← Quay lại trang sách

Chương 8 TIẾN VÀO TENNESSEE

Bình minh ló dạng, điều đầu tiên mà chú thấy khi tròng đôi bốt vào chân và loạng choạng bước ra khỏi nhà gỗ là Ông Già đang săm soi vết lủng nát bét trên thùng xe trong khi Cô Gái Hoang Dã giậm chân tỏ vẻ bực dọc. Giơ tay đầu hàng, ông nói, “Đi thôi.”

Liếc nhìn qua cửa sổ xa xa, chú có thể thấy chiếc Packard vẫn còn ở đó. Ông Già vẫn chưa để ý, và lúc tụi chú rời đi, chú thoáng thấy Tóc Đỏ đang nhìn ra từ cửa nhà gỗ.

Tụi chú dừng chân ở cửa hàng bên đường mà tụi chú thấy đầu tiên để đổ xăng và mua thức ăn. Lúc kiểm tra cặp hươu cao cổ và ngóng Tóc Đỏ, chú thấy biển hiệu Western Union, tự hỏi không biết Ông Già có đang đánh điện tín gọi tài xế mới từ Memphis như ông đã nói hay không. Ngày càng rầu rĩ vì chuyện này, chú trở lên ghế tài xế.

Chỉ một phút sau, Ông Già bước ra, thảy túi thức ăn và một tờ báo xuống ghế giữa hai người. Trong khi ông đang nhai salami cho bữa sáng, chú nhìn xuống tờ báo. Tiêu đề là những chữ cái bự bằng nắm tay chú: HITLER CHIẾM TIỆP KHẮC: “Bắt đầu đế chế Đức vĩ đại của mình.” Chú không để ý lắm. Trong đầu chú chỉ còn bức điện tín. ông ta gởi hay là không gởi?

Ông Già chìa cây salami. “Muốn cắn một miếng không?”

Chú lắc đầu.

Ông cắn thêm một miếng nữa trong lúc chú lái xe lên đường, tích trữ miếng salami phía trong má để nói chuyện, “Nhân tiện nói luôn, tao vừa đánh điện tín nhờ tài xế mới.”

Rồi xong.

“Nên lái tới nơi đi rồi tao sẽ mua vé tàu hỏa cho mày. Tới đâu mày muốn cũng…”

Nhưng chú phun ra những gì chú đã luyện tập kể từ lúc ở cửa hàng trên núi. “Tôi đã lái đường núi ngon ơ cho tới lúc xe bị đâm trúng! Tôi có thể lái đường trường! Tôi có thể tới Cali, thề có Chúa là tôi làm được!”

Ông Già gắng nhịn cười. “Ngoáy ráy tai đi nhóc. Tao nói tao sẽ mua cho mày cái vé tàu hỏa đi bất cứ nơi nào mày muốn mà.”

“Bất cứ nơi nào?”

“Mày đã thể hiện rằng mày xứng đáng nhận được,” ông trả lời, nuốt miếng salami cuối cùng. “Thậm chí là tới California, nếu mày đã quyết tâm rồi.”

“Ông nói thiệt hả?”

“Thiệt. Mày sẽ tới đó trước tụi này.”

Nhanh lắm, chú sẽ đi California. Sớm thôi. Kế hoạch của chú thành công rồi. Giờ chú chỉ cần tới Memphis rồi đi thẳng tới miền đất của sữa và mật.

Chú thấy niềm hi vọng le lói của mình bùng cháy huy hoàng.

Vài cây số sau đó chỉ là kí ức mịt mù. Chú ngạc nhiên là mình không lọt cái hố nào khi cảm thấy quá hạnh phúc vì thông báo quan trọng của Ông Già. Chú thậm chí còn chưa nhìn về sau tìm Tóc Đỏ nữa. Thật ra, chú không nhớ việc gì liên quan tới chặng đường đó cho đến khi tụi chú ở Tennessee, băng qua một cái đèo nho nhỏ dẫn tụi chú qua phía bên kia của dãy Smoky, những cú lên xuống dữ dội nhất đã qua, ít nhất là về mặt địa hình.

