi lắm. Có lẽ người ta bảo đức cha đến đây để tước đi giấc ngủ của con phải không? Thế thì cha hãy ở lại đây cùng con cho tới khi nào con tỉnh ngủ hẳn. Khi đã tỉnh ngủ rồi con sẽ làm gì để có thể gặp lại anh ấy? Thưa cha, con không thể làm thế nào được. Vì sao cha không đi khỏi nơi đây và do đó để cho con được yên.

- Ta sẽ để cho con được yên, Susana ạ. Nếu nhắc lại những lời ta nói con sẽ dần dần ngủ lịm đi mà. Con sẽ cảm thấy như chính con đang tự ru ngủ. Một khi con ngủ rồi thì không một ai sẽ đánh thức con dậy nữa. Sẽ chẳng bao giờ con thức dậy nữa.

- Thế thì được rồi, cha ạ. Con sẽ làm điều cha nói.

Ngồi bên mép giường, hai tay đặt lên vai Susana San Juan, miệng ghé sát vào tai nàng - để khỏi phải nói to, cha Rentería thì thầm và rành rọt nói từng lời một: “Miệng con đầy đất”. Sau đó cha dừng lại. Cha chú ý xem môi nàng có mấp máy không. Rồi cha thấy nàng bập bẹ nói nhưng không thành tiếng:

- Miệng em hôn lên anh, hôn lên miệng anh. Làn môi anh riết lại mạnh mẽ như thể đang nún làn môi em!

Nàng cũng dừng lại. Nàng liếc mắt nhìn cha Rentería và nàng thấy cha ở xứ xa như thể cha đứng ở phía sau một tấm kính mờ hơi ẩm. Lập tức nàng lại nghe thấy tiếng nói ở bên tai mình:

- Miệng con đầy bọt dãi. Con nhai những mẩu đất đầy dòi bọ. Những sâu bọ này làm tổ nơi cuốn họng con và chúng cắn gây ngứa ngáy nơi hàm ếch... Con nhai, nhai hoài đến nỗi sái quai hàm, miệng méo xệch đi, do đó răng cứ cắm thủng miệng. Mũi mềm nhũn ra. Nước mắt cạn kiệt. Tóc cháy trong một đám lửa rừng rực.

Susana yên lặng khiến cha hoảng hốt. Cha những muốn dò đoán những suy tư của nàng và những muốn được tận mắt xem trận chiến đấu của nàng nhằm rũ bỏ những hình ảnh mà cha đang cố cấy vào trong tâm tưởng nàng. Cha nhìn vào mắt nàng và nàng lại nhìn cha. Rồi cha dường như nhìn thấy môi nàng mỉm một nụ cười.

- Vẫn còn thiếu nữa. Hình ảnh của Chúa. Ánh sáng dịu dàng trên thiên đường mông lung vô biên của Người. Hạnh phúc của các tiểu thiên sứ và ca khúc của các thiên sứ tối cao. Niềm vui trong ánh mắt Chúa để lộ rõ hình ảnh cuối cùng và thoáng qua của những kẻ bị kết tội vĩnh viễn. Và không chỉ có thế mà còn là tất cả những thứ đó hòa trộn trong một nỗi đau thế tục. Tủy xương của chúng ta bị biến thành lửa cháy và mạch máu chúng ta biến thành những đường lửa, tất cả những thứ đó khiến chúng ta rút ra những bài học đau thương khôn cùng. Đó là những nỗi đau không khi nào thuyên giảm nhưng luôn luôn bị cơn giận dữ của đấng Chí tôn khiến cho nóng bỏng hơn.

“Anh ấy ôm lấy ta trong vòng tay của mình, cho ta niềm say đắm mặn nồng.”

Cha Rentería đưa mắt nhìn những người đang đứng xung quanh mình, cha đợi giây phút cuối cùng đến. Đứng ngay cạnh cửa là Pedro Páramo, người đang khoanh tay trước ngực im lặng chờ đợi. Bên cạnh ngài là bác sĩ Valencia. Bên cạnh hai người này là một số vị khác đứng. Xa hơn một ít trong bóng tối là đám đàn bà đứng đang đợi chờ vào phòng để cầu nguyện cho người quá cố.

Cha định bụng đứng dậy mà xức dầu cho người ốm và nói: “Ta đã làm xong lễ ban Thánh thể”. Nhưng không, cha vẫn chưa kết thúc lễ ban Thánh thể. Không thể ban phước cho một người đàn bà một khi chưa nắm được người ấy có chịu sám hối không.

Cha đâm nghi ngờ. Có thể nàng chẳng có gì để mà phải sám hối. Cũng có thể là cha chẳng có gì để mà tha tội cho nàng. Một lần nữa cha lại cúi xuống, lay lay hai vai nàng, rồi nói nhỏ:

- Con sẽ đi đến nơi Chúa có mặt đấy. Và con nên nhớ rằng sự phán xử của Người sẽ tàn nhẫn đối với những kẻ có tội.

Rồi sau đó cha lại ghé sát tai, nhưng nàng lắc đầu nói:

- Cha hãy đi đi! Xin cha đừng khổ sở vì con nữa. Con đã được bình tâm và hiện đang buồn ngủ.

Tiếng khóc nức nở của một trong số những người đàn bà trong bóng tối bỗng bật lên. Thế là Susana San Juan lấy lại sức sống. Ở trên giường, nàng vươn dậy và nói:

- Justina, vú em làm ơn hãy đi ra chỗ khác mà khóc nhé.

Sau đó nàng cảm thấy đầu mình cắm phập vào bụng mình. Nàng cố rút đầu ra khỏi bụng; cố nghiêng cái bụng ấy sang một bên kẻo nó bịt mất mắt mình, và làm mình nghẹt thở. Nhưng một khi nàng càng cố giãy giụa bao nhiêu thì nàng càng chìm sâu vào đêm đen bấy nhiều.

- Tôi đã thấy Doña Susanita chết.

- Bà nói gì thế, Dorotea?

- Điều ta vừa nói xong.

Vào lúc bình minh, tiếng chuông đổ hồi đánh thức dân chúng dậy. Đó là buổi sáng ngày mồng tám tháng Chạp. Một buổi sáng xám màu chì. Trời không rét nhưng ảm đạm. Những quả chuông ở nhà thờ lớn gióng giả vang lên mở đầu cho bản nhạc những tiếng chuông ngân vang. Chuông các nhà thờ khác cũng vang lên cùng hòa điệu. Một vài người tưởng rằng chuông gọi họ đi dự lễ misa buổi sáng và họ đã bắt đầu mở cửa nhà mình, những người này vốn đã thức đợi cho đến khi chuông nổi lên báo cho họ biết rằng đêm đã hết. Nhưng tiếng chuông lại kéo dài quá mức cần thiết. Bây giờ không chỉ chuông nhà thờ lớn đổ hồi mà chuông nhà thờ Máu của chúa Giêsu, chuông nhà thờ Cây thập tự xanh, chuông nhà thờ Trang nghiêm cũng đua nhau đổ hồi. Đã trưa rồi mà chuông vẫn không dứt hồi. Đã tối khuya rồi mà chuông vẫn không dứt hồi. Ban ngày và ban đêm, tất cả các tháp chuông trong vùng, quả nào cũng như quả nào, đều rung ngân những tiếng binh boong, binh boong, và ngày càng rung càng mạnh hơn những tiếng binh boong, binh boong cho đến khi chúng trở thành một tiếng kêu than vang vọng những âm thanh. Những người đàn ông phải nói như gào mới nghe được điều mình muốn nói. “Cái gì đã xảy ra vậy?”, bọn họ hỏi lẫn nhau.

Tất cả mọi người đều điếc đặc trong suốt ba ngày liền. Họ không thể nào nói với nhau trong khung cảnh những tiếng kêu u, a lèn chặt bầu không khí. Nhưng chuông vẫn cứ đổ hồi, đổ hồi và đổ hồi. Một số quả chuông đã bị rè tiếng nhưng vẫn cố phát ra những âm thanh nghe như tiếng chum chĩnh.

- Doña Susana đã chết!

- Chết? Ai chết?

- Bà vợ!

- Vợ ông hả?

- Vợ ngài Pedro Páramo.

Tiếng chuông ngân không dứt lôi cuốn dân chúng từ mọi miền háo hức kéo đến. Như đoàn người hành hương từ Contla kéo đến. Cả những người ở xa hơn nữa cũng lũ lượt kéo đến. Một gánh xiếc với những người leo dây và những chiếc ghế bay cũng kéo đến và không ai biết họ từ đâu đi đến. Những nhạc công cũng kéo đến. Thoạt đầu, như những kẻ ngơ ngẩn họ đến gần, nhưng ngay lập tức họ hòa nhập vào đám đông bởi vì lúc ấy vang lên những khúc nhạc chiều. Rồi cứ thế đám đông ồn ĩ biến thành một ngày hội. Comala lúc này đông nghịt người, vui nhộn và ồn ĩ, y hệt như trong những ngày hội lớn đến nỗi người ta phải vất vả lắm mới len chân trên các đường làng.

Chuông thôi không đổ hồi nữa, nhưng cuộc vui vẫn tiếp tục. Không có cách nào nói cho họ hiểu rằng đó là chuông nguyện hồn người chết, không có cách nào để có thể làm họ tự bỏ đi. Trái lại dân chúng còn kéo nhau tới đông hơn nữa.

Nhưng Media Luna thì ngược lại. Media Luna cô đơn. Media Luna im lìm. Người hầu đi chân đất. Họ không dám nói to tiếng. Họ đưa đám Susana San Juan. Nhưng rất ít người ở làng Comala biết được việc này. Ở đó hội chợ vẫn mở. Dân chúng vẫn chơi chọi gà, vẫn đánh bạc, vẫn nghe nhạc và vẫn say sưa rượu chè tràn cung mây. Ánh lửa của làng ấy chiếu sáng tới tận đây như thể ánh mặt trời chiếu lên nền trời xám màu ghi. Bởi vì đối với điền trang Media Luna những ngày đó là những ngày ảm đạm và buồn bã. Don Pedro không nói không rằng. Ngài ở lì trong phòng. Ngài thề sẽ trả thù Comala.

- Ông mà khoanh tay lại thì Comala sẽ chết đói.

Quả nhiên, ngài đã làm đúng như vậy.

Anh chàng Tilcuate vẫn đến thăm ngài:

- Bây giờ chúng con là quân đội của ngài Carranza [17].

- Được.

- Chúng con chiến đấu dưới quyền của tướng Obregón[18].

- Được lắm.

- Ở đây hòa bình đã được lập lại. Chúng con được cho giải tán.

- Gượm đã nào. Anh không được phép bắt quân mình hạ vũ khí. Tình hình này sẽ chẳng kéo dài được mãi. Anh nghe rõ chưa.

- Cha Rentería đã vũ trang nổi dậy. Chúng con đi theo ông ta hay phải chống lại ông ta ạ?

- Điều đó sẽ không được thảo luận. Anh hãy đứng về phía chính phủ.

- Nhưng chúng con là những người khác thường. Người ta coi chúng con là những kẻ bạo loạn.

- Thế thì anh hãy đi mà nghỉ đi.

- Với cái sức bay nhảy mà con đang có hay sao?

- Thế thì anh hãy làm theo sở thích của mình vậy.

- Con sẽ theo vị cha cố đáng