Chương 3 BĂNG QUA NEW JERSEY VÀ DELAWARE
Tụi chú lên đường.
Rong ruổi trên đường không vui vẻ gì cho cam. Nếu con là một đứa lang thang thì càng không. Không có gì đáng thương bằng một sinh vật lẽ ra không thuộc về chốn hoang dã mà lại lang thang. Lúc con chó hoang chạy tới nông trại vùng Cán Xoong của tụi chú, nó có cái vẻ mất-hết-tất-cả đáng sợ đến mức khiến người má Công giáo hiền như thánh của chú cũng phải đuổi đi. Má chưa từng nghĩ mình sẽ phải xua đuổi một sinh vật lang thang, và chú biết con muốn tin là mình cũng sẽ làm vậy. Nhưng hôi đó có hàng ngàn người như tụi chú, lang thang, xui xẻo và liều lĩnh. Lỡ con ở gần đường tàu thì sao? Hay xa lộ? Lỡ nhà con bị đánh dấu là ngôi nhà của một tín đồ Công giáo bác ái hay Roosevelt với trái tim đầy thương xót để rồi mấy đứa ăn bám hôi hám và lũ trai hoang cứ gõ cửa nhà con tối ngày sáng đêm? Con sẽ khóa cửa rồi đóng rèm lại à? Con sẽ giấu con cái trốn trong nhà à? Nếu lỡ một gã lang thang huơ một cái lưỡi lam hay mảnh thủy tinh trước mặt kẻ cạnh tranh miếng ăn đang trốn trong bụi rậm nhà con thì sao? Con sẽ gọi cảnh sát hay túm lấy cây súng hoa cải?
Con sẽ không nhớ về những ngày đó đâu - chú mừng là vậy. Chú đã cố gắng quên mình từng là một thằng nhóc lang thang chạy tới chỗ Cuz như thế nào. Chú chỉ còn một chút nhân tính sót lại sau vài ngày thê lương, và khi thời gian dần trôi chú lại càng ít bận tâm về điều đó hơn. Khi cái bao tử teo tóp của con lên cơn đau vì đói, con sẽ quên béng đi trái tim cũng đói meo. Và con tiếp tục quên nó mỗi ngày một chút đến khi con chó hoang cũng còn có phần trái tim và tâm hồn sót lại nhiều hơn con.
Rồi thì bản thân những con đường nữa. Cái mình gọi là xa lộ thật ra còn chưa xứng đáng để chuyên chở con người huống chi là hươu cao cổ. Hai tuyến “xa lộ xuyên lục địa” chiếm vị trí độc tôn đến nỗi chúng có cả tên riêng - xa lộ Lincoln và xa lộ Lee - và tụi chú không gần đường nào trong hai cái đó cả. Hầu hết những tuyến đường nối các thị trấn với nhau chỉ có vỏn vẹn một gã ở trạm xăng chỉ con hướng đi đúng hoặc sai-một-li-đi-một-đời. Suốt thời Đại Khủng hoảng, cố gắng duy trì thêm tí nào nữa đôi khi có nghĩa là tự chuốc khổ vào thân - mà chú lại đang định tránh như vậy bằng cách đi theo cặp hươu cao cổ.
Vì vậy, mặc dù lẽ ra nên run rẩy khi nghĩ về việc phải lên đường lần nữa, chú thấy cũng ổn thôi miễn là chú có thể thấy chiếc xe đầu kéo. Tuy vậy khi mặt trời mọc, xe bắt đầu chao đảo. Cứ như thể là bọn hươu bị ánh nắng làm cho sợ hãi, không biết đứng ở đâu trong cái địa ngục mới cáu của mình, tụi nó thọc đầu ra thụt đầu vô, phía sau xe cứ lảo đảo và đung đưa, có lần thậm chí còn nhấc mấy cái bánh xe hồng khỏi mặt đường cao tới mức chú tưởng xe lật rồi và chúng đã tự kết liễu mình trước khi tụi chú bắt đầu. Dù vậy, Ông Già bắt đầu hét vào mặt Earl đến khi chiếc xe chậm dần, chỉ còn nhích nhích, cặp hươu lấy lại thăng bằng, và lúc đó mới sóng yên biển lặng.
Nhờ vậy, hai ông cảnh sát chạy mô tô có thể bắt đầu mở đường cho tụi chú băng qua cả chiều dài New Jersey.
Dần chúng ở thành phố đầu tiên ngạc nhiên quá, tất cả những gì họ có thể gom góp lại được trước khi tụi chú đi mất chỉ là vài tiếng cười hô hố vì bọn xoắn cổ gà gật.
Dù vậy, đến thành phố thứ hai, người ta có vẻ biết rằng cặp hươu sắp tới. Chiếc xe đầu kéo được xe cảnh sát tuần tra chào đón ở ranh giới địa phận thành phố. Khi mấy anh cảnh sát và chiếc xe nhích từng chút một như rùa bò băng qua, chú thấy mình như đang ở giữa một cuộc diễu hành đột xuất. Xe hơi và xe đạp rải rác phía sau. Những người đàn ông già nua ngồi ghế đầu, trên bậc cầu thang và bên hiên nhà gỗ một tầng vẫy vẫy tay. Các chị em phụ nữ mặc đầm ở nhà đứng trên hành lang và bề bổng em bé lên xem. Thị dần xếp hàng chạy dài suốt vỉa hè và đang cầm trên tay mấy tờ báo, một cậu nhóc chạy theo cứ vẫy vẫy một tờ trước mặt chú, nên chú giật luôn, vừa để xe tiếp tục lăn bánh vừa liếc ngang trang nhất. Dù lúc đó chú không để tâm lắm, tiêu đề trên cùng đúng là bất hủ:
HITLER DỪNG BƯỚC -
“HÒA BÌNH CHO THỜI ĐẠI CỦA MÌNH”
Giờ nhớ lại tiêu đề đó, chú không khỏi rùng mình. Bài báo đang nói về Hiệp định Munich, nghe như một thứ mà không ai nhớ trong sách giáo khoa, nhưng cả thế giới sẽ sớm rành rọt về nó. Hitler đã chiếm được Áo và giờ đang muốn một phần Tiệp Khắc, hứa hẹn sẽ trả lại hòa bình nều hắn có được thứ mình muốn. Phe Đồng minh bị dọa chết khiếp nên giao nộp tức khắc, tin tưởng chuyện cổ tích trên chót lưỡi đầu môi của một thằng điên. Nhưng ngày đó, ở bên kia trái đất, chú nghĩ về chuyện đó thế nào nào? Không mảy may bận tâm về Adolf Hitler, chú lật sang trang kế và ngay đó là bài báo mà ai cũng đọc rồi trừ chú:
CẶP HƯƠU CAO CỔ CƯỠI BÃO ĐÃ LÊN ĐƯỜNG
Chú tấp vào lề để đọc, nhưng không đọc gì hơn cái tựa. Bởi mắt chú liếc thấy một hình ảnh khiến chú làm rớt cả tờ báo và xoay hẳn đầu về sau - một chiếc Packard màu xanh lục. Nó đây, ở ngay kế chú, có cả Tóc Đỏ ló đầu ra khỏi cửa sổ để chụp hình và tay kí giả đang cầm vô-lăng. Lúc tụi chú bỏ lại thị trấn phía sau, chú cứ đinh ninh rằng nó sẽ tách đoàn rồi mất dạng lần nữa, cũng như trước kia, nhưng nó cứ đi theo mãi.
Vậy nên bầy giờ chú cũng đang đi theo nó.
Tụi chú tiếp tục như thế cả buổi sáng như thể đang nương theo nhịp điệu nào đó: nông trại yên tĩnh, những kẻ quá giang chết lặng, thị trấn nho nhỏ, cảnh sát địa phương, những cuộc diễu hành đột ngột và những thị dân hân hoan hò hét í ới hệt nhau:
“Thời tiết trên đó thế nào hả?”
“Tôi đang thấy đốm ngay trước mắt đây!”
“Cầu thấp kìa!”
Rồi, không một lời cảnh báo, các anh cảnh sát New Jersey đi xe phân khối chào Ông Già lần cuối rồi biến mất theo hướng họ đã tới khi nãy. Tụi chú tới ranh giới địa phận bang. Mọi chuyện cũng tốt cả, có điều ranh giới bang là một con sông và không có cây cầu nào bắc sang bờ bên kia cả. Có một chiếc phà. Một chiếc tàu. Chở tụi chú đi trên mặt nước. Và chuyện này không vẩn vơ chút nào, vì trước đó nước lớn đã muốn lấy mạng của cả chú lẫn bọn hươu cao cổ.
Nhìn Ông Già cũng không mấy vui vẻ gì về chuyện này. Lúc chiếc xe đầu kéo dừng lại ở bãi đậu, ông nhảy xuống xe và chặn cả cái hàng dài mọi người đang xếp đến khi có vẻ hài lòng với anh lái phà. Ông gỡ cái nón phớt dơ hầy, dùng mặt trong tay áo quệt ngang chân mày rồi quan sát anh lái phà hướng dẫn Earl chạy xe đầu kéo lên. Khi nó dừng hẳn, Ông Già đội nón trở lại, rít một hơi thuốc dài rồi bước lên phà. Lúc những chiếc xe khác đậu kín phía sau, chú chờ thời cơ. Rồi tay xát vào cái chân thỏ may mắn, chú hít một hơi thật sâu và dắt xe lên phà.
Khi khởi hành, không một người nào trên chiếc phà đó là không nhảy xuống khỏi xe của mình để ngó cặp hươu cao cổ. Cảnh tượng hai cái đầu hươu cao cổ bự chảng thò ra cửa sổ xe rọi bóng xuống mặt sông nhẵn nhụi khiến chú cũng lặng im, nghĩa đen lẫn bóng. Kì diệu biết bao. Thằng nhóc ồn ào trong chú ráng chống cự lại cảm giác ấm áp, nhưng chú nhớ giây phút đó thật diệu kì. Tụi chú đang băng qua sông Delaware cùng với bọn hươu và chú nghĩ tụi chú lẽ ra có thể làm thế mà không cần cái động cơ. Bình tĩnh nhất trong số tất cả tụi chú có vẻ là bọn hươu cao cổ rồi. Liệu rằng nước sông chảy êm quá đến nỗi tụi nó không nhận ra dưới kia là nước hay tụi nó đã làm hòa với cái thùng xe Pullman cũng không rõ, nhưng tụi nó đứng trên xe thật tự do và thoải mái.
Chú nhìn quanh để tìm Tóc Đỏ, hi vọng rằng nàng sẽ chụp vài tấm, nhưng chiếc Packard xanh lục không có ở trên phà. Nhìn trước ngó sau, chú quét mắt một lượt dọc theo bờ sông. Nó kia rồi, vẫn còn ở bãi đậu. Tóc Đỏ và thằng cha kí giả đang đứng trước mũi xe, và cảm giác ấm áp của chú trong phút chốc đã biến thành cơn cuồng nộ bởi cảnh tượng chú thấy tiếp theo.
Hắn vẫy tay ra hiệu về phía chiếc xe.
Nàng vung tay.
Hắn chộp lấy tay nàng lần nữa.
Nàng giật tay lại.
Hắn trở lại trong xe, đóng cửa cái rầm, chân nhấn ga, đợi nàng lên theo.
Nhưng nàng không làm thế. Ban đầu thì không.
Thay vì vậy, nàng quay mặt lại và nhìn chằm chằm vào cặp hươu.
Chú dò kĩ ánh nhìn của Tóc Đỏ lúc tụi chú dần trôi xa và xa hơn, gương mặt nàng chất chứa những thứ chú không hiểu được nhưng sốt ruột muốn nhớ trước khi nàng mất dạng. Chú chắc nịch rằng mình sẽ không bao giờ nhìn thấy nàng lần nữa… và chú dõi theo một hồi lầu kể cả sau khi chú không còn nhìn thấy màu xanh của chiếc xe lẫn màu lửa của mái tóc nàng.
Khi phà cập bến, mọi người đều tránh đường cho cặp hươu và chiếc xe đầu kéo của chúng, như thể Ông Già là vua nước Xiêm cầm báu vật đi qua để họ chiêm ngưỡng. Khi hai cái đầu hươu cao cổ đã biến mất sau bờ sông, không ai nhúc nhích cả. Bùa chú của cặp hươu cùng những chiếc phà và dòng nước cuồn cuộn khiến họ đứng yên như vậy hồi lâu đến mức chú thấy mình có nguy cơ không bao giờ thoát ra được. Luồn lách qua đám đông, chú rồ ga, sợ rằng mình sẽ mất dấu tụi hươu cao cổ, nhưng chúng đây rồi, hai cái đầu hươu nhô cao, đầy tự hào và không thể lẫn đi đâu được, và chú lại trở về với sự thong thả.
Không bao lâu sau, tụi chú băng qua một ranh giới bang nữa, cảm thấy nhanh như ranh giới hạt ở Texas. CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BANG MARYLAND, bảng hiệu đề như thế. Chiếc xe đầu kéo chạy chậm hơn nữa, con đường bẻ cong hết chỗ này tới chỗ kia, với nào là máy cày, xe bán tải, thậm chí là xe ngựa tấp ra tấp vào trước mặt tụi chú. Rồi sau đó đoạn đường đánh cua gắt và chiếc xe đầu kéo biến mất.
Tiếng động tiếp theo chú nghe được là tiếng rít chói tai của lốp xe… sau đó là tiếng rớt thụp ớn lạnh và tiếng hét đầy chết chóc. Da gà da vịt chú nổi hết cả lên, chú nhích qua khúc cua đó và những gì chú nhìn thấy khiến chú phải chạy đến lùm cây nơi hào nước để mà trốn. Chiếc xe đầu kéo dừng hẳn lại giữa đường, và thứ gì đó to lớn đang nằm kế cái chắn bùn bên phải, phân nửa vắt vẻo dưới hào. Chú chắc chắn là Earl gặp người xin quá giang rồi. Nhưng đó lại là một con chó hoang ghẻ lở, bự cỡ một con ngựa non, bộ đồ lòng phòi ra khỏi thân thể lông lá bê bết máu và nát bét của nó.
Ông Già ra lệnh cho Earl đứng yên tại chỗ rồi lấy khẩu súng trường ra khỏi kệ súng trên buồng lái và bước tới gần con chó. Ông nhẹ nhàng ngồi xuống bên con chó đang hấp hối, súng đặt trên đùi, trong lúc nó lên cơn co giật chết chóc. Khi những đợt thở hổn hển và co giật cứ tiếp diễn không ngừng, Ông Già đứng dậy và bóp cò. Lần này, giữa một cái co giật hổn hển đã diễn ra và một cái sắp sửa, con chó nằm bất động. Hạ thấp cây súng, Ông Già ngừng lại một chút. Sau đó, một lần nữa cúi thấp xuống, ông đặt một tay lên bộ lông của con chó đã lìa đời và cứ giữ đó, như thể ông đang giáng phước kiểu Ông Già cho nó vậy.
Nhìn cảnh tượng này, trong đầu chú lại hiện lên cảnh chú đang ở vùng Cán Xoong lái chiếc bán tải của cha thì đụng thứ gì đó màu vàng và thấy nó lộn nhào vào bụi rậm. Cha bước xuống để chửi rủa cái chắn bùn bị móp, và chú vừa lấy cây súng trường ra khỏi giá súng thì cha đã quay sang chửi chú rồi: Thằng con trời đánh thảnh đâm! Mày đi đâu vậy? Nếu nó là một con sói đồng cỏ thì mình bắn nó vì nó là sói đồng cỏ. Nếu nó chỉ là một con chó hoang thì không cần phải phí một viên đạn vì nó. Đừng có hành xử như thể mày còn bận tã nữa. Tụi nó chỉ là động vật thôi mà!