Chốc sau tụi chú di chuyển theo nhịp điệu giống như những ngày đầu. Nhưng với chú, nó lại vô cùng khác biệt. Chú không còn chạy chiếc mô tô án cắp cố gắng đuổi kịp đằng sau. Chú không còn phải lập mưu hay tính toán nước đi kế tiếp. Chú chỉ cần lái xe, hân hoan, thời gian dần trôi qua, những trạm dừng bên đường đẹp như một bức tranh, và cây cối đơn giản là niềm vui nhai nhóp nhép. Tụi chú đi ngang một trang trại nuôi ngựa, và mấy con ngựa bắt đầu chạy cùng tụi chú dọc theo hàng rào dài màu trắng bao quanh đồng cỏ, mấy cái đuôi quất qua quất lại, bờm tung bay. Trong lúc đó, Chàng Trai Hoang Dã thậm chí còn nằm xuống nữa. Ở trạm dừng kế tiếp, chú thò xuống nóc xe và thấy nó lại nằm sóng soài trên nền chuồng gỗ, cái cổ dài gục lên lưng, đi ngược lại mọi quy luật về cổ.

Lần này, thay vì kể cho Ông Già nghe, chú nghiêng người tới gần và thì thầm, “Nè…”

Chàng Trai duỗi thẳng cổ, đứng dậy, vươn cao giống một chàng hoàng tử hươu cao cổ như thể muốn nói, Gì? Rồi nó nhích đến ngay sát chú để với tới nhánh cây cùng Cô Gái… và một luồng cảm xúc ki lạ pha lẫn đắng cay cùng ngọt ngào xâm chiếm lấy chú. Trên đường, chú liếc nhìn cặp hươu cao cổ qua kiếng hậu để thấy mõm chúng đang đón gió… và thứ cảm xúc tương tự một lần nữa bủa vây chú. Gắng giữ mắt nhìn thẳng, chú hình dung bản thân đang trên chuyến tàu đi California đến khi niềm hi vọng mong manh của chú một lần nữa bùng cháy.

Thời gian còn lại của chặng đường buổi sáng hoàn toàn yên bình, cao điểm là một chùm những quảng cáo Burma-Shave cũ kĩ được xếp xen kẽ trên những chiếc biển nho nhỏ khi tụi chú chạy ngang:

NGUYÊN TẮC AN TOÀN NHẤT

KHÔNG NHƯNG NHỊ GÌ

CHỈ LÁI NHƯ MỌI NGƯỜI THÔI

THÌ THẬT LÀ ĐIÊN

BURMA-SHAVE

❖ ❖ ❖

ANH CHÀNG QUẸT MỘT QUE DIÊM

ĐỂ KIỂM TRA BÌNH XĂNG

ĐÓ LÀ LÝ DO

NGƯỜI TA GỌI ANH LÀ

FRANK KHÔNG DA

BURMA-SHAVE

Chú đặc biệt nhớ dòng cuối vì nó làm Ông Già bật cười. Thật ra, khi lần đầu nghỉ chân vào buổi chiều thì cả bọn đều trong trạng thái thoải mái tới nỗi Cô Gái còn không thèm đá Ông Già khi ông kiểm tra nẹp gỗ cho nó nữa.

Khi tụi chú tiếp tục khởi hành thì nghe tiếng một đoàn tàu từ xa và Ông Già trở nên căng thẳng.

Âm thanh càng lúc càng lớn, đến từ phía nào đó khuất sau hàng cây. Toa tàu đang di chuyển về phía tụi chú. Tụi chú căng mắt nhìn xuyên rừng cây, rồi khi thấy những ánh chớp vàng và đỏ lóe lên, Ông Già khẽ chửi thề.

“Cái thứ gánh xiếc gì mà di chuyển nhanh tới mức theo kịp chúng ta vậy?”

“Cái kiểu rẻ tiền, ma quỷ chứ gì,” ông đáp.

Hàng cây thưa bớt và chú thoáng thấy mấy con voi đang ở trong một toa chở động vật chạy ngang qua, hai tai rũ rượi. “Nhìn tụi nó không vui vẻ gì.”

“Không có gì vui vẻ ở đó đâu,” Ông Già lẩm bẩm. Ông khạc một bãi ra cửa sổ, mà giờ nhớ lại thấy vừa giống một lời bình luận vừa giống đột nhiên lên cơn muốn tống khứ cục nước bọt. Bởi câu kế tiếp mà ông nói là, “Quên cái trò bịp đi. Mày sẽ muốn giáng cơn thịnh nộ của Chúa lên đầu bọn này bởi cái cách tụi nó đối xử với động vật.”

Hơn cây số nữa, đoàn tàu chạy song song với tụi chú bên kia rặng cây tới khi nó bắt đầu vượt lên. Xuyên qua rừng cây, tụi chú có thể đọc được bảng hiệu mới trên toa nhân viên với hàng chữ TỐI NAY Ở CHATTANOOGA! lúc đoàn tàu xinh xịch chạy mẫt hút.

Tâm trạng tốt giờ đây bị lung lay dữ dội. Khi dần tiến vào đồng cỏ, chú cứ nhìn chừng cặp hươu cao cổ từ kiếng hậu, toa Pullman giờ nhìn giống toa chở gia súc. Chú để ý Ông Già cũng đang quay lại nhìn lâu hơn, nhưng không phải nhìn cặp hươu cao cổ. Ông đang nhìn ra đường, và ông cứ làm vậy suốt cả mấy cây số. Đoàn tàu gánh xiếc đã đi qua rồi, nên chú không đoán chắc được là vì sao. Chú tự kiểm tra kiếng hậu, lo lắng rằng ông sẽ nhìn thấy chiếc Packard màu xanh lục, nhưng đoạn đường trống trơn.

Rồi ông chỉ tay. “Lái ra đi.”

Chú lái ra một đoạn đường sỏi chạy xuyên qua đám cây cao gần đó.

“Đậu xe ở cái lùm cây đó đi,” ông nói, giọng ông nghe kì lạ. “Rồi cho đầu của hai con hươu cao cổ vô.”

Chú làm theo, và tụi nó cho phép chú làm thế, mà vậy thì càng kì lạ.

Tụi chú ngồi đó hết năm phút rồi mười phút, chỉ nhìn thôi. Chú bắt đầu ước gì xe chạy vút qua để đỡ chán. Chú thoáng thấy màu gì đó… màu vàng… và đỏ.

Một chiếc xe tải bít bùng vút ngang qua mất hút -cái xe tải mà tụi chú đã thấy ở Maryland.

Chú liếc nhìn Ông Già, trong đầu có hàng vạn câu hỏi, nhưng xương hàm của ông vẫn cứng dơ, nên chú thôi. Tâm trạng vui vẻ ban nãy giờ không chỉ bị lung lay mà còn bị cán nát.

Một lần nữa, tụi chú mở cửa sổ cho tụi hươu cao cổ, và suốt hai tiếng tiếp theo, xa lộ dẫn tụi chú vòng vèo qua hết thị trấn này tới thị trấn tí hon kia, bên đường rải rác bao nhiêu là biển quảng cáo, mấy thứ kiểu như TÔI SẼ ĐI BỘ MỘT DẶM VÌ LẠC ĐÀ* và UỐNG MỘT HỚP 10-2-4 DR. PEPPER. Thậm chí mấy thằng cha cà rỡn kêu với theo “Thời tiết trên đó thế nào vậy?” cũng không làm tụi chú hào hứng tí nào, nên tụi chú kéo cửa sổ lên, và thậm chí tụi hươu cao cổ cũng rụt đầu vô. Trạm dừng chân qua đêm cách đó khoảng hai tiếng, Ông Già nói vậy, để tụi chú xong xuôi trước khi trở lạnh, không biết đang nói về không khí hay tâm trạng nữa.

Đó là khi tụi chú tới cầu vượt.

Và khi chú nói cầu vượt, ý chú là phần còn sót lại của cái cầu vượt.

Ai đó đã không chui lọt dưới cầu. Phần giữa đã bị thứ gì đó cứng hơn đầu một con hươu cao cổ tông vô. Tất cả những gì còn lại là các mảnh bê tông và dây nhợ treo lòng thòng. Phía dưới có bảng ĐƯỜNG VÒNG bự chảng, yên vị giữa xa lộ.

Ông Già gầm lên. “CÁI GÌ nữa vậy!”

Chú thắng xe từ từ còn cặp hươu cao cổ thì thò đầu ra để xem tại sao. Mũi tên đường vòng chỉ về một con đường nhánh nhìn có triển vọng sẽ đánh vòng trở lại xa lộ sớm thôi. Nhưng bản thân đường nhánh này có vẻ thiếu chắc chắn. Dù bị nứt và phủ rong rêu, mặt đường đã được rải bê tông, nhưng nó lại không có tên lẫn số. Thứ duy nhất đánh dấu nó là một biển báo tự chế đề CHỖ TRÚ CHÂN CHO NGƯỜI DA MÀU với một mũi tên chỉ hướng.

“Tôi làm gì đây?”

Ông Già nổi điên. “Chạy đường đó luôn.”

Tụi chú đi chừng một trăm mét ổn thỏa, nhưng lúc bẻ cua, chú phải đứng hẳn lên cái thắng. Trước mặt tụi chú là một đường hầm, cái kiểu đường cũ kĩ chật hẹp để chui dưới đường ray thay vì vòng lên trên. Nhìn nó có vẻ thấp.

Và khi chú nói thấp thì nó thấp thật sự.

Cả hai tụi chú có thể nhận thấy bằng mắt là chiều cao đường hầm sẽ rất thấp, cộng với việc đường chỉ vừa đủ rộng để xe đi qua.

Nếu có vạt đất bên đường thì chú đã dừng xe tránh khỏi đường rồi, nhưng chỗ này đã là con dốc chạy vô bên trong đường hầm để chui dưới trụ đường ray. Nên chú phải dừng giữa đường, và cái giây phút tụi chú ngừng lại, chú cảm thấy có ai đó đang nhìn mình. Chú nghĩ đó là tụi hươu cao cổ cho tới khi chú nhìn thấy một căn nhà chữ I quét vôi trắng ngay bên cạnh đường ray. Ngồi bên cửa sổ nhỏ nằm ngay dưới phần mái nhà nhô ra là một cô bé da đen, không quá bốn năm tuổi. Tụi chú ở rất gần tới nỗi chú có thể thấy hai mắt con bé mở to khi thấy cặp hươu cao cổ.

Ông Già đang ra lệnh. “Đi đo cái thứ này lẹ lên trước khi có thằng ngu nào ủi đít xe mình nữa.” Với tay xuống dưới ghế để lấy thước kim loại, ông gí nó cho chú. Chú cầm lấy rồi chạy ra ngoài, kéo cao thước đo ngay khi chú ở dưới cầu chui.

“Ba trăm tám sáu phân!” Chú nói.

Bản thân chiếc xe đã cao ba trăm tám sáu phân rồi - có thể cao hơn, vì bánh xe được bơm cáng.

Lúc chú trở lại xe, Ông Già đã đứng gần cái chắn bùn phía trước, ngó xuống bánh xe. “Tao không mong phải tới nước này,” ông vừa lầm bầm vừa vặn mở van xe. Chiếc xe có bánh đơn phía trước và bánh đôi phía sau chỗ dưới hai con hươu cao cổ để đỡ trọng lượng và có thể tiếp tục chạy dù một bánh bị xì. Rất nhanh chóng, ông xì một chút hơi ra khỏi toàn bộ các bánh xe, mỗi lần như vậy lại tạo ra một tiêng xìiiiiiiii nhỏ xíu nhẹ nhàng, cho tới lượt bánh đôi bên phải, cái bánh đã cán đinh, Ông Già không còn cách nào khác, ông cũng phải để nó xì bớt hơi - và khi làm vậy, bánh xe hoàn toàn lép xẹp. Sau khi chửi thề cho đã, ông hít một hơi thật sâu. Tụi chú vẫn còn một bánh đôi còn lại để đi tới trạm dừng qua đêm và chỗ đổ xăng nào đó để được giúp đỡ - nếu tụi chú còn có thể ra khỏi đường hầm

Chú đo lại lần nữa. vẫn quá sít sao. Ông Già phải tiếp tục xì bớt hơi ở mỗi bánh.

Lúc ông gần xong, mấy ngón tay đang siết thân xu páp gần chỗ bánh xe xẹp thì một chiếc mui trần hai chỗ rồ máy bẻ cua, sượt ngang tụi chú và tiếp tục chạy như điên dưới đường hầm. Vì từng suýt bị một thằng bá vơ sượt ngang chút nữa là đâm trúng, chú nhảy lên như một con ễnh ương hoảng hốt, loạng choạng té vào người Ông Già mạnh tới mức những ngón tay, vẫn còn siết thân xu páp, vặn lỗ khí trật sang một bên… và tiếng xìiiiiii giờ được thay bằng một âm thanh khác… tiếng xèooooooo vô cùng nhỏ nhưng đầy bất an.

Và nó không dừng lại. Cả hai bánh bên phải đang sắp xẹp lép.

Trong tích tắc, tụi chú nhìn nhau, rồi Ông Già hét lên, “Phải đi qua hầm thì mới ra khỏi đường này được! Rút đầu tụi nó vô!”

Chú không phí một phút nào để cố gắng, nhưng Chàng Trai thường ngày vẫn hay sốt sắng lần này lại không nghe lời, huống hồ là Cô Gái.

“Thôi khỏi!” Ông Già vừa gọi với theo vừa chạy ra đoạn cua, và thấy Ông Già chạy là một cảnh tượng đáng sợ. “Đường trống!” Ông hét lên. “Đi thôi!”

Chú nhảy lên cầm lái, vẫn còn nghe tiếng xèoooooo khe khẽ.

“Xuống ở giữa - chậm mà nhanh - tụỉ nó cần thời gian để rụt đầu vô,” Ông Già hò hét, “nhưng mà cái bánh xe đó sắp đi đời rồi!”

Tụi hươu cao cổ vẫn còn thở phì phì và giẫm đạp om sòm nhưng chú đã vào số và nhích về trước, tin là tụi nó sẽ tự rụt đầu vô để bảo vệ mình… và, vì Chúa vẫn còn thương, tụi nó rụt vô thật. Chầm chậm, chẩm chậm, chầm chậm, tụi chú di chuyển bên dưới chiếc cầu tàu hỏa rỉ sét cũ kĩ, phần trên chiếc xe đầu kéo tạo ra những tiếng cọ xát ken két nghe như tiếng cào lên mặt gỗ khiến răng ê tới tận tủy.

Chiếc xe gần như chui lọt - chỉ còn vài phân nữa là xong - thì bánh xe còn lại bên phải xì xẹp lép chỉ với một tiếng phụuut buồn bã mà chớp nhoáng. Tụi chú ngừng hẳn lại, bịt kín phần trên của đường hầm.

Chú nhảy xuống đất rồi len lỏi giữa chiếc xe và vách hầm để đứng chung với Ông Già mà há hốc miệng nhìn cảnh tượng rầu rĩ này. Cả hai bánh xe bên phải đều lép xẹp, được thôi. Trong thoáng chốc, tụi chú thấy chuyện gì đã xảy ra. Là do tụi hươu cao cổ. Ngay khi hầu hết phần thân xe đã lọt qua để tụi nó có thể an toàn ló đầu ra thì tụi nó lại làm như vậy trước. Cùng một lúc. Cùng một bên. Cái bánh xe đơn lẻ, xì hết một nửa không tài nào chịu nổi trọng lượng tăng thêm, ngoài tác nhân đang gây ra tiếng xèoooooo - mà dĩ nhiên là âm thanh đó cũng ngừng luôn rồi.

Thấy vậy, Ông Già hất cái nón phớt rớt xuống đất rồi giậm cho nó bẹp dí, xổ một tràng chửi thể giòn giã mà chú sẽ ngưỡng mộ nếu là một dịp khác, sáng tạo như quỷ, và độ dài bằng một cú phun nước bọt xoáy vào gió. Có thể ông cảm thấy vậy thật, kế hoạch đồ sộ của ông phản đòn ngay vào mặt, vì chú biết ông đang nghĩ gì. Chú muốn tự vả vô mặt mình. Lúc tụi hươu cao cổ không chịu để chú đóng cửa sổ một bên, lẽ ra chú phải ráng dụ tụi nó bằng cách đóng hai cửa đối diện nhau - bên Cô Gái một cửa, bên Chàng Trai một cửa - để giữ chiếc xe thăng bằng trong vài giây tụi chú cần tập trung hoàn thành công việc thôi. Nỗ lực quá ít và quá trễ, chú cài hết cửa sổ ngang tầm mắt của tụi hươu để giữ thăng bằng lại lần nữa, ít nhất là đủ lâu để Ông Già ngưng chửi thề và bắt đâu nghĩ xem bước tiếp theo nên làm gì. Trong lúc đó, tụi chú vẫn còn kẹt trong một tình huống nguy hiểm tới tính mạng không thua gì lúc ở trên núi. Vậy nên chú ba chân bốn cẳng chạy lại chỗ khúc cua, vì một trong hai người phải đứng cản không cho xe phía sau tông tụi chú tan nát.

Ông Già hò hét kêu chú dừng lại. “Trở lại đây!”

Chú quay lại để coi tại sao, thì thứ mà chú thấy là một nỗi ngu của một thằng ngu.

Phía dưới trục xe, Ông Già đã dựng cái đòn bẩy cồng kềnh dành cho chiếc xe đầu kéo cồng kềnh. Ông sắp bắt chú bơm nâng xe. Nhưng tụi chú còn mỗi một cái bánh dự phòng, hai bánh xe lép xẹp cùng hai con hươu cao cổ. Đó là chưa kể đường hầm chỉ nhỉnh hơn cái xe chừng năm bảy phân gì đó. Không dùng cách này được đâu. Chú thừa biết mà. Không có cái đòn bẩy nào được sản xuất để một người đàn ông có thể dùng sức mình nâng hai con hươu cao cổ đang ngồi phía trên hai bánh xe xẹp lép được. Và chắc chắn là không có mánh khóe gì để tụi nó không nặng hai tấn dù có đứng ở đâu đi chăng nữa.

Chú biết Ông Già thấy những gì mắt chú thấy, nhưng nhìn ông tuyệt vọng quá, gần như điên lên vì nó. Ông bước tới rồi đẩy chú vô chỗ đòn bẩy, ra lệnh cho chú tiếp tục bơm. Vậy nên chú bắt đầu bơm và tiếp tục tới khi nghe Ông Già thì thầm bằng một cái giọng sợ hãi tới nỗi giờ nhớ lại chú cũng nổi hết da gà.

“Chết… cha…”

Chú nhìn theo hướng mắt của ông. Trên đường ray là một người đàn ông da đen đang đứng, bận cái quần yếm màu xanh. Anh này cao gần hai mét, xê xích chút. Chú thật ra đứng lên nhanh như vậy không phải vì người đàn ông. Đó là vì cái thứ bự chảng mà anh ta đang cầm. Anh ta cầm một lưỡi hái để cắt lúa mì, cái loại nông cụ nhìn ớn da gà mà chú chỉ thấy người ta để cho rỉ sét trên vách trang trại sau khi bông và máy cày đã về đồng bằng. Nhưng cái lưỡi hái này không rỉ sét. Nó sáng bóng và sắc bén. Như cái mà Thần chết mặc áo choàng dài lất phầt cẩm đi khắp nơi trong truyện ma.

Người đàn ông thong thả rảo bước tới đầu xe. Khi tới gần, anh ta lật tay cẩm của lưỡi hái để chống xuống nền đất mềm nhìn như cây gậy của Moses. Anh ta chỉ đứng đó và nhìn chằm chằm một lúc lâu tới nỗi cả chú và Ông Già sợ toát mồ hôi.

“Tụi tui có quan sát ông,” cuối cùng anh ta cũng cất lời.

Chú nhìn xung quanh, không thấy “tụi tui” nào, nhưng cũng không muốn thấy.

Nghe giọng nói oang oang là lạ, Cô Gái Hoang Dã tông mạnh đầu ra khỏi cửa sổ đã cài chốt, tới mức chốt bật ra và cửa sổ mở toang.

Moses nhíu mày. “Mấy ông chở con gì vậy?”

Trước khi Ông Già có thể trả lời thì cửa sổ đã cài chốt còn lại cũng bật tung, Chàng Trai Hoang Dã cũng muốn xem có gì đáng xem không, và vì cả hai tụi nó đều nhoài ra cùng một bên, chiếc xe nghiêng, tiếng kim loại kêu cót két, và rầm. Rồi đời một cái đòn bẩy cồng kềnh.

Moses nhìn trừng trừng cái đòn bẩy.

Rồi nhìn cái xe.

Rồi nhìn đường hầm.

Rồi nhìn lốp xe.

Rồi trở lại nhìn tụi chú. “Tự dồn mình vô thế kẹt rồi ha,” anh ta nói.

“Ừ,” Ông Già trả lời.

“Ráng xì bớt hơi trong lốp để chui lọt ha.”

“Ừ,” Ông Già lại trả lời.

“Giờ thì ông kẹt rồi ha,” Moses tiếp tục nói.

“Ừ.” Ông Già lặp lại, tỏ vẻ cáu kỉnh rõ ràng hơn so với lần thứ hai khi phải trả lời mấy câu hiển nhiên như vậy.

Moses gật gù nhìn hai con hươu cao cổ. “Hai anh chàng khổng lồ này chắc là hồng chui lọt qua chỗ này rồi.”

“Thì không.”

Cái đầu của Ông Già gần như văng ra vì lắc quá mạnh. Tất cả những gì tụi chú biết là Moses có vài tính toán cho hai con hươu cao cổ, nhưng sự thật là chiếc xe không phải kiểu chuyên chở ngựa phía sau. Vì vậy, dù tụi chú có muốn đi chăng nữa thì cũng không cách nào cho cặp hươu ra tới khi cả xe qua khỏi đường hầm trót lọt. Cả bên hông phải được hạ xuống nếu muốn làm như vậy.

Nhìn toàn cảnh một lượt nữa, Moses lên tiếng, “Tụi tui có thể làm việc cần làm. Nhưng trước hết, phải chỉnh đốn lại cái đã.”

Chú không biết Ông Già thế nào, nhưng nghe vậy chú không thấy phấn khởi gì.

Moses để hai ngón tay lên môi và tạo ra một âm thanh nửa giống một con quạ bị sát hại nửa giống một con chim cổ đỏ được ve vãn. Chưa tới một phút sau, sáu bản sao trẻ hơn, lực lưỡng hơn của anh xuất hiện. Họ tuần tự đi vô, mặc quần yếm hệt như Moses, vài người chỉ treo một dây quần, vài người thì cả hai dây, vài người có mặc áo sơ mi trong, vài người thì không -tất cả đều đeo găng tay hở ngón ôm theo các nông cụ.

Họ đến gần chiếc xe đầu kéo, hai người trong số họ thậm chí còn với tay để chạm vào cặp hươu cao cổ mà không cần phải đứng lên cái gì đó. Chắc con nghĩ rằng họ sẽ nói chuyện rôm rả khi thấy tụi hươu, như bất cứ sinh vật nào đã gặp tụi nó. Nhưng họ im như thóc, tất cả đều gật gù, tay chống hông, nhướng mày, lặp lại động tác của Moses mà không hở ra tiếng nào, nhìn mấy cái lốp xe, nhìn đường hầm, nhìn chiếc xe, rồi nhìn nhau.

Rồi lại nhìn tụi chú.

Lúc đó, Ông Già vẫn đang canh chừng đống nông cụ trong những bàn tay gân guốc của mấy người đàn ông này. Chú có thể đoán là ông đang lo lắng không biết chuyện này sẽ đi về đâu, hai mắt ông phóng về phía cây súng hoa cải trên giá súng trong buồng lái. “Ở gần đây thôi,” ông lầm bầm với chú, như thể chú có thể ra tay làm được gì nếu mọi chuyện tanh bành hết.

“Kêu mấy bá ra thì được hơn đó,” Moses nói tiếp, và lại nhét hai ngón tay vào miệng. Lần này tín hiệu nghe giống sát hại hơn là ve vãn, và không biết từ đâu thêm sáu người đàn ông lực lưỡng xuất hiện, già hơn nhóm đầu, nhưng nhìn như khuôn đúc chỉ trừ lượng tóc có trên đầu mỗi người. Họ nhập bọn rồi cùng làm chuỗi động tác nhận định tình hình, và thực hiện lầu tới nỗi chú và Ông Già sắp nổi điên.

Rồi họ cùng quay về phía đường ray vì bây giờ có thêm một người đàn ông nữa cùng tham gia. Nhưng người này khác hẳn. Ông dùng cái cuốc chim làm gậy, râu ria bạc phơ, quần yếm xơ cứng, cái áo công nhân màu xanh của ông được ủi thẳng thớm, và lúc dừng lại gần Moses, ông chỉ nhìn mỗi hai con hươu cao cổ.

Chú từng nghe về những đại gia đình làm nông rồi, thậm chí từng biết vài nhà như vậy, nhưng nhà này thì không ai địch lại rồi. Nhìn cả dòng họ thế này, chú đoán người râu bạc này là Bố Già, các bá là anh em của ông, và còn lại hẳn là con của họ, Moses là lớn nhất.

Trong lúc Bố Già tiếp tục săm soi tụi hươu cao cổ, Moses gật đầu với người đàn ông trẻ nhất - cơ bắp cuồn cuộn nhưng không có thước vóc - và người này tiến tới khúc cua để canh chừng, một tấm chắn đường bằng xương bằng thịt trong sử sách.

Rồi Bố Già lên tiếng. “Tụi tui biết phải làm gì cho mấy sinh vật khồng lổ từ Vườn địa đàng thuần khiết của Chúa rồi.” Khi Bố Già và Moses cứ để thời gian trôi qua mà không nhúc nhích một li, Ông Già sắp phát điên còn chú thì cũng không khá khẩm gì hơn, tự hỏi tại sao ông lại không chịu lên tiếng con khỉ mốc gì để hỏi kế hoạch của mấy người lạ mặt này trước khi cho họ quyền kiểm soát. Nhưng chú biết tại sao. Chỉ còn một cách duy nhất thôi. Di chuyển chiếc xe. Mà nếu không có chút trợ giúp cơ giới hóa thì làm gì được, huống chi là lùa tụi hươu cao cổ ra khỏi xe, mà tụi chú cũng không biết làm cách nào nốt.

Rồi Moses lên tiếng. “Vô số đi.”

Chú nhìn Ông Già, ông vốn đang nhìn chú. Dù rõ rành rành là không mặn mà gì vụ này nhưng ông vẫn gật đầu ra hiệu cho chú. Lúc chú lên xe và vô số, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu chú: Tụi hươu cao cổ này đi đâu thì mình đi theo đó. Ý nghĩ này khiến chú ngạc nhiên tới nỗi gần như giật mình. Chú còn giật mình hơn khi nhìn vô kiếng hậu.

Ở khúc cua, một chiếc Packard màu lục đang dừng lại bên đường, giống như đang cố gắng đi vòng qua anh con trai chắn đường, và Tóc Đỏ đang đứng đó mặc một cái áo măng tô của nam, tay cầm chặt máy chụp hình, bàn tay bự chảng của tấm chắn đường bằng xương bằng thịt đang nắm chặt cánh tay nàng.

“Sẵn sàng chưa?”

Giọng của Moses kéo chú trở về chiếc xe đầu kéo.

Chú gật đầu.

“Nhấn ga đi.”

Như chú từng nói, chiếc xe đã gần qua hết đường hầm thì xì lốp. vẫn chưa đủ rộng chỗ để tránh ra bên đường. Đó cũng chính là việc mà đại gia đình Bố Già đang cố gắng làm - đẩy tụi chú thêm vài phân nữa để ra khỏi đó và tấp vào làn đường khẩn cấp. Trọng lượng của chú không mảy may làm chiếc xe nặng thêm. Chắc cả người chú là lông hồng. Hai bánh xe xẹp lép vẫn không thành vấn đề. Kể cả con đường dốc ngược cũng không hề hấn. Hai con hươu cao cổ đang nhúc nhích trong xe, thò đầu sang bên hông, thích thú nhìn ngó. Chú nhấn ga, đại gia đình Bố Già đẩy từ phía sau, hai con hươu cao cổ, hai bánh xe xẹp lép, và phần còn lại của chiếc xe đầu kéo khổng lồ bắt đầu lăn bánh một chút đủ để tụi chú nhích lên vài phân và thoát khỏi đường hầm. Khi họ gầm gừ rồi hò dô lần cuối, chiếc xe nằm gọn bên làn đường khẩn cấp, vừa ra khỏi cây cầu.

Khi chú vặn chìa khóa tắt máy, Moses lại huýt sáo kiểu ve vãn của chim cổ đỏ. Cậu con trai chắn đường ở khúc cua bước ra một bên để bốn chiếc xe hơi chạy qua đường hầm, rồi để Tóc Đỏ đi, nhưng thay vì nhảy trở vào chiếc Packard, nàng lại ba chân bốn cẳng chạy lại chỗ tụi chú, giơ cao máy chụp hình. Lúc chú nhảy xuống xe thì Ông Già đang đứng đó, miệng há hốc tới mức chú chưa từng thấy, còn Tóc Đỏ thì vẫn ở đó, chụp lia lịa.

Ông Già sửng sốt. “Cô là ai?”

Tóc Đỏ đưa tay ra bắt. “Chào ông Jones, tôi đang viết bài cho tạp chí Life . Woody có thể đảm bảo cho tôi, phải không, Woody?”

“Trời đất quỷ thần…” Ông Già gầm lên. “Cