Chương 1 BẾN CẢNG NỮU ƯỚC
Tàu thuyền phi vèo vèo ngang trời, đường sá ngập thành sông, dây điện nổ như pháo bông và nhà cửa của những con người đang kêu gào kia thì bị thổi tốc thẳng ra biển - hôm đó là ngày 21 tháng Chín, thời điểm xảy ra Siêu Bão năm 1938. Toàn bộ bờ biển từ cảng Nữu Ước đến Maine bị giáng một đòn xây xẩm đến mức trở thành huyền thoại, bảy trăm con người ướt như chuột lột đi về miền cực lạc.
Hồi đó, con không được báo trước đâu. Con sẽ để ý thấy trận bão phía trên mặt nước và lo lắng không biết đám mây đó tệ đến đâu khi ngọn gió báo tử và mưa ập tới, rồi con sẽ cuống cuồng chạy để giữ mạng. Cây cọc bến tàu mà tấm thân khẳng khiu ngày ấy của chú cố bám víu vào bị hất tung lên trời. Khi tỉnh dậy, chú thấy mình đã nằm trong hào, một gã lang thang nào đó đang giật đôi bốt cao bồi của chú. Thấy chú đội mồ sống dậy, hắn rít lên rồi bỏ chạy. Bằng cách nào đó chú vẫn còn nguyên vẹn, có điều bầm giập, người đầy máu, mỗi hai dây nịt quần là sứt mất. Khi những người sống sót bắt đầu hò hét kêu cứu hoặc kêu xe tang, chú quẹt mấy vệt máu đã khô khỏi mặt mình, vịn vào hai ống quần, rồi gắng gượng dậy. Bến tàu khi nãy đã bị thổi bay cùng với Cuz, thằng anh họ bốn đời của chú. Chú tìm thấy hắn ta giữa những mảnh xác tàu hổ lốn, bị một cột buồm đâm xuyên người. Nhìn chú không bảnh hơn ai ngay cả trước khi cơn bão quét ngang -một thằng nông dân quá khổ với gương mặt vừa sắm thêm mấy vết thẹo và cái cổ khoe ra vết bớt cỡ củ khoai lang làm quà ở hội chợ bang - nhưng chú bảo đảm chú nhìn đỡ hơn Cuz. Chú có thể nói rằng mình may mắn, nhưng chú vẫn chưa nếm mùi may mắn nhiều đến mức mà phán được. Chú có thể nói rằng hôm đó là ngày đen tối nhất trong cuộc đời mình, nhưng nó vốn đã không phải vậy rồi. Chú chỉ có thể nói thê này. Chú chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ tận mắt chứng kiến một trận bão như vậy lần nào trong đời.
Nhưng chú đã sai.
Vì thứ mà con không ngờ tới nhất giữa nào là mấy chiếc tàu phơi bụng, nào là những tòa nhà bốc cháy, nào là xác người lủng lẳng và tiếng còi hú là một cặp hươu cao cổ.
Chú ở đó chưa đầy sáu tuần, bụi bặm từ trận Bão Cát vẫn còn phủ đẩy hai lá phổi của một thằng oắt cục súc như chú - và kệ bà má sợ Chúa của chú đi, đó chính là chú, thằng nông dân cục súc, đơn thuần như cứt bò, gian xảo như heo rừng, và từ lâu đã nhẵn mặt ông cảnh sát trưởng, từng lớp bụi phủ kín hơi thở chú rồi, lấy đầu ra chỗ cho Thánh Thần mà truyền chút hơi thở. Bến tàu ma chê quỷ hờn của Cuz là nơi neo đậu của chú sau khi Thập niên Ba mươi Dơ bẩn quét ngang vùng Cán Xoong Texas, thô bạo đến mức xóa sổ toàn bộ nông dân thuê đất và lĩnh canh trong phạm vi mấy dặm. Một số người như má, ba và em gái nhỏ của chú ra đi trong đau đớn, mổ đã xanh cỏ. Một số người thì lên đường tới California cùng với dân Okie*. Số còn lại, như chú, tìm đến bất cứ người bà con nào sẵn sàng thu nhận. Người thân duy nhất còn lại trên đời này của chú là một người lạ hoắc ở Bờ Đông tên Cuz, có lẽ cũng chỉ là cha căng chú kiết nào đó của thằng nhóc mười bảy tuổi vùng Cán Xoong thôi. Nhưng lại còn phải trơ trọi trên cõi đời, trở thành trẻ mồ côi giữa vùng đất hoang và đào huyệt cho tất cả những người thân yêu của mình mà không còn một ai có thể giúp đỡ trừ ông cảnh sát trưởng - và chú cũng không có gan nhờ vả vì những lý do chú chẳng thể thổ lộ.
Ngồi cạnh mộ của má, ba và em gái, chú nhìn đêm trở thành ngày. Người ngợm còn dính bết thứ bụi bặm chết chóc đã giết cả nhà chú, chú đào hũ tiền xu bằng thủy tinh của má chôn dưới mảnh vườn héo úa rồi mắt ráo hoảnh mà loạng choạng tiến về phía xa lộ. Không nhờ bác tài đường dài dừng xe lại để hỏi chú đang định đi đâu thì chú cũng không phát hiện ra mình bị câm mất rồi.
“Mày là dân Okie hả?”
Chú cố gắng trả lời. Miệng chú không thốt ra được chữ nào.
“Câm rồi hả, nhóc?” Bác tài hỏi.
Vậy mà chú vẫn không phun ra được chữ nào. Bác ngó chú lom lom, xỉa ngón cái về phía chiếc giường còn trống phía sau xe rồi lát sau thả chú xuống ga tàu Muleshoe… ngay đối diện văn phòng cảnh sát trưởng. Chú đợi chuyến tàu kế tiếp đi về hướng Đông, lấm lét nhìn về phía cửa văn phòng ông, biết rằng mình không thể trả lời những câu hỏi mà ông chắc chắn sẽ hỏi nếu thấy chú, và vừa lúc con tàu rời bến thì ông cảnh sát trưởng bước ra để nhìn thẳng vào mặt chú, còn chú nhìn thẳng lại ông.
Trong lòng bồn chồn qua từng ga tàu sau đó nhưng chú cũng đi được tới Chattanooga bằng tiền của má.
Từ đó, chú nhảy lên một toa tàu chở hàng, nhìn thấy vài kẻ lang thang xô thằng cha kia khỏi tàu sau khi ăn cắp giày của gã. Rồi chú cướp một chiếc mô tô và chạy đến khi hết xăng, ăn cắp thức ăn dọc đường như một con chó hoang, đến khi bị một thằng du thủ du thực cầm dao lam bén giật mất một mớ. Bởi vậy chú phải quá giang đến tận nơi Cuz ở, với cái cổ họng khát khô. Khi Cuz hỏi chú mày là thằng chó nào vậy, chú đã phải dùng một hòn than mà viết lên nền đất bến tàu, khiến hắn ta đằng hắng: “Chắc tao gặp phải một thằng câm rồi, mày là họ hàng bên đó của tao mà,” rồi giao việc cho chú làm ngay để đổi lấy bữa ăn đêm. Suốt bốn mươi ngày đêm câm lặng, chú coi cái túp lều ẩm mốc sau lưng bến tàu là nhà. Giờ tới cái lều chú cũng không còn nữa. Không còn ai đi tìm chú và không còn ai vừa mới chết để chú khóc than, Cuz đã chứng tỏ mình là một thằng cặn bã máu lạnh đến mức chú đã lên kế hoạch cướp tiền của hắn rồi bỏ trốn cho rồi.
Nhấc hai ống quần khỏi mớ đổ nát từ cơn bão, chú lảo đảo đứng dậy bên những gì còn sót lại của người đàn ông mà chú phải băng hết nửa nước Mỹ để đi tìm, rồi sờ soạng quanh cột buồm đẩy máu để lục tìm trong túi áo của Cuz. Khi không còn tìm thấy thứ gì ngoài bàn chần thỏ may mắn của hắn, chú bắt đầu dùng toàn bộ nỗi uất hận về cơn bão kia để đá hắn, mạnh đến nỗi chú tự đá mình khỏi câm lặng - chú đã đá và nguyền rủa Cuz, bầu trời xám xịt, đại dương đen ngòm, không khí thối tha, Chúa Jesus yêu dấu của má và Chúa Cha Toàn Năng ác độc của ổng - đến khi chú trượt chân và té ngửa, lưng tiếp đất, hai mắt hướng lên bầu trời đang rả rích. Nhờ vậy, sự dồn nén bên trong chú vỡ òa và chú nằm đó khóc như cách một đứa trẻ lạc loài nên khóc.
Cuối cùng, chú gắng gượng đứng dậy, chân mang bốt, chú cột túm quần mình lại bằng một sợi dây thừng sũng nước và thơ thẩn trở lại bến tàu.
Chú ngồi đó, hoàn toàn chìm trong nỗi bất hạnh, nhìn từng con tàu lừng lững tiến vào cảng.
Đến khi chú thấy cặp hươu cao cổ.
Trên bến, một tàu vận tải bị bão quật tan tành đang bốc dỡ hàng. Chú không nhớ mình đang nhổm dậy hay di chuyển. Chú chỉ nhớ mình đang đứng giữa đám nhân công mặc đồng phục quần yếm màu xanh, nhìn trân trối. Trước mắt chú là một cặp hươu cao cổ đang nằm dưới móc cần cẩu toòng teng vừa mới bốc dỡ tụi nó như thể bốc dỡ mấy cái lốp xe. Một con còn sống và lảo đảo bên trong chuồng gỗ đã sứt mẻ nhưng đứng vững, đầu của con thú khổng lồ thò ra khỏi chuồng sừng sững, còn con kia, không còn sinh khí, đang sóng soài theo chiều ngang bến tàu, chiếc thùng gỗ giờ đã bể nát xung quanh tấm thần nó, nhìn như một chiếc phong cầm. Hồi đó, đâu ai biết nhiều về hươu cao cổ, nhưng trước khi có bão cát lúc còn học ở trường, chú đã từng thấy một bức hình của nó, nên chú có thể nhìn thứ kì diệu này mà liên tưởng ngay đến cái tên. Nhìn nó nằm một hồi lâu, chú dám chắc hai mắt mình đang nhìn xác của một con hươu cao cổ đã lìa đời… đến khi cái xác ấy mở to một con mắt màu nâu như vỏ táo để ngước nhìn chú. Và ánh nhìn chết chóc ấy, một cách quen thuộc, khiến sống lưng non nớt của chú lạnh toát.
Chú rành tụi động vật này lắm. Một số thì làm việc cùng, một số thì vắt sữa, số khác thì ăn thịt, không thì bắn, vậy thôi. Từ đầu con đã biết mình không nên kết bạn với con heo nếu không thì cha con sẽ sớm bắt con phải cảm ơn Chúa vì cái ân huệ được ăn mọi thứ trừ tiếng eng éc của nó. Ngay cả khi cho một con chó hoang ăn thì con cũng sẽ bị quất mấy roi vì làm tổn hại đến nguồn thức ăn của gia đình. “Mày bị gì vậy hả? Nó chỉ là động vật thôi mà!” Ba chú luôn nói vậy. Không có chỗ cho sự yếu hèn như thế nếu không phải một thằng nhóc bận tã, kể cả khi có phải nướng thây dưới địa ngục thì thằng hai cẳng xấu xa nhất cũng hơn bất cứ con vật bốn chân vô hồn nào - chú được dạy đại khái thế. Vấn đề là mỗi khi nhìn trân trân vào mắt một con vật, chú cảm nhận được thứ gì đó có hồn hơn ở bất cứ người nào mà chú từng biết, và thứ chú nhìn thấy trong mắt của con hươu cao cổ đang nằm sóng soài kia khiến chú tê tái tận xương tủy. Con mắt nó đã thôi cử động và trở nên tái nhợt như những đôi mắt động vật chú đã thấy nhiều lẳn trước khi ba quyết định sẽ thịt, chôn hay thiêu chúng. Chú chồm tới gần hơn, chờ đợi mấy người thủy thủ, mặt mày như chết rồi, đẩy chú về nơi mình thuộc về.
Thay vì vậy, đột nhiên họ lại tránh đường hệt như khi Moses rẽ nước Biển Đỏ đục mờ.
Một chiếc xe tải mới tinh bóng loáng trờ tới trước mặt tụi chú, có cả một dụng cụ bằng gỗ kì khôi gắn vào thùng xe hở không mui, cái thứ chắc hẳn sẽ khiến Rube Goldberg khoái trá. Hình thù như một chữ T mập bè, nó trông giống một toa hàng hai tầng tự chế ngồi phịch xuống choán hết chiều dài bệ thùng xe, với mấy cái cửa sổ dọc theo nóc, cửa sập dọc theo sàn, và một cái thang thấp được đóng đinh ở mỗi phía. Chú nhảy khỏi lối đi khi tài xế - một gã lơ ngơ có đôi tai trông như hai cái bông cải và tóc nhiều sáp Dapper Dan đến độ tra cho một cái động cơ còn đủ - thắng gấp chiếc xe.
Cửa ghế phụ toan mở, và một người đàn ông già nua thô ráp có gương mặt của con la bước ra. Chú vẫn luôn gọi ông như thế suốt bao nhiêu năm qua - “Ông Già” - nhưng ngay giờ phút này đây khi chú đang viết, già hơn chữ già, chú dám đem cả nông trại ra mà cá rằng ông ấy chỉ hơn năm mươi một chút. Ông mặc một cái áo khoác nhàu nhĩ, một chiếc sơ mi vàng đã ố và một chiếc cà vạt ngốc nghếch. Một trong hai bàn tay ông trông thật xương xẩu, và trên đầu ông đội một chiếc mũ phớt cũ sì như thể nó bị giẫm lên nhiều đến nỗi nó cũng quên mất mình được vuốt phẳng hay bóp phồng ở chỗ nào.
Đóng cửa cái rầm, ông dường như đang tiến đến chỗ ông trưởng cảng với râu dọc theo hai quai hàm, tay ông này có vẻ đang vẫy vẫy hai bức điện tín. Kệ xác, Ông Già nện từng bước đi ngang mặt ống trưởng cảng, sải chân đến chỗ mấy con hươu cao cổ như thể không biết đến sự tồn tại của bất cứ sinh vật nào trên bến tàu ngoài hai kẻ khổng lồ trước mặt.
Thoạt đầu, ông đến gần chiếc thùng gỗ dựng đứng nơi con hươu đực đang đứng lảo đảo và bắt đầu thì thầm với nó như trao đổi điều bí mật gì. Con hươu đã chậm lại. Ông Già thò tay vào nhẹ nhàng vuốt ve nó và nó cũng thôi chao đảo. Hạ người xuống ngồi xổm cạnh con hươu cái đang nằm sóng soài, ông lại bắt đầu thủ thỉ thứ ngôn ngữ dịu dàng của hươu cao cổ. Nó bắt đầu run rẩy. Ông luồn tay qua mấy thanh gỗ đã bể nát để chạm vào nó và khi cô hươu cái hãy còn nằm im như chết, ông bắt đầu vuốt ve cái đầu to tướng của nó bằng bàn tay xương xẩu đến khi nó nhắm nghiền mắt. Trong phút chốc, âm thanh duy nhất còn sót lại là tiếng thở phì phò nặng nhọc của nó và tiếng Ông Già rì rầm trên nền tiếng sóng vỗ về bến cảng. Rồi ông trưởng cảng hùng hổ bước tới để dí hai bức điện tín dưới mũi Ông Già.
Ông Già ngó sơ qua rồi vứt thẳng ra đất, một sự cuồng nộ mà chú biết quá rõ hiện trên gương mặt ông - ông cũng biết tức giận.
Ngay sau đó, thuyền trưởng bước ra từ lều của trưởng cảng, bộ đồng phục rách toạc và gương mặt bầm tím, và những bộ quần yếm xung quanh đều quay về phía ông như một thể thống nhất.
Ông Già lườm thuyền trưởng. “Ông làm chết con hươu cao cổ của tôi à?”
“Ông à,” trưởng cảng cắt ngang, “một người trong số bọn họ phải bỏ mạng ngoài kia rồi, giờ có thể toàn mạng trở về là đã phước đức lắm, còn nói chi tới mấy con vật quyền quý của ông, nếu ông thấy cần lời giải thích này.”
Gương mặt Ông Già lộ rõ là không.
Vì lẽ đó, mấy gã mặc quần yếm bắt đầu bực bội. Chú cứ tưởng họ sẽ nện ông một trận. Nhìn vẻ mặt ông, chú nghĩ ông cũng muốn thế.
“Chúng tôi đem nó về đây rồi…,” một giọng nói vang lên, và con dường như có thể nghe được những chữ còn vướng lại giữa thinh không: Giờ thì cứu nó đi, thằng khốn.
Tay Ông Già còn đặt trên cái đầu to tướng của con hươu gục ngã, bất động.
Khi những tiếng cằn nhằn ngày càng lớn hơn, một chiếc xe tải nhỏ bít bùng lõm mấy vết rầm rập chạy tới chỗ chiếc xe đầu kéo đậu trên đường, dòng chữ hiện trên cửa bạc màu tới nỗi chú chỉ đọc được chữ “Sở thú”. Một cậu trai thư sinh đậm người, chải chuốt mặc áo blu trắng ôm túi bác sĩ nhảy ra khỏi xe. Anh ta sải bước ngang mặt tụi chú như thể đang đi nghỉ mát, rồi tiến đến chỗ Ông Già.
“Mình phải để nó đứng dậy ngay, không thì nó sẽ chết,” vị bác sĩ sở thú nói thế thay cho lời chào, Ông Già ra hiệu cho trưởng cảng, rồi trưởng cảng huýt sáo gọi hai anh bốc vác bến tàu đang cầm xà beng, bắt đầu cạy cái chuồng gỗ bể bao quanh con hươu cao cổ đang nằm ngoắc ngoải. Nhưng như vậy với Ông Già vẫn chưa đủ nhanh. Ông bắt đầu tự tay kéo những mảnh nẹp gỗ tan nát ra, bằng bàn tay xương xẩu. Khi không còn thứ gì để cạy nữa, chiếc móc cần cẩu - vẫn còn xung quanh những mảnh gỗ nằm dưới cơ thể và bốn chân nó - căng ra, hò hét như thể nó là cần cẩu bằng xương bằng thịt rồi kéo cô hươu cái đứng thẳng. Khi nó loạng choạng, những cái quần yếm vội vã chạy lại cạnh chú, tiếp một tay để giúp Ông Già giữ nó đứng yên. Giật mạnh một cái, mọi thứ đã được dựng đứng hoàn toàn, còn cô hươu cao cổ được móc kéo vụt một cái đã đứng được ba trên bốn chân, một cách dữ dội, khiến mọi người đều giật nảy mình lùi về sau, trừ Ông Già.
Và kia rồi. Chân sau bên phải của nó, từ đầu gối đến phần khuỷu trên móng, trông như thể ai đó đã lấy chiếc búa thợ máy mà nện vào. Nó lảo đảo, gắng gượng mà đứng trên ba chân khẳng khiu của mình.
“Yên nào… cô bé… yên nào…,” Ông Già thủ thỉ trong lúc anh bác sĩ sở thú thăm dò khắp cơ thể nó.
“Cơ quan nội tạng của nó có vẻ không hề hấn gì,” anh nói. “Cái chân này nói lên tất cả.”
Chú đã nghĩ đó là tin tốt lành đến khi nhớ lại có lần người ta bắn chết mấy con ngựa còn đỡ tả tơi hơn thế.
Mở chiếc túi đen ra, anh bác sĩ rửa sạch, đóng nẹp và quấn băng quanh chân, rồi lùi bước để những người bốc vác buộc mấy tấm chắn vòng quanh nó. Khi đã xong xuôi, Ông Già, vẫn còn thủ thỉ ngôn ngữ của loài hươu cao cổ, vươn tay và gỡ bộ đai cần cẩu.
Cô hươu cái lảo đảo. Rồi nó cũng tự đứng được.
Thấy thế, Ông Già và anh bác sĩ sở thú bắt đầu nói nhanh và hạ giọng. Chú nhích lại gần.
“Nhưng nếu tôi từ chối nó vì lí do sức khỏe thì cũng đồng nghĩa với việc tuyên nó án tử, anh biết mà!” Ông Già nói.
Vị bác sĩ sở thú nhăn mặt quay lại nhìn chiếc xe đầu kéo với toa hàng hình chữ T. “Anh hi vọng chặng đường tới đó mẩt bao lâu?”
“Hai tuần nếu tranh thủ được.”
Vị bác sĩ sở thú lắc đầu. “Tốt hơn hết là giảm còn phân nửa đi.”
Ông Già vung tay. “Sao mà tôi làm được chứ? Chúng ta phải đi chậm - thậm chí chậm hơn bây giờ vì cái chần đó!”
“Tôi nói tối đa một tuần bởi vì cái chân đó. Ông nên bắt đầu nghĩ cách đi.”
“Được thôi. Rồi sao?”
Quay lại liếc nhìn mấy chiếc còi hú từ xa, anh chàng bác sĩ sở thú nổi đóa. “Tiếp tục kí tên xác nhận cho cả hai chúng nó đi. vẫn chưa muốn làm bà Benchley thất vọng à? Ta còn khoảng thời gian cách li để xem con hươu cái non này toàn mạng hay không - nếu ta may mắn tới nơi. Nhưng mà, Jones à, nếu tôi là ông, tôi sẽ kể bà Benchley hết sự thật, rằng cho dù con cái có còn sống trước khi khởi hành đi chăng nữa thì khả năng cao là cả chặng đường dài vẫn sẽ đốn quỵ nó. Hay hơn nữa thì nói cho bà Benchley biết ngay bây giờ thay vì chờ đến khi ông ngồi vắt óc suy nghĩ nên làm gì với một cái xác hươu cao cổ giữa đường.”
Lúc vị bác sĩ sở thú rời khỏi, Ông Già đi chầm chậm tới chỗ trưởng cảng và kí vào vài tờ giấy. Rồi cần cẩu quắp lấy hai cái thùng vá chùm vá đụp và quẳng đôi hươu cao cổ qua tấm đỡ hàng của bến cảng, nơi mấy tay bốc vác cột ghì chúng xuống. Và thế là những chiếc quần yếm nhí nhố tản ra, Ông Già vỗ lên mui xe đầu kéo báo hiệu cho bác tài nhỏ bé đang trèo vào buông lái rằng đã đến giờ khởi hành, và chú chứng kiến tất cả rời đi - hai con vật to đùng như bước ra từ sách truyện ở bên kia địa cầu nằm trên khung sàn với chiếc xe đầu kéo kéo lê phía sau.
Chú nhìn chằm chằm vào phía sau của đôi hươu, biết rằng cái giây phút chú thôi không nghĩ về bọn chúng cũng là lúc chú buộc phải trở lại số phận của một thằng nhóc bị bỏ rơi. Những điều kì diệu của giống loài khác không có chút nghĩa lý gì nếu con vẫn còn phải làm việc để sinh tổn. Khi những chiếc xe tải trở nên nhỏ dần, tương lai lang thang khốn cùng của chú lại lớn dẩn, lớn dần. Chú hít một hơi thật sâu. Xương sườn chú rung động mạnh, và khi những chiếc xe tải tiếp tục nhỏ dần khuất tầm mắt, chú sắp ói tới nơi.
Cảm thấy có gì đó đang bẹp dí dưới gót đôi bốt của mình, chú nhìn xuống. Chú đang đứng trên mấy tờ điện tín mà Ông Già đã vứt trên bến tàu ướt nhẹp. Lượm chúng lên, chú đọc thật nhanh và nhớ mọi thứ.
Tấm thứ nhất:
Còn tấm thứ hai:
Hai tấm điện tín ướt nhẹp tan thành bột và rớt khỏi tay chú. Nhưng hai mắt chú vẫn còn nhìn thấy một chữ sáng bóng cuối cùng - cái chữ mang ý nghĩa như bước ra từ trang sách hơn cả hươu cao cổ cho một cậu trai xứ Bão Cát như chú.
California.
Cặp hươu cao cổ đang hướng về miền đất của sữa và mật. Moses và Chủng tộc được Chúa lựa chọn cũng không thể khao khát Miền Đất Hứa hơn dân làm nông khố rách áo ôm khao khát “Cali”. Ai cũng biết là con chỉ cần tìm cách tới nơi mà không bỏ mạng dọc đường hoặc trên tàu, thì con sẽ sống như một vị vua hái trái ngọt từ trên cây và ăn nho ngọt từ trên giàn.
Ai mà lại có thể mất dấu hai con hươu cao cổ được chứ?
Chú thấy hai mắt mình lồi bự ra như cái ý nghĩ trong đầu vậy. Chú ướt nhẹp một cách khổ sở, một mắt hơi sưng phù, hai cái răng lung lay, xương sườn rung lên liên hồi như cái trống vỗ và một cánh tay thì cũng hơi xi cà que. Nhưng có hể hấn gì. Bởi với một chữ sáng bóng nhảy múa trước mắt mình, chú đã có thứ mà không đứa mồ côi vùng Bão Cát nào có thể dính líu tới. Dù chú đang sống ở cái thời mà khả năng một việc như thế sẽ giết chết con cũng bằng với khả năng nó cứu sống con - chú vẫn có một tia hi vọng le lói.
Cặp hươu cao cổ bẻ cua và mất dạng.
Vì vậy chú bắt đầu chạy, bắn nước văng tung tóe và cứt đái cũng tung tóe theo nhanh hết mức mà cái xương cốt rệu rã của chú có thể chịu nổi.
Hết hơn một cây số rưỡi, chú chạy theo những mảng đá cuội để đuổi theo bọn hươu cao cổ. Mấy anh công nhân dọn đường trố mắt nhìn đến rớt cả xẻng. Lính cứu hỏa đang nắm hai cánh tay của một cái xác mà lôi ra khỏi miệng cống cũng phải dừng lại để há hốc miệng. Thợ đường dây đang làm việc với dây điện treo toòng teng cũng ngưng xèo xèo để nhìn trân trối. Hết tòa nhà này đến tòa nhà khác, những người mụ đi vì cơn bão thò đầu ra khỏi cửa sổ mà í ới bè bạn cùng ra xem, còn chú thì cứ tiếp tục chạy phía sau mấy chiếc xe đầu kéo chậm rì, không biết bọn chú sẽ đi về đâu hay làm gì tiếp theo. Ở lối ra Đèo Hà Lan đã bị bít kín, những chiếc xe đầu kéo ngừng lại, vừa đúng lúc một anh cảnh sát đi mô tô rú ga đến nơi, lớn tiếng gọi các bác tài đi theo anh lên khu phố trên, dù rằng đường đó có các tuyến đường sắt trên cao mà mấy cái chuồng hươu cao kều phải lom khom chui qua - rất nhiều là đằng khác.
Tới tuyến đường sắt trên Đại lộ Số Chín, một người đàn ông trên chiếc xe kéo khung sàn nhảy ra khỏi buồng lái, một tay cầm gậy, vén bớt một sợi dây điện nghe xèo xèo và đo đạc phần còn trống.
“Cỡ ba li” - anh chàng nói vọng lại. Khung sàn trượt chậm rãi bên dưới.
Xe đầu kéo lại di chuyển tới tuyến đường sắt kế tiếp cách đó vài ba khu phố. Một lần nữa người đàn ông cầm gậy nhảy xuống. “Hơn sáu li,” anh ta thông báo.
Nhích tới hai căn,
“Gần một phân ba!”
Tụi chú tiếp tục đi, hết chỗ này đến chỗ kia, nhích từng chút một xuyên qua thành phố, phút trải dài thành tiếng đồng hồ. Sông Đông vẫn đang khiến những con đường kề cận ngập sâu và một nhà máy ở lưng chừng đang bốc cháy, nên anh cảnh sát giữ cho tụi chú đi theo hướng Tây. Tụi chú lướt qua Công viên Trung tâm, hơn chục con người rầu rĩ và mấy đứa trẻ rách rưới giương to mắt há hốc miệng nhìn theo đôi hươu cao cổ đi ngang qua từ dưới những tấm ván và lối dành cho người đi bộ như thể đang dõi theo một giấc mơ. Tụi chú lại tiếp tục đi, đến khi cầu George Washington ở ngay trước mặt. Anh cảnh sát dẫn tụi chú đến New Jersey. Chú hoảng hồn. Chú không thể chạy bộ lên cầu được.
Bên kia đường, chú thấy một gã nào đó nhảy xuống xe mô tô phía trước cửa hàng và chạy vội vào, chỉ trỏ hai con hươu cao cổ, cái cỗ máy đó rớt thẳng xuống vỉa hè trũng nước như một chiếc xe đạp rẻ tiền. Nó chưa kịp chạm đất là chú đã vòng chân quanh nó rồi. Chú liếc chừng tay cảnh sát đi mô tô ban nãy, rồi khởi động con ngựa sắt hai lần, nó hết trượt qua trái rồi qua phải như một con ngựa bất kham phóng vọt lên trời - và chú bám chặt nó.
Đến khi đuổi kịp tụi hươu cao cổ trên cầu thì chừng sáu chiếc xe hơi của cánh kí giả không biết từ đâu xuất hiện, chạy xen kẽ với chú, mấy tay săn ảnh đu người ra khỏi cửa xe, bóng đèn máy chụp hình nhá sáng trên nền trời âm u.
Ở phía bên kia, hai cảnh sát New Jersey đi mô tô tiếp nhận cuộc hộ tống, cố né đống hàng hóa bị cơn bão đánh dạt vào bờ, đến khi hai chiếc xe đầu kéo to đùng cùng tới một con đường mòn cạnh bên kho hàng bỏ hoang và dừng lại trước một tấm biển treo trên hàng rào: KHU CÁCH LY KHI ĐẾN HOA KỲ. Phía sau hàng rào là hàng loạt những khu chuồng trại xây bằng gạch lợp mái thiếc đầu hồi hút tầm mắt. Tụi chú đang ở khu cách ly liên bang, nơi các động vật nhập khẩu được kiểm định, từ bò cái và ngựa đến lạc đà và bò đực, còn bây giờ là hươu cao cổ.
Lúc chú bảo vệ vẫy hai chiếc xe tải to tướng ra hiệu vào lối này, đám kí giả đã ổ ạt xông vào cổng. Chú dừng lại bên một cây sồi bệ vệ bị bật gốc ven đường và vừa kịp tắt máy chiếc mô tô khi họ nháo nhào trở lại xe, trừ một chiếc Packard màu lục sang trọng vội đạp thắng dừng lại phía sau chú. Một kí giả mặc vest và đeo cà vạt với chiếc mũ phớt nghếch lên vừa phải bước ra từ ghế tài xế và tiến thẳng tới lều bảo vệ.
“Đợi ở đây nhé,” anh ta gọi với theo anh kí giả ảnh đang trườn lên mui chiếc Packard. Và rõi khung cảnh toàn bích và tuyệt hảo chợt bùng nổ trước mắt chú, nó lung linh tươi mới ngay cả giây phút này đây, trong trí nhớ của một ông già - vì anh kí giả ảnh kia lại là một cô kí giả ảnh.
Trẻ hơn nhiều so với tên kí giả chưng diện kia, tóc nàng xoăn thành từng lọn, một vầng dương dữ dội những sóng tóc cứng đầu mà chắc hẳn nàng đã phải đánh vật đến khi chúng chịu thua vào mỗi sáng, và nàng mặc quần - người phụ nữ đầu tiên ngoài đời chú thấy mặc quần. Nàng đứng ngay đó, chụp những bức ảnh trên mui chiếc Packard, người mặc chiếc sơ mi trắng nữ tính, giày hai màu và quần hai ống. chú đứng đó, cảm giác như vừa bị trận bão đánh gục một lần nữa. Nếu đây không phải là yêu từ cái nhìn đầu tiên thì chắc cũng là thứ gì rất giống như thế.
“Chào Cao Kều. Anh đến cũng vì hai con hươu cao cổ đấy à?” Tóc Đỏ nói, nhìn xuống chỗ chú bằng đôi mắt ấy, chỉ đôi mắt thôi đã có thể khiến chú chết điếng. Đó là đôi mắt màu nâu lục và chú hẳn đã nhích lại gần hơn vì say sưa trong đôi mắt ấy. Bởi khi nàng chụp một bức, nàng lại lấy ra một chiếc bóng đèn sáng đến nỗi có thể khiến người ta - và chú - đui mù.
“Lionel! Đến đây nhanh nào!” Chú nghe tiếng nàng gọi lớn.
“Này! Tránh xa cô ấy ra!” Tên kí giả hét lên, đẩy chú ra khi chú vừa chớp mắt một cái để lấy lại thị lực. Loạng choạng, chú bò ra khỏi đó.
“Anh làm vậy làm chi!” Chú nghe nàng nói khi đang núp phía sau cây sồi bật gốc. “Tôi tưởng anh muốn nói chuyện với cậu ta để viết bài, Kí giả Vĩ Đại ạ!”
“Trời đất ơi, Augie, tên nhóc đó chỉ là một thằng du côn lêu lổng sẵn sàng cắt cổ em để lấy mớ bạc lẻ. Đừng ngây thơ nữa - nó nhìn em đó,” tên kí giả đáp lại. “Đi thôi. Ông bảo vệ nói hai con hươu sẽ được cách ly trong mười hai ngày. Anh đã có đủ thông tin rồi, còn em cũng có đủ thời gian để làm tất thảy việc của mình mà không cần phải tiếp đãi mấy thằng bá vơ.”
Một phút sau, họ đi mất. Cảnh sát cũng đi mất. Đôi hươu cao cổ cũng đi mất. Và chú đang ở cách nơi quen thuộc gần nhất cả mấy cây số, đêm thì dần buông và chú hoàn toàn không biết mình sẽ làm gì tiếp theo.
Chú xếp gọn chiếc mô tô lại phía sau cái cây bật gốc, khom xuống để quan sát và chờ đợi gần xác một con bò. Khi chú vừa kịp đuổi bọn muỗi đang đánh chén nhân lúc chú lẩn lút thì chiếc xe tải nẹp xám của sở thú đã thắng gấp một phát nảy lên trước cổng. Lúc ông bảo vệ vẫy tay ra hiệu cho anh bác sĩ sở thú đậm người đi vào, chú bắt đầu lo lắng liệu cô hươu què kia có cầm cự nổi không. Chú quyết định tự vô mà xem.
Chợt thấy cái hang một con gấu mèo bỏ lại dưới hàng rào, chú nhét mình vào dưới đó. Sình bùn bám đây lưng chú. Chú hối hả chạy đến cái chuồng bự và cao nhất khi xe tải của sở thú, khung sàn chở hàng trống trơn và một vài thằng cha mặc bộ đồ làm việc bằng kaki thổ tả đang rời đi. Chú liếc nhìn vào. Chuồng núp trong bóng tối, mấy đống cỏ khô chất dọc theo chân tường. Bên trái là cái ghế bố, ở giữa là chiếc xe đầu kéo và bên phải là một khu vực dùng dây quây lại cao ngất ngưỡng đang giữ hai con hươu cao cổ. Cô hươu mang nẹp đã đứng vững. Cuối cùng cũng có thể ra khỏi thùng chứa, chúng đang mặt đối mặt, cọ vào cổ nhau, lượn đến gần nhau đến mức con không thể phân biệt được đâu là đầu và đâu là mình của bọn chúng. Như thể chúng không tin được mình vẫn còn sống và đang đồng tâm hiệp lực bảo vệ nhau để giữ được tình trạng đó.
Không thấy Ông Già - ông Riley Jones, theo như bức điện tín - ở đâu cả, nhưng gã tài xế đã kịp chộp một trái táo bự mọng nước từ buồng lái và đang dựa lưng vào thùng xe mà ăn. Chú chứng kiến gã từ từ nhai hết trái, rồi quăng lõi táo vào đống cỏ khô và chú ghi nhớ chỗ đó. Chú chưa ăn gì từ trước trận bão, nên dù là một cái lõi táo dính đầy nước dãi gớm ghiếc cũng còn tốt chán. Trong suốt thời kì Đại Khủng hoảng, bị đói là trạng thái tồn tại cơ bản, ít nhất là đối với hầu hết những người chú biết. Sau khi cơn bão cát giết sạch đám vật nuôi, người dân ở vùng ấy chỉ ăn cây thảo nguyên, rắn đuôi chuông và nấu xúp bằng cỏ lăn. Đời là khi con không biết lấy đâu ra bữa cơm kế tiếp - con chỉ là một thực thể hoang dại chạy theo cơn đói mỗi một phút giây trôi qua.
Dùng ống tay áo để lau miệng, gã tài xế ngờ nghệch khệnh khạng bước tới và khua hàng rào của khu vực được quây lại nghe lạo xạo, hù hai con hươu cao cổ, cười ha hả rồi lặp lại. Chú giậm gót giày, tay siết chặt nắm đấm, khao khát được đấm gãy răng cửa của gã dữ dội đến nỗi không nghe tiếng Ông Già quay trở lại, và khi phát hiện thì đã quá muộn. Chú phải trốn trong đó, chui rúc phía sau một ụ cỏ khô.
Ông Già đang hò hét ra lệnh cho bác tài, bước ngang qua chỗ gã. “Earl!” Ông Già thét lên. “Tới đây!”
Kế đến ông dặn gã tài xế đêm nay tìm chỗ khác mà ngủ rồi đẩy cánh cửa chuồng kêu ken két đóng sầm lại sau lưng gã… nhốt luôn chú ở trong này. Tự nguyền rủa bản thân ngu ngốc, chú định thần lại để đợi đến khi có thể tìm cách thoát ra mà không bị ai nhìn thấy.
Khi màn đêm buông xuống, những tiếng động duy nhất trong chuồng này chính là tiếng khịt khịt và lộc cộc của cặp hươu cao cổ. Ông Già đánh nhẹ tay đòn kim loại trên nẹp tường gần ghế bố của ông, lập tức mấy cái đèn điện bật sáng và cả khu vực ấy sáng như ban ngày. Còn chú thì rúm ró ở đó, không gì che chắn giữa tụi chú ngoài cỏ khô. Nếu quay nhìn chỗ chú, chắc chắn ông sẽ thấy chú. Nhưng ông chỉ để ý đến cặp hươu cao cổ. Ông nhìn ngắm tụi nó một cách trìu mến mà chú không thể tưởng tượng nổi ở một người đàn ông như ông, rồi bắt đầu thủ thỉ tiếng hươu cao cổ, êm dịu đến mức khiến chú an lòng. Khi ông dừng lại, chỉ còn tiếng khịt khịt nhè nhẹ của bọn hươu tràn ngập không gian. Ông kéo công tắc, đèn phụt tắt, và cả chuồng trại tối như hũ nút chỉ trừ ánh sáng le lói từ ngoài xuyên qua cửa sổ dây thép, khiến vạn vật đổ bóng khắp nơi. Ông Già nằm phịch xuống ghế bố và chẳng bao lâu sau thì ngáy lớn như máy cưa.
Dĩ nhiên, đó là cơ hội để chú lẻn ra. Nhưng còn vấn để là thứ nông sản kia đang chờ chú chộp lấy và chú phải lấy. Vì vậy, chú rón rén nhưng vội vã, chạy tới góc khuất của chiếc xe đầu kéo, bước lên bậc thềm xe, nghía thấy hai cái bao bố trên ghế buồng lái, một chiếc đựng táo, chiếc kia đựng củ hành ngọt. Lấy mỗi bao một thứ, chú nhét củ hành vào túi còn trái táo thì tọng vô họng ngấu nghiến, đúng hơn là nuốt chửng cả trái luôn.
Nhưng lúc chú thò tay lấy củ hành, chú lại cảm thấy ai đó đang nhìn mình.
Sẵn sàng cho một trận ẩu đả, chú ngoái lại và thấy mình đang có khán giả. Cách chú không tới chục bước, cặp hươu cao cổ đã nhích tới gần hàng rào chắn và tụi nó đều xoay cái cổ dài ngoẵng sang nhìn chú chòng chọc. Có nhiều điều có thể khiến cơ thể con đột nhiên đông cứng. Có hai con thú, mỗi con hai tấn nhìn tấm lưng con không chớp mắt từ phía sau hàng rào mỏng manh chắc hẳn nằm trong mấy trường hợp như thế. Chú lẽ ra nên lùi lại. Nhưng không, chú đã nhích gần hơn đến khi chú ở ngay sát bên chỗ nhốt tụi nó để xem xét mức độ đồ sộ của thân thể hai con thú - từ móng guốc khổng lồ đến thân mình to bè và tít, tít, tít trên cao đến tận hai cái cổ lốm đốm và cặp sùng u như cái bướu. Chú muốn vẹo cổ khi ngước nhìn sự đồ sộ của cặp hươu cao cổ ấy. Tụi nó hoàn toàn có thể đẩy sập khung hàng rào này , chú nhớ mình đã nghĩ thế. Nhưng tụi nó không làm vậy. Thực tế, cậu hươu cao cổ giờ đã nhắm mắt. Nó đang ngủ đứng giống hệt con ngựa cái nhà mình , chú nhận ra, nhăn nhó khi tìm về hồi ức. Tuy vậy, cô hươu cái vẫn đang ngó chăm chăm chú bằng cặp mắt nâu vỏ táo hệt như lúc ở bến tàu, chỉ khác là giờ nó đang nhìn xuống. Xuống thật thấp.
Con đã từng nhìn thẳng vào mắt động vật chưa? Động vật được thuần hóa sẽ soi mới con, xem con sắp làm gì và điều đó có nghĩa gì với nó. Động vật hoang dã có thể khiến con lạnh sống lưng, dò xét xem con là dành cho bữa tối hoặc để sinh tồn. Nhưng ánh nhìn của một con hươu cao cổ lại khác. Nó có vẻ không chứa đựng nỗi sợ, cũng không có ý đồ gì cả. Hai lỗ mũi bự như hai trái dưa lưới của nó vòng qua hàng rào dây thép mà khịt khịt trên đỉnh đầu chú và chú cứ để thế, đơn giản vì hai chân chú không còn nhúc nhích được nữa. Hơi thở của nó ấm nóng hôi hám, và nó làm tóc chú ướt nhẹp nước dãi hươu cao cổ. Rồi nó lấy mõm đụng mạnh vào hàng rào, cố gắng tiếp cận củ hành chú vẫn còn ôm khư khư. Chú quyết giữ chặt. Cái lưỡi dài của nó len lỏi qua hàng dây thép và giật lấy củ hành, nó nuốt một phát mạnh bạo, cổ rướn cao để miếng ăn trôi tuột xuống cái cổ dài ngoẵng. Rồi nó nhích lại gần đến khi mùi của nó vây lấy chú. Nó có mùi lông thú… và đại dương… và mùi phân chuồng ngoại quốc ngòn ngọt. Trước khi biết nó đang làm gì thì chú đã với tay qua lưới thép để chạm vào một vị trí bên mạn sườn sưng to tướng như đít bà ngoại nhưng lại có hình trái tim quay ngang.
Thời gian như ngừng trôi, tụi chú cứ đứng như thế, cảm giác thô ráp khi chạm vào lớp da ấm đẩy tràn lòng bàn tay đang vươn ra của chú - đến khi chú cảm nhận một cái lưỡi khác đang liếm ngón tay mình. Là cậu hươu đực đấy, chiếc cổ dài của nó duỗi bên trên lưng của cô hươu cái để chạm tới chú. Chú giật tay khỏi hàng rào dây thép và cái lưỡi nó cũng ráng với theo, thè qua hàng rào mà liếm láp túi quần ống túm của chú. Nó muốn lấy củ hành mà chú cất giấu. Thế nên chú lục túi để lấy cho nó - và thế là bàn chân thỏ may mắn của Cuz rớt theo, văng qua hàng rào dây thép rồi đáp xuống cạnh móng guốc bự chảng của cô nàng. Không phải nhờ cậu chàng khẽ đập lưỡi vào tay thì chú cũng không thể rời mắt khỏi cái bùa may mắn bị rớt mất của chú và cho nó chén sạch củ hành.
Lúc cặp hươu cao cổ vỗ bèm bẹp cái đuôi tỏ vẻ hân hoan vì mấy củ hành, mắt chú đảo lại chỗ chiếc chân thỏ của Cuz, nó đang nằm cạnh móng guốc của cô hươu cái. Với tất cả vận may có được, không màng tới cái sự “tốt số” của thằng cha Cuz chết ngắc kia, chú quyết tâm phải lấy lại cái chân thỏ.
Chui xuống phần hở của hàng rào, chú chắc rằng mình có thể chộp lấy nó thật nhanh gọn. Nào đâu, khi chú siết những ngón tay quanh lông chân thỏ thì Cô Gái Hoang Dã lết đôi móng guốc - và cái chân đau của nó đá vô người chú. Xoay cái đùi vĩ đại, nó dộng chú một cái trời giáng tới mức chú té mà còn nảy ngược lên. Chú lết lùi về sau, chạy thoát thân khỏi khu hàng rào. Khi quay lại liếc nhìn, cô nàng còn ra vẻ bị xúc phạm đến nỗi khiến chú không biết làm gì ngoài năn nỉ nó tha tội.
Ngay khi đó, Ông Già ngáy khè một tiếng lớn âm vang đủ đánh thức cả hạt và kéo chú choàng tỉnh khỏi cơn mê hươu cao cổ. Nhét cái chân thỏ vào túi, chú lảo đảo đi về phía cửa chuồng. Đi được nửa đường thì chú nhớ tới mớ nông sản miễn phí của gã tài xế, chết tiệt, chú phải đi lấy nó. Chú len lén trở lại buồng lái, hai tay đã ôm đầy hai túi thì chú phát hiện mình không còn nghe thấy tiếng ngáy của Ông Già nữa - chú nghe tiếng bước chân nặng nề của đôi bốt. Ông sẽ bắt chú ngay tại nơi chú đứng trừ khi chú bỏ lại hết đống nông sản và chạy.
Mà chú thì không định bỏ lại đống nông sản.
Bên tay trái, ngang eo chú, là một trong những cánh cửa sập của xe. Luộm thuộm với mớ đồ ăn của gã ngốc kia trên tay, chú giật mạnh một phát và, ngạc nhiên chưa kìa, nó mở ra rồi. Vậy nên chú xông vô, đáp thẳng xuống một ụ rêu than bùn, nông sản chôm được rơi vãi khắp nơi. Không còn thời gian đóng cánh cửa sập sau lưng, chú cứ đợi chờ giây phút bị nhéo tai lôi ra, tim đập như điên.
Nhưng không có gì xảy ra cả. Nghe tiếng Ông Già rủ rỉ thứ ngôn ngữ ngọt ngào của hươu cao cổ, chú nhè nhẹ đóng cánh cửa sập. Trong phút chốc, chú lại lần nữa nghe thấy tiếng đôi bốt của ông lê bước ngang qua, rồi tiếng ngáy lại vang dội và tim chú cũng đập chậm hơn. Ngấu nghiên tất cả đống nông sản kiếm được, chú dựa tấm thân rệu rã vào mớ bùi nhùi sau lưng để nghỉ ngơi chốc lát trước khi tìm cách lẻn ra ngoài lần nữa. Nhưng không, hai mắt chú lại tự động díu lại - không tài nào chống chọi được - ngày định mệnh thì cũng có cách riêng của nó.
Và lúc chú rơi vào trạng thái ngủ say như chết, chú chắc nịch là mình đã mơ rồi vì chú mơ hổ nghe được tiếng cặp hươu cao cổ rủ rỉ với nhau. Đó là những tiếng trầm trầm, rừ rừ, òn ọt hùmmmmmmmm… và nghe cũng dễ chịu như khi Ông Già nói tiếng hươu cao cổ.
NGÀY 22 THÁNG 9 NĂM 1938
CẶP HƯƠU CAO CỔ VƯỢT BÃO ĐANG CÁCH LYATHENIA, NJ - 22/9 (Số buổi tối đặc biệt). Cặp hươu cao cổ nhiệm màu sống sót qua cơn bão chết người ngoài biển khơi đã phải di chuyển qua những con đường ngập lụt và bị phong tỏa ở Manhattan hôm nay để đến được Khu Cách ly của Cục Công nghiệp Động vật Hoa Kỳ ở Athenia, New Jersey. Sau khi vượt qua thời gian cách ly, chúng sẽ đi xuyên quốc gia tới sở thú San Diego, theo chỉ thị của quý bà giám đốc lừng danh, bà Belle Benchley.
…“Trời sáng rồi, dậy di thôi! Tới giờ ăn sáng rồi nè.”
Ai đó đang xông qua cánh cửa sau lưng khiến chú giật nảy người, tay cầm viết thì run bắn đến nỗi tim muốn rớt ra khỏi lồng ngực.
Xoa xoa ngực, chú bắt đầu hét XÉO LIỀN vô mặt người hộ lý thì thoáng thấy Cô Gái Hoang Dã - cái cổ dài của nó có thể với tới cửa sổ tầng năm và nó đang thoi một viên đạn giấy tới chỗ chú. Há hốc miệng trưức kỳ quan không thực này, chú cảm giác tim mình thắt lại y hệt như hồi lần đầu tiên chú săm soi nó và Chàng Trai ở dưới cảng, và chú rất vui vì còn sống để cảm nhận nó một lần nữa.
“Tôi nghe nói tối qua ông hư lắm. Đấm vô cái ti vi à? Trời đất!” Anh hộ lý đang đứng đó trong bộ đồ tráng như bột cất lời. “Còn giờ thì ông trễ giờ ăn sáng nữa.” chú không ưa tay hộ lý đó. Thằng cha này cũng vuốt tóc bóng lữ bóng lương như gã tài xế Earl và nói chuyện với chú như thể chú khờ khạo lắm, còn giọng thì nghe chướng y như vết ngứa ở bẹn. Anh ta chỉ cách Cô Gái Hoang Dã chừng vài phân và chú lo anh ta sẽ làm nó kinh hãi.
“Không đi đâu,” chú nhanh miệng dáp.
Anh ta chộp lấy tay vịn trên xe lăn của chú. “Ông bắt buộc phải đi. Thôi nào.”
Chú bấu vào cái bàn. “Tôi không đi được mà, tôi quá trời…” bận , chú định nói thế, nhưng tim chú bỗng đập nhanh thịchhh và chú mém chút làm rớt cây viết chì.
Gã Đầu Bóng lùi lại. “Được thôi, được thôi.”
Nắm chặt vật bằng gỗ thần thánh ấy, chú liếc nhìn Cô Gái Hoang Dã, nó đang ném cho chú một cái nhìn đầy bất mãn. “Đừng nhìn tao như vậy mà,” chú nghiến răng. “Tao không dừng lại đâu, tao thề. Tao sẽ nói cho con bé biết hết mọi chuyện.” Chú nói, tay viết xuống giấy. “Thấy không, Cô Gái?”
“Cô gái nào?” Đầu Bóng hỏi trong lúc chú đang hí hoáy. “Đang nói chuyện với ai đó, bố yêu?”
Một gã hộ lý đang ở ngoài sảnh cũng chĩa mũi vào. “Cây sậy teo quắt đó đấm cái ti vi hả?” Anh ta thì thầm vào tai Đầu Bóng, nghĩ rằng chú không nghe được gì.
“Ừa, còn giờ thì ổng đang nói chuyện với người chết,” Đầu Bóng thì thầm.
“Anh tính báo cáo hả?” Giọng Nói Từ sảnh thì thầm lại.
“Không. Tất cả mình sẽ cùng báo cáo,” Đầu Bóng thì thầm tiếp.
“Cứ bắn tôi nếu tôi già tới chừng ấy,” Giọng Nói Từ Sảnh tiếp lời. “Nói cho mà nghe nè, anh không muốn ổng buồn quá đâm ra soi mới ca trực của anh đâu. Gớm ghiếc. Thằng cha kia làm vậy với tôi hôm qua. Kìa, ổng đang làm gì đó? Ổng đang viết như một gã khờ bị kích động ở bên kia kìa… Đợi đã, ông không phải đang viết những gì tôi vừa nói chứ hả?”
“Cậu nói đúng rồi đó!” chú nói, tay còn viết nhanh hơn trước.
“Thôi nè, thôi nè, bố ơi,” Đầu Bóng ngân nga, “mình cùng đi nha, được không?”
“Đóng cái cửa giùm!” Chú hét lên. “Tôi bị kẹt trong chiếc xe đầu kéo mà tụi tôi lại phải lên đường rồi!”