Phía trước, Ông Già nhổm dậy, nắm lấy một chân của con chó toi rồi kéo xác nó ra khỏi đường xe chạy. Bọn hươu đang dõi theo, hai cái đầu chui ra khỏi cửa sổ. Vậy nên ông trèo lên để vuốt ve cái cổ của tụi chúng, tiếng hươu cao cổ của ông theo gió nhẹ đưa đến chỗ chú, rồi ông trở lại buồng lái và chiếc đầu kéo lại tiếp tục, biến mất sau khúc cua kê tiếp. Chú nhẹ nhàng chạy chiếc mô tô ngang cái xác, để dành cảnh tượng này để ngẫm nghĩ sau.
Đến cua quẹo kế tiếp, chú lại có nỗi lo lớn hơn. Đồng hồ xăng trên chiếc mô tô gần như chỉ mức cạn sạch và chú thì một đồng bạc lẻ cũng không có.
Chú cứ chạy theo sau. Chú còn biết làm gì khác?
Chú thì tiếp tục chạy xe bằng khói mà mặt trời thì cứ lặn dần, tụi chú cũng gần đến một thị trấn có tên Conowingo, hằn in trong trí nhớ của chú vì nhiều lí do hơn là ầm thanh kì cục của cái tên này. Cầy mọc hàng dọc phía tay phải, con đường đổi hướng đến gần một khúc sông chảy xiết bên tay trái và dừng ở đó.
Có những tấm bảng:
CẦU MỘT CHIỀU, tấm thứ nhất thông báo.
CẦU NƯỚC CẠN, tấm thứ hai cảnh báo.
Chú còn không tin được. Họ định lái xe chở cặp hươu đi thẳng vào dòng sông thật sao?
Mặc kệ, chỉ sau một giây duy nhất, tất cả những thứ ấy không còn nghĩa lý gì nữa, vì đó là cái giây phút chiếc mô tô ừng ực, bình bịch và loảng xoảng rồi dừng hẳn lại.
Chú cứ siết cái tay côn mà nhảy lên nhảy xuống dộng lên cái van bướm như thể chú có thể bơm xăng vào xe bằng niềm tin, và chú cứ làm như vậy bất chấp mọi lí lẽ, khiến bản thần kiệt quệ.
Chú hít một hơi đầy gió, nhìn chằm chằm theo chiếc xe đầu kéo đang nhỏ dần, nhận ra, đau lòng như ai lấy dao đâm, chú đang sắp phải nói lời vĩnh biệt với kề hoạch California. Hết rồi , chú tự nhủ, nghĩ cách mà bán linh hồn chỉ để mình không phải vĩnh biệt gì hết - và bởi chú thấy bản thần còn chưa có gì quen thuộc với linh hồn mình, chú cũng phải giật mình vì ý nghĩ này.
Vậy nên, trong lòng vẫn nung nấu quyết tâm cháy bỏng làm-hay-là-chết có từ lúc trên bến tàu, chú bắt đầu chạy, lòng thầm nghĩ bản thân có khi sẽ chết vì chạy chứ không phải vì đứng nhìn hi vọng le lói vụt tắt cũng nên.
Nhưng rồi, ở bên đây cầu, chiếc xe đầu kéo chậm dần đến mức chỉ nhích từ từ và chú bắt đầu tự hỏi liệu chú đã rao bán linh hồn trộm cắp không đáng một xu của chú thành công rồi hay sao. Vì chiếc xe đầu kéo biến mất sau rặng cây đằng sau một tấm biển có ghi:
KHU CẮM TRẠI VÀ NHÀ GỖ DÀNH CHO TÀI XẾ RẼ VÀO ĐÂY
Nhảy trở lại lên chiếc mô tô, chú bắt đầu đẩy cái cỗ máy chết đơ ấy đến phía tấm biển, tim chú đập nhanh tới nỗi chú phải đớp lấy đớp để không khí.
Lúc chú đến cổng vào thì chiếc xe đầu kéo đang đậu gần văn phòng kiêm quầy thức ăn gồm tám cái ghế đầu được dùng để phục vụ bữa tối, theo như những tấm lưng chễm chệ trên mấy cái ghế cho chú biết.
Chú lẩn trốn để khỏi bị phát hiện, đổng thời cũng thấy Ông Già và ông quản lý xuất hiện từ bên trong. Ông quản lý chỉ đường, theo đó họ lôi cặp hươu đến căn nhà gỗ cuối cùng trong số vài căn nhỏ tí ở đó, mỗi căn chỉ vừa đủ cho một chiếc giường, rồi đậu chiếc xe kéo thùng Pullman dưới một tán cây sung dâu sum sê. Chú đẩy chiếc mô tô qua bụi rậm và lẻn ra sau một tảng đá để nhìn Ông Già mở nóc chiếc xe đầu kéo và hai cái mõm hươu bự chảng rướn lên để nhâm nhi ngọn cây sung dâu.
Đang nhai giữa chừng thì cả hai đều quay hai cái mũi khịt khịt về phía chú - như thể chúng đã đánh hơi thấy mùi non dại của chú trong gió vậy. Chú thụp xuống để không bị phát hiện, nhưng khi quay lại nhìn, chú thấy tụi nó vẫn còn làm thế. Mũi của Cô Gái Hoang Dã thậm chí còn đang xoay tới xoay lui, cứ như nó đang tận dụng để đánh hơi hiệu quả hơn. Chú chắc chắn là tụi nó sẽ khiến chú bị lộ, chú thụp xuống thật sâu sau tảng đá và ở yên tại chỗ đến khi chú nghe tiếng cửa sập bật mở và Ông Già ra lệnh cho Earl lấy nước cho bọn hươu. Chú có thể thấy móng guốc của tụi nó qua cửa sập. Gã tài xế đẩy xô nước vào cho Chàng Trai Hoang Dã thì không sao cả. Nhưng khi đẩy vào cho Cô Gái, móng của nó đánh bốp vào tay hắn mạnh tới nỗi hắn chửi thề rồi loạng choạng lùi về sau, khiến chú hả hê hết sức.
Sau đó, quyết tâm phải kiểm tra bằng được cái nẹp đã được quấn băng, Ông Già tự mình vần vũ với Cô Gái Hoang Dã. Ông chờ đến khi phần khuỷu trên móng đang bị nẹp đến gần khoảng trống, rồi thò tay vào. Nó đá. Ông né, nó lại đá, và ông đổ rầm trên bậc thềm xe để lườm Earl, hắn đang đứng cách xa đến mức sát rạt chú.
Đó là khi ông quản lý bước đến cùng với một đống bánh hamburger từ quầy thức ăn và kéo mọi người cùng tới. Lũ lượt phía sau là toàn bộ thực khách, bao gồm cả ông tài xề của một chiếc xe tải chở sữa sáng bóng đậu gần đường, ông cũng tặng thêm mấy bình sữa tươi để uống kèm với bánh hamburger. Cái bánh thơm phức khiến chú phát điên, nên chú phải lấy một củ khoai tây chú chôm được và ăn sống để khỏi làm chuyện gì dại dột. Khi ông quản lý đuổi mọi người đi khỏi đó, và chú biết cả nước sắp hay tin về cái thứ đang đậu ở khu cắm trại rồi. Mặt trời tiếp tục lặn thì cặp hươu cũng tiếp tục nhâm nhi lá sung dầu, nhưng bao lần đổi hướng gió, chúng vẫn cứ hướng cái mũi hít hà về phía chú. Vì vậy chú ở yên đó đến khi ánh sáng cuối cùng còn sót lại là từ cột đèn ngoài văn phòng soi chiếu qua những tán cây.
Len lén nhìn ra, chú thấy Ông Già vẫy Earl ra hiệu cho hắn vào nhà gỗ, rồi tù từ ngồi xuống bục lên xuống xe và tự lấy cho mình một điếu từ gói Lucky Strike. Việc ông có đủ tiền ra tiệm mà mua thuốc hút, thay vì tự quấn, cũng đã là một cảnh tượng đáng ngưỡng mộ trong con mắt trai quê như chú rồi. Thấy ông bật cái Zippo và châm lửa, chú đinh ninh rằng ai ở California cũng giàu như Rockeíeller, khiến chú càng đau đáu theo đuôi hơn. Chú nhìn chiếc xe tải chở sữa kia, mơ mộng về sữa nếu không có mật, và chú cắn thêm một miếng khoai tây, thầm hái nho ngọt tại một vườn nho Cali trong tưởng tượng của mình. Tìm một chỗ phủ rêu mềm mại dựa vào tảng đá, chú yên vị ngồi quan sát Ông Già hút hết điếu Lucky này tôi điếu khác, dùng mẩu thuốc vừa hút xong để châm điếu mới. Như thường lệ, chú sẽ không để mình lăn ra ngủ nếu chú chịu được, nên chú thức từ giờ này qua giờ khác với Ông Già, dùng thời gian để tính toán xem làm thế nào tiếp tục theo họ.
Bởi chú không giỏi tính trước cho tương lai, ý tưởng của chú cũng vớ vẩn… Chú có thể đổ xăng ngoài trước, nhưng trước tiên chú phải tìm một đồng xu hoặc một tờ một đô la trong túi của ai đó. Chú có thể lẻn lên một chiếc xe khác, nhưng mấy chiếc xứng đáng lẻn vô thì đã đi mất rồi. Cái xe duy nhất còn lại ở khu trại là chiếc xe tải chở sữa, mà vậy thì chú sẽ no bụng đó nhưng không hẳn là thứ phù hợp để mà trộm. Thời gian càng trôi qua thì các ý tưởng của chú càng trở nên bất lực và ngu ngốc hơn. Khi chú đang nghiêm túc nghĩ về việc nhảy lên phía sau xe đầu kéo như nhảy lên toa hàng tàu hỏa, chú đầu hàng.
Một lúc sau, Ông Già gọi Earl dậy để thay ca, ra lệnh cho hắn đóng nóc xe hàng lại, và rồi biến mẫt vào trong nhà gỗ. Earl cho một nắm thuốc lá vào họng rồi dùng cả hai tay để vuốt tóc. Sau đó, quên béng chuyện phải đóng nóc xe, hắn làm hệt như những gì chú lo sợ. Nhìn lần cuối về phía nhà gỗ của Ông Già, hắn rút bình chiết rượu bằng kim loại được giấu kĩ ra và bắt đầu nốc tì tì, cho cả ngụm chảy qua chất dịch thuốc lá, một kiểu kết hợp chỉ có bợm rượu mới mê nổi. Khi hắn đặt mình lên bậc thềm xe, cặp hươu cao cổ thò đầu ra khỏi cửa sổ, nhìn Earl một cái, rồi rụt vào tức khắc. Nhưng cũng phải là sau khi Cô Gái Hoang Dã khịt khịt cái mũi tổ chảng của nó về phía chú lần cuối.
Suốt một tiếng sau, chú nhìn Earl nốc ừng ực và khạc nhổ tới khi hắn ngoẹo cái đầu lặc lìa của hắn vào cửa xe. Thứ duy nhất giữ cho hắn còn ngồi thẳng là chất dịch thuốc lá, khiến hắn ho sù sụ - mà cũng có thể là kế hoạch ngu đần của hắn cũng nên.
Cuối cùng, khi hắn vật ra một bên, chú nghĩ chú nghe thấy tiếng cười khe khẽ đâu đó bên ngoài xe. Chú liền nhổm dậy. Từ trong bóng đêm, ba thằng vô lại xuất hiện, một thằng da thịt dính trên xương chắc gấp đôi chú, một thằng chỉ mặc độc một cái quần yếm, và thằng còn lại là một thằng còi với mái tóc như thể úp cái tô lên mà cắt. Sau khi bọn vô lại này húc cái thân hình đổ gục của Earl rồi phá lên cười dữ hơn, thằng lớn xác dùng khớp ngón tay gõ côm cốp lên thùng Pullman. Cả hai cửa sổ mở tung và hai cái đầu hươu cao cổ thò ra. Cả hai nhìn bọn vô lại một cái duy nhất, rồi như cảm nhận được gì đó, đều rụt đầu trở lại, hệt như tụi nó đã làm với Earl. Vậy nên thằng còi quyết định leo vào thùng xe để nhìn bọn hươu cao cổ qua cửa sổ. Tì một chân lên thằng vô lại lớn xác, nó trèo vô. Thằng còi cứ tiếp tục trèo trong khi hai thằng còn lại cười len lén.
Rồi mọi thứ trở nên tệ hại.
Rất tệ.
Cặp hươu bắt đầu giậm chân, khụt khịt và rung lắc chiếc xe đầu kéo dữ tới nỗi thằng còi té khỏi xe nhưng đã kịp trở lại nhanh chóng.
Đó là lúc chú thấy thứ mà thằng còi thấy và thứ mà cặp hươu đã biết từ lâu… nóc xe vẫn còn mở. Thằng còi đang nhắm ngay chỗ đó.
vẫn còn nghe thấy tiếng cha chú vang lên trong đầu ngoài mấy bài học sinh tồn đường phố, chú đứng trong bóng đêm, tay hết nắm thành nắm đấm rỗi lại thả ra. Chú là cái loại cộc trong sô mấy con sói đồng cỏ lẩn lút. Thậm chí khi tức điên lên, chú chưa bao giờ làm gì hơn là đấm và chạy, và mỗi lần vậy cũng không bao giờ đấu với hơn một người.
Lúc thằng còi trèo lên, nó lại lần nữa nện vào thân xe. Cặp hươu nghe thấy liền chui đầu ra khỏi cửa sổ và nhìn chằm chằm về phía chú bằng cặp mắt thất kinh và van nài.
Rồi thằng còi cũng trèo tới nóc.
Điều diễn ra tiếp theo gần như chống lại mọi nỗ lực thảm thương của chú để thấu hiểu. Không còn nơi nào để đi, không còn thứ gì để đá, và không còn ai có thể bảo vệ chúng, cặp hươu hẳn đã nghĩ tụi nó tiêu rồi. Bởi tụi nó phát ra một tiếng gào sởn gai ốc đến nỗi giờ nhớ lại chú còn thấy tuyệt vọng. Người ta nói hươu cao cổ không kêu. Nhưng chú có thể khẳng định với con là tụi nó có - và lần này là một kiểu rên rỉ, kêu rống và than khóc thể hiện sự kinh hoàng mà chắc hẳn hồi gặp bão tụi nó đã kêu như vậy. Nghe như tiếng kêu mà chỉ sư tử đang kề tận cổ tụi nó mới có thể nghe được. Chú lấy hai tay bịt tai lại, nhưng không tác dụng - âm thanh này khiến lồng ngực chú run rẩy, làm chú cũng có thể cảm nhận được nỗi kinh hoàng của bọn hươu như thể chú chính là chúng vậy. Chú không thể chịu thêm một giây nào nữa. Trước khi nhận ra mình đang làm gì thì chú đã phóng tới chỗ chiếc xe, né thằng lớn xác, đấm thằng quần yếm, và bằng một cú phi người, túm lấy chân thằng còi. Hai thằng dưới đất giờ lại túm lấy chần chú và kéo ra làm hai hướng như một khúc xương ước nguyện*. Nhưng khi chúng định ước một điều thì bọn hươu lắc mạnh chiếc xe và thằng còi té vào trong.
Rồi chú nghe ngoài tiếng gào rống của cặp hươu cao cổ là rất nhiều tiếng đá chân và tiếng rống của thằng còi - kế tiếp là một âm thanh chú đã nghe cả ngàn lần rồi. Tiếng lắc cắc của một cây súng hoa cải.
Ông Già đứng đó, bận đổ lót, súng chĩa thẳng.
Thằng còi trồi lên khỏi nóc xe như một chiếc tên lửa làm bằng chai nước, lũ vô lại lồm cồm bò về phía hàng cây để trốn, còn chú thì thụp trở lại tảng đá của mình vừa lúc súng ầm vang khắp khu rừng, khiến vạn vật sửng sốt đến im lặng, và nhẹ nhõm thật sự là bao gồm cả tiếng rền rĩ thất kinh của bọn hươu.
Nghe tiếng Ông Già nạp đạn, chú tự ép mình phải nhìn. Chiếc xe đầu kéo vẫn còn rung lắc, cặp hươu đang khụt khịt và giậm chần, còn Ông Già thì dí đầu súng hoa cải thọc sâu lên mũi Earl một đoạn.
“Mày đã ở cái chỗ khỉ mốc nào hả?” Ông Già hét lên.
“Ở ngay bên kia…” Earl lắp bắp. “Ông thấy tôi mà.”
“Tao hửi thấy mày luôn, thằng chó đẻ. Mày xỉn quắc cần câu!” Ông Già huơ cây súng hoa cải phía dưới một cánh tay và tìm thấy cái bình chiết đựng rượu. Chú cứ tưởng ông sẽ nện nó vào Earl. Nhưng thay vì vậy ông quăng nó ra xa vào màn đêm. “Thứ duy nhất thử thách sức chịu đựng của tao hơn cả một thằng nói dóc và một thằng ăn cắp là một thằng xỉn.”
Chân Earl bủn rủn hết. “Tui hồng có xỉn! Tui có thể cầm nổi chai rượu mà. Cả mấy chồng Kinh Thánh luôn!”
“Ngồi xuống lại coi,” Ông Già ra lệnh.
Earl ngồi xuống lại.
“Nếu tụi hươu cao cổ có mệnh hệ gì tại vì mày say xỉn, thề có Chúa tao sẽ bắn nát người mày. Rồi tao sẽ để bà Benchley bắn mày luôn,” Ông Già nói. “Mày nghe tao nói rõ rồi đó!”
Earl gật đầu, không dám nhúc nhích một sợi lông, chỉ là nhìn theo cái bình chiết rượu đã mất tăm đầy tiếc nuối.
Kẹp cây súng hoa cải dưới một tay, Ông Già trèo lên xe để dỗ tụi nó bằng tiếng hươu cao cổ đến khi tụi nó bình tĩnh lại. Tự đóng nóc xe lại, ông từ từ tiếp đất. “Chắc phải đi trước khi có thằng ranh bản địa nào lại xuất hiện nữa,” ông nói với Earl, hắn vẫn đang còn đứng chết trân. “Cho tụi nó uống nước trong khi tao mặc quần rồi lấy điện thoại gọi cho cảnh sát thị trấn đi. Đó là nếu mày nghĩ mày còn lái được. Nếu không, mày nên vắt giò lên cổ mà chạy mất đi hoặc tao sẽ nộp mày cho tụi cớm trước khi mày kịp kêu Jack Robinson đó thằng oắt.” Tay còn cầm súng, ông giậm đùng đùng trở về nhà gỗ.
Nghe nhắc tới cớm, Earl bắt đầu lảm nhảm. Giờ nhìn hắn có vẻ tỉnh táo vì sợ rồi. Bị dí súng vô mặt thì như vậy cũng phải. Nhưng hắn chứng tỏ rằng mình không phải vậy. Dù còn lẩm bầm, hắn đứng dậy và nhìn quanh để kiếm cái xô nước. Khi không tài nào tìm thấy, hắn mở cánh cửa sập của Cô Gái, dí mũi vô, và…
BỤP
… Earl kia rồi, té ngửa trên nền đất thành hình chữ đại, máu rỉ ra từ mũi hắn rồi chảy vào tai.
Ông Già chạy lại, một lần nữa lăm lăm cây súng, và rồi ông thấy Earl. Ông nổi đóa, trừng trừng nhìn xuống gã tài xế đang nằm im như chết, ông dùng đôi bốt để thúc hắn tỉnh. Earl không nhúc nhích. Thấy vậy ông để tạm cây súng dựa vào xe, nhấc xô nước của Cô Gái đang chễm chệ gân mấy bình nước, hứng nước từ một cái vòi gần đó, rỗi đổ hết lên người Earl.
Và rồi thằng ngố đó sống dậy.
Dùng cả hai tay bưng cái mũi dập của hắn, Earl lảo đảo đứng dậy để vừa thét vừa giậm thùm thụp vừa rủa. “Con hươu cao cổ đó muốn giết tôi!” Hắn gào, máu rỉ ra từ kẽ tay. “Nó đ-đạp gãy mũi tôi!”
Ông Già nhìn lại cánh cửa sập. “Hả, lỗ mũi mày làm cái khỉ gì ở đó? Lạy Chúa Jesus, Joseph và Mary, tao là cái thằng già ngu tới cỡ nào mới mướn mày hả?” Ông vừa nói vừa cầm cây súng hoa cải lên. “Tự xốc lại đi. Phải đi rồi.”
“Nhưng mà tôi choáng váng toàn thấy hai người…”
“Mày không có vậy.” Ông Già hướng mắt về phía hắn. “Mày phải lái cái xe đầu kéo này. Mày biết rất rõ là tao không lái được, mà tao với mày không được chậm trễ một phút giây nào nếu muốn con cái tới nơi mà còn sống. Mày nghe ông bác sĩ nói gì rồi đó.”
“Nhưng nó muốn giết tôi!” Earl rít lên.
“Nó sẽ không giết mày,” Ông Già chì chiết. “Nó đã có thể bổ đầu mày như bổ hạt dẻ nếu nó muốn rồi. Mày đã thấy nó làm gì tao rồi đó mà tao vẫn còn đứng đây.”
“Không, tồi bỏ việc!” Earl rống lên.
Ông Già huơ cây súng hoa cải như huơ một khẩu súng lục. “Mình đang ở giữa đường đấy, thằng chó đẻ đần độn này. Mày không được bỏ tụi tao mà chần nam đá chân chiêu như vậy. Giờ thì ngậm miệng lại đi.”
Earl ngậm miệng.
“Để cái đít vô dụng của mày xuống ghế mà ngồi lại đi.”
Earl để cái đít vô dụng của nó xuống ghế và ngồi lại.
Ông Già hạ súng. “Tao pha cho mày ly cà phê và lấy luôn vài miếng gạc. Mày sẽ ổn thôi hoặc ước gì mày ổn. Mày sẽ lái. Mày không có lựa chọn nào khác đâu.”
Rồi ông bệ vệ bước về phía văn phòng.
Dưới đường, đèn của một chiếc xe tải khác bật sáng. Đó là chiếc xe tải chở sữa, sẵn sàng lên đường. Lúc nó đang gầm gừ nổ máy, Earl quay ngoắt đầu lại, rồi một tay vẫn còn ôm cái mũi máu me, hắn phi một mạch về phía xe tải. Với tốc độ nhanh hơn so với những gì con có thể tưởng tượng được về một thằng đẩn bị hươu đá, chảy máu và ngà ngà say, hắn mở cửa xe chỗ ghế phụ và nhảy lên ngay khi xe vừa lăn bánh về hướng tụi chú đã đi vô. Mọi việc diễn ra trong chớp nhoáng, chú không nghĩ chú có thể chạy theo túm lấy hắn ngay cả khi chú muốn, mà đảm bảo là chú không muốn rồi.
Từ văn phòng Ông Già bước ra, hai tay cầm ly cà phê và mấy tấm bông gạc, súng hoa cải kẹp nách. Khi đến gần, ông nhìn chằm chằm vào vị trí Earl lẽ ra phải ngồi, không thể tin được là hắn không có ở đó. Nghe thấy tiếng cửa xe tải chở sữa đóng sầm khi nó lăn bánh ra đường, ông hẳn đã nhận ra chuyện gì đã xảy ra. Ông buông hết cà phê và bông gạc, vừa chạy theo chiếc xe vừa ngắm hờ súng hoa cải về phía chiếc xe tải đang chạy mất.
Chú chắc chắn tiếng động chú nghe tiếp đó là một tiếng súng nữa. Nhưng Ông Già dừng lại. Và nhìn chằm chằm. Súng hoa cải đung đưa. Dường như gã tài xế của ông biên mất chỉ cách ông vài phân. Khi vỡ lẽ sự tình, ông khạc nhổ ra đường như thể chỉ mỗi cơn giận này thôi là có thể triệu hồi Earl trở về trước mặt ông vậy. Ông bắt đâu đi tới đi lui, đất cát bay tung tóe, la hét những từ ngữ tục tĩu - “xin lỗi thằng chó đẻ ngu độn mặt dính cứt” là cụm từ còn có thể lặp lại được trong cái mớ đó - đến khi ông rảo bước trở lại chiếc xe đầu kéo, ngồi sụp xuống bậc thêm xe, bỏ cây súng hoa cải trên nền đất và đầu gục xuống hai tay.
Ông ngồi như thế một lúc lâu. Rồi cầm súng lên, ông đứng dậy, thẳng lưng và tiến về căn nhà gỗ.
Trong đầu lóe lên một ý tưởng, chú chạy một mạch đến chỗ chiếc xe đầu kéo. Có Chàng Trai và Cô Gái Hoang Dã chứng kiến, chú nhảy lên bậc thềm xe và chui đầu vào khoang lái để nghiên cứu hộp số xe, chăm chú một hồi lâu. Quá lâu. Khi chú nhảy xuống, Ông Già và họng súng đang chờ chú.
Chú giơ hai tay lên trời. “ĐỪNG BẮN!” Chú gào lên, tự khiến mình sợ hãi bởi chú chưa nói tiếng nào kể từ khi chú rủa và đá Cuz. “Tôi không chung với bọn vô lại! Là tôi đây. Nhớ không - ở chỗ cách ly?”
Hạ súng hoa cải xuống, ông liếc muốn lác mắt khi nhìn thấy bộ dạng của chú, đứng đó trong bộ đô giẻ rách bết dính sình lầy đã khô từ khu cách ly.
“Cái khỉ…,” Ông Già lẩm bẩm. “Mày đi theo tụi tao à?” Ông chuyên cây súng sang tay bên kia, và chú đã biết vì sao ông không lái được. Bàn tay xương xẩu chú để ý thấy từ hồi ở bến cảng là tay phải của ông. Tay sang số. Nên chú phun ra ý tưởng mới tinh đầy mạo hiểm của mình vốn vẫn còn đang thành hình khi vọt ra khỏi miệng chú. “Tôi có thể làm,” chú nói. “Ông không thể một mình đi xa như vậy với Chàng Trai và Cô Gái Hoang Dã.”
“Ai?”
“Cặp hươu cao cổ - tôi có thể lái xe tới Cali.”
Nghe vậy, ông nhướng một bên lông mày lên cao tới mức chú tưởng nó sắp bay mất rồi. “Ai mượn mày vậy? Cái khỉ gì khiến mày nghĩ tao sẽ cần tới mày?”
Chú hất cằm về phía con đường. “Vì tài xế của ông vừa mới cuống cuồng bỏ ông đi mất, lý do ở đó. Ông ơi, tôi có thể lái vòng tròn xung quanh bất kì ai mà không cần đạp thắng, thề có Chúa. Tôi không ngủ nhiều, tôi không phải là một thằng vô lại, và chắc chắn là tôi không say xỉn. Ông có thể tin tưởng tôi.”
“Tin tưởng mày? Tao còn không biết mày là ai nữa!” Ông Già nhìn bộ dạng thổ tả của chú từ trên xuống dưới, ngừng lại ở cái quần ống túm cột dây cũ sì mà chú được cho đang phủ hờ phần trên đôi bốt. “Chú mày mấy tuổi?”
“Mười tám,” chú nói dóc. “Tôi có thể lái bất cứ thứ gì miễn nó nhúc nhích, và tôi cũng là một thần đồng máy móc nữa, tôi chắc luôn.”
“Tao thấy mày cũng sắp nói với tao rằng mày cũng là thần đồng hươu cao cổ luôn, phải không?”
Chú hất cằm. “Hơn thằng tài xế của ông.”
“Sao mày nghĩ vậy?”
Chú trượt bàn tay mình vào túi quần. “Trước nhất, tôi biết mình không nên chĩa mũi gần móng giò động vật,” chú lại nói dóc, bản thân đã từng làm y chang vậy lúc ráng lấy lại cái chân thỏ của Cuz, và giây phút đó chú đã chà cái chân thỏ muốn trụi lủi.
Ông già ngó lơ chú. “Mày tới đây bằng cách nào?”
“Mộ tô.” Chú hất cằm về phía chiếc mô tô trong bóng tối.
Ông liếc chú. “Của mày hả? Tao chúa ghét mấy thằng ăn cắp với nói dối.”
“Tôi biết mà, không phải sao?” Chú đáp lời, chứng tỏ chú là cả hai thứ.
Một chiếc xe tuần tra đậu xịch dưới ngọn đèn văn phòng, và chú bước trở lại vào bóng tối.
Ông Già để ý.
“Đủ rồi,” ông gầm lên. Lại kẹp cây súng dưới cánh tay, ông đi lại chỗ chiếc mô tô án cắp của chú, thọc tay vào, và giật đứt một chùm dây điện, rồi rảo bước trở về phía chiếc xe đầu kéo. “Tao mà còn thấy mày lần nữa thì mày nên biết tao quen cảnh sát ở tất cả mọi thị trấn đấy, tao có thể nộp mày cho họ. Tao đoán là mày không muốn vậy đâu. Mà lạy Chúa Jesus, Joseph và Mary, mày lớn lên ngoài chuồng heo à? Đi tắm đi! Sông ở bên kia kìa. Mày thúi tới nhức mắt tao.” Trèo lên ghế tài xế, ông nhét cây súng trở lại giá. Sau đó, kéo sụp chiếc nón phớt tả tơi che lông mày, ông đẩy tất cả các số tới khi tìm được số phù hợp, khiến chiếc xe và cặp hươu nảy và giật một lúc trước khi di chuyển ra đường.
Ngồi thụp xuống đất, chú trừng trừng nhìn đống dây lòng thòng trên chiếc xe hết xăng của mình, bản thân cũng cạn xăng. Không ai có thể sửa xe được. Ít nhất là không phải chú. Chú không biết gì về máy móc ngoài việc đề một chiếc mô tô nhân dịp nó bị ăn cắp. Chú sẽ nói với Ông Già chú có thể khiến người chết sống dậy nếu chú tin rằng kể vậy có thể giúp chú được tiếp tục đi cùng họ. Và ý tưởng lớn lao của chú về việc lái chiếc xe đầu kéo? Theo cách nghĩ mà chỉ một thằng ngu non nớt mới nghĩ được, chú tin rằng chỉ cần có thiện chí thì có thể lái được bất cứ thứ gì có bánh xe. Đừng để ý đến việc chú chưa bao giờ lái thứ gì lớn hơn xe tải Mẫu T cũ mèm của cha. Và cũng đừng để ý rằng lần lái nó đi xa nhất của chú là hơn ba mươi hai cây số vào thị trấn trên xa lộ Cán Xoong thẳng tới mức bà ngoại bị cận thị cũng có thể lái được. Dù vậy, chú vẫn chưa nguôi giấc mộng California, và dù lúc đó chú vẫn chưa biết nhưng không con hươu cao cổ nào nguôi với chú cả.
Sự cứu rỗi khỏi bất cứ lằn ranh nào đều là vấn đề về mức độ.
Chú ngồi đó dựa lưng vào chiếc mô tô vô dụng, lắng nghe tiếng Ông Già đẩy cần số từ xa. Khi một trong các số đó kéo dài được một phút, chú thấy chóng mặt vì phải nhăn nhó mãi - và chú thấy mình đã nhấc mông rồi trở lại công cuộc làm-hay-chết. Khi kẻ nói dối trong chú thất bại, thằng ăn cắp trong chú vẫn chưa, nhưng nó không có cơ hội nào nếu chú không tiếp tục hành động. Một lần nữa chú chạy thục mạng bằng đôi bốt cao bổi, giậm thùm thụp để đuổi kịp cặp hươu, và ngạc nhiên làm sao, chú đang đuổi kịp bọn chúng. Trời vẫn còn tối om, cái kiểu tối ngay trước khi mặt trời mọc. Chú có thể thấy đèn xe cảnh sát thị trấn đang nhấp nháy bên kia cầu nước cạn. Nhưng đèn chiếc xe đầu kéo vẫn còn bên đây cầu. Ông Già vẫn do dự. Nhờ đèn pha của chiếc xe, chú có thể thấy nước đã ngập cầu, nhìn không khác một đống bê tông cốt thép ngập dưới suối cho lắm. Cặp hươu, thò hai cái đầu ra, đang lúc lắc chiếc xe, chắc chắn là sợ sệt vì tiếng nước chảy - đến khi chúng đánh hơi được chú. Cả hai cái cổ xoay xoay để nhìn theo khi chú lộp cộp đôi bốt nặng mà bước về phía tụi nó nhanh hết mức có thể. Chú chỉ cách có mấy bước nữa thôi thì Ông Già sang số. Chú ngó dòng nước rồi ngó sau lưng xe, một cách tuyệt vọng. Và khi con đã tuyệt vọng, con thậm chí sẽ thử cả cái kế hoạch đầy tuyệt vọng nhất.
Với sự chứng kiến của cặp hươu, chú chạy đà một hồi rồi phóng lên phía sau của xe đầu kéo như thể chú đang nhảy tàu hàng, và kịp bám được một chút khi chiếc xe dấn vào dòng suối, đôi bốt của chú vất vả lắm mới ở yên được trên cái hãm xung bị nước bắn tung tóe. Bằng cách nào đó, khi chiếc xe dằn xóc nghiêng một bên, chú vẫn còn bám được. Dù vậy, từng giây phút trôi qua, chú càng tuột tay, và cái cổ của bọn hươu thì dài đến nỗi chúng phải vòng cổ xuống quay về sau để xem, và việc này thì cũng không giúp gì được cho chú cả. Chàng Trai gần chú đến nỗi nó liếm tóc của chú luôn. Chú gần rớt khỏi xe khi đang cố gắng xua cái thứ phiền phức đó đi.
Lúc chiếc xe tiến vào thị trấn đang say ngủ và đôi bốt chú đang đấu tranh để bám lại trên một khoảng trổng nhỏ xíu, chú tìm kiếm một cái gì đó, gì cũng được, để chụp lấy trước khi chú rớt khỏi xe. Không có gì cả. Khi ánh mặt trời ló dạng, tụi chú vượt qua tấm bảng đánh dấu địa phận thành phố ở bên kia thị trấn, chiếc xe cảnh sát đã quay đầu để trở về. Chú phải nói là chú đã tuyệt vọng rồi. Tay chú sắp phải buông và đôi bốt chú cũng sắp rớt khỏi khoảng trống trên cái hãm xung. Chú phải một là trèo lên hai là rớt xuống. Trong tích tắc, chú sẽ té chổng gọng xuống mương và thế là hết, không còn gì nữa ngoài việc ôm vết thương mà nhìn chiếc xe cùng giấc mơ của chú đi mất mãi mãi. Vì vậy, mặc cho Chàng Trai Hoang Dã không được tích sự gì mà còn liếm tóc mãi, chú rướn lên và ráng lôi cả thần người rũ rượi lên nóc xe. Chú nằm thành hình chữ đại trên đó, túm lấy tay vịn và né tụi côn trùng trong lúc Ông Già chở cả bọn lảo đảo xuống đường.
Cho đến khi kẻ tọc mạch đầu tiên xuất hiện vào buổi sáng đó.
Kinh ngạc vì sáng sớm đã nhìn thấy cặp hươu cao cổ trên con đường liên hạt, ông tài xế quẹo sát rạt vào chiếc xe đầu kéo, và Ông Già có lẽ đã giật tay lái sang phía ngược lại - vì chú đột nhiên thấy mình bay lơ lửng. Rơi rồi nảy lên một lần cùng cái xương sườn đau đớn của mình, rồi một lần nữa bên hông, chú tiếp đất mà thần người đang thành hình chữ đại trong cái mương, và chú hẳn là đã hét lên khá lớn. Vì tiếp đến chú thấy Ông Già đang ở trước mặt.
“Quỷ thần ơi, thằng nhóc, mày đã ở trên nóc xe à? Mày lẽ ra đã gãy cái cổ ngu của mày rồi! Mày đang làm cái trò khỉ gì vậy? Đừng, đừng có trả lời câu hỏi này.” Ông kéo chú lên để chú đứng vững. “Có bị sao không?”
Cái quần ống túm của chú bị rách và đầu gối thì ứa máu. Lúc lũ hươu khịt mũi về phía chú, ông dùng đôi tay thô ráp để thăm dò khắp tay chân chú. Mặc kệ chú loạng choạng, ông lấy bộ dụng cụ của bác sĩ sở thú, xé đường rách trên cái quần ống túm cho rộng ra, và băng bó đầu gối máu me của chú lại, hơi hí hửng thái quá khi đổ Mercurochrome - chất sát trùng màu đỏ gây cảm giác châm chích mà tụi chú gọi là “máu khỉ” - lên khắp các phần thịt bị lột da, khiến chú hét lớn đến mức cặp hươu cũng khụt khịt nhiều hơn.
“Mày sẽ sống sót.” Rút một tờ một đô la khỏi ví tiền, ông phe phẩy về phía chú. “Đây là một đô la. Kéo ngón tay cái ra đi,” ông nói, gom bộ dụng cụ và trở lại xe.
“Ông bỏ tôi lại đầy hả?”
“Ai đó sẽ tới và cho mày đi nhờ về thị trấn và mày có thể dùng một đô la đó để gọi cho người nhà roi vê nhà.
“Tôi không có người nhà và cũng không có nhà luôn,” chú nói với theo. “Tôi muốn đi Cali.”
“Không phải việc của tao,” ông nói với ra sau.
Cặp hươu đang khụt khịt lớn tiếng và có vẻ bổn chồn, đu đưa cái cổ từ trước ra sau giữa tụi chú. Nhìn thấy vậy, chú nuốt nước miếng, nâng vai lên, và nói với theo, “Không, vấn đề của ông là cái kiểu lái xe tệ hại của ông sẽ khiến tụi hươu gãy cổ - bà Benchley sẽ thích vậy chứ hả?”
Ông chợt dừng bước khi nghe nhắc tới bà Benchley mà chú nhớ đã thấy trên tờ điện tín. Tuy vậy, kéo sụp cái nón phớt xuống, ông cứ tiếp tục bước đi.
Chú nghe thấy tiếng mình hét lên, “Ông cần một bàn tay!”
Trước sự lựa chọn ngôn từ hết sức ngu ngốc như thế, Ông Già ngừng hẳn lại, xoay một vòng rồi bắt tại trận chú đang nhìn bàn tay xương xẩu của ông.
“Mày vừa nói cái gì?” Ông gầm lên, ném cho chú ánh mắt ghét bỏ nhất trong số những ánh mắt ghét bỏ, và thấy vậy chú liền ngậm miệng lại. Ông mở cửa xe phía ghế lái, trèo lên và nổ máy.
Nó kêu bùm bụp rồi chết máy.
Ông nổ máy lần nữa.
“Đừng ghì nó! Nhấn ga nhẹ thôi!” Chú hò hét. Khi nó lùng bùng sống lại, chú hét lên tiếp, “Nếu nó không chịu nổ máy thì sao? Ông cần tôi!”
Điều chú thật sự muốn nói là chú cần họ.
Đẩy cẩn số thô bạo hơn và giật cổ bọn hươu mạnh hơn, Ông Già phóng chiếc xe đầu kéo ra đường. Chú nhìn cặp hươu rời đi một lần nữa, trái tim chùng xuống đến tận Trung Quốc.
Rồi chiếc xe ngừng lại.
Ông Già vẫy vẫy chú.
Chú chạy nhanh nhất có thể với cái đầu gối máu me, và khi chú đến được chỗ cửa xe, ông nói, “Mày giỏi máy móc thiệt không? Lần này đừng nói xạo với tao.”
“Tôi là một thiên tài thật sự,” chú nói dối ông.
“Mày có bằng lái không?”
“Đương nhiên.”
“Mày biết lái cái xe này hả?”
“Nó có hộp số và một cái ly hợp, phải không?” Chú nói.
“Để coi. Tao chỉ cần mày chở bọn tao đến DC.”
“Nhưng… Ông đi tới Cali mà.”
“Tụi tao thì vậy. Mày thì không.”
“Nhưng tại sao lại là DC?”
“Tuyến đường miền Nam bắt đâu ở đó. Không định dừng, nhưng thằng chó đẻ Earl đã đổi như vậy.” Ông trả lời. “Tụi tao sẽ thuê tài xế mới thông qua sự giúp đỡ của sở thú. Đó là một khi Bà Chủ hỏi, mà tao không háo hức gì cái cuộc nói chuyện đó. Tệ nhất là cả đám phải ở lại ít nhất một ngày, có thể hơn. Mỗi ngày bọn tao nấn ná là thêm phần nguy hiểm cho hai cục cưng. Nhưng tao hết cách rồi,” ông nói thêm, lẩm bẩm nhỏ xíu về thằng chó đẻ một lần nữa. “Khi - nếu - mày chở bọn tao tới DC an toàn, tao sẽ mua một vé tàu hỏa cho mày trở lại Nữu Ước.”
“Tôi không muốn trở lại. Tôi có thể chở ông tới Cali. Tôi thề có hồn của mẹ tôi làm chứng, tôi có thể.”
Cái nhìn ông ném về phía chú có thể ngăn cả một con tê giác. “Mày sẽ ổn khi ở DC thôi, thằng nhóc, hoặc mày có thể nằm bên vệ đường chờ người lạ bố thí. Sẽ ra sao hả?”
Vậy nên chú gật đầu. Ông mở tung cửa xe, nhích sang và chú nhanh chóng nhảy lên xe trước khi ông đổi ý.
Cả hai ê hết hàm răng rồi chú mới quen được với vài ba số đầu tiên. Dù vậy, mỗi một cây số đi qua chuyến đi lại êm ái hơn, chú bắt đầu cảm nhận một điều gì đó mới - chú vẫn chưa chắc chắn, chỉ biết chú chưa từng cảm thấy vậy, nhưng chú đang cảm thấy may mắn.
Đó là vì chú nhìn thấy một chiếc xe hơi đằng sau tụi chú đang ngày càng trở nên lớn hơn trong kiếng chiếu hậu qua mỗi tích tắc, đến khi nó chậm lại và bắt đầu đi theo sau.
Đó là một chiếc Packard. Chiếc màu xanh lục.
Cảm nhận được một cơn sóng hạnh phúc trong trẻo, chú đã có thể đem cả nông trại mà cá rằng bên trong niềm hạnh phúc ấy là một người phụ nữ mặc quần tây đeo máy chụp hình với mái tóc màu lửa.
… “Bố yêu ơi, con mang bữa sáng tới đây!”
Dùng hông đẩy mở cánh cửa, lại là Tóc Đỏ Đô Con Trật Tự. Ngay lúc chú chấm hết câu.
“Không muốn ăn,” chú nói với qua vai mình.
“Con đã hâm nóng lại cho bố rồi,” cô nàng vừa nói vừa đặt cái khay có bột trứng và cà phê tởm lợm xuống chiếc giường gần cửa nhất. Cô hít một hơi rồi lắc cái đầu bự chảng.
“Bố phải giữ sức khỏe để mà viết chứ, phải không nào?” Rosie gắng năn nỉ.
Chú cứ viết tiếp.
“Sao bố không nghỉ tay một chút? Mình có thể chơi domino - một ván và một câu chuyện - như những ngày xưa,” cô nàng nói, nhìn qua vai chú. “Có vẻ bố viết cũng được khá khẩm đấy!”
Chú cứ viết tiếp.
“Bố nói bố đang viết cho ai nhỉ?” Cô nàng cổ gắng bắt chuyện lần nữa.
Chú cứ viết tiếp.
Cô nàng thở dài. “Thôi được, bố biết con đang muốn gì. Con đi đây.” Dù vậy, trước khi đi mất, cô còn nắm chặt vai chú và nói: “Nhưng mà bố, bố đang viết cho Augusta Tóc Đỏ mà phải không? Nếu đúng vậy, bố định gởi di dâu?”
Trái tim chú lỗi một nhịp khi nghe tới đó. Chú quay lại nhìn Cô Gái Hoang Dã bên cửa sổ, đang thảnh thơi nhai lại thức ăn. Rồi chú lấy con dao bỏ túi ra, chuốt lại cây viết chì, và trở lại công việc lái xe cho bọn hươu cao cổ mắc bão.
NGÀY 8 THÁNG 10 NĂM 1938
HÂN HẠNH GẶP HAI BÉ TRÊN XA LỘATHENIA, NEW JERSEY - 8/10 (Số buổi tối). Bạn thấy cặp hươu cao cổ trên đường vào sáng nay chưa? Đừng gọi bác sĩ nhé. Những vết đốm trước mắt bạn là thật đấy…
NGÀY 8 THÁNG 10 NĂM 1938
CẶP HƯƠU CAO CỔ KHIẾN MỌI NGƯỜI NGOÁI NHÌN ĐÃ ĐI ĐƯỢC HAI NGÀYNEW JERSEY - 8/10. Chuyến đi tốc hành trên xe tải đầu kéo xuyên lục địa của cặp hươu cao cổ đầu tiên ở Nam California đã sang ngày thứ hai, khiến biết bao người chạy mô tô phải thất kinh, mang niềm vui đến cánh kí giả và niềm hoan hỉ đến các dân làng dí dỏm dọc đường đi, theo các hãng tin quốc gia. Dân chúng ở các thị trấn nhỏ thì mắt tròn mắt dẹt và thề thốt sẽ bỏ uống rượu mạnh, và các cây hài thì gọi với theo chiếc xe tải cùng với bao câu châm chọc đắt giá nhất của họ…
NGÀY 8 THÁNG 10 NĂM 1938
SẼ LÀ TRÒ MẠO HIỂM THÚ VỊ NẾU ÔNG ẤY THÀNH CÔNGATHENIA, NEW JERSEY - 8/10 (Số đặc biệt). Bạn muốn đi, đi xe tải, chở một cặp hươu cao cổ xuyên quốc gia bằng xe tải như thế nào? Ông Riley Jones đang gánh trên vai một trách nhiệm nho nhỏ…
NGÀY 8 THÁNG 10 NĂM 1938
CẶP HƯƠU CAO CỔ THÒ CỔ DỌN ĐƯỜNG XUYÊN QUỐC GIANEW JERSEY - 8/10. Cặp hươu cao cổ đầu tiên băng xuyên lục địa bằng xe tải đang chạy đua với thời gian, theo bà Belle Benchley, nữ giám đốc sở thú San Diego, cũng là nữ giám đốc sở thú duy nhất trên thế giới, và việc chuyên chở đang diễn ra nhanh nhất có thể nhằm phù hợp với thể trạng của những sinh vật có bộ xương mỏng manh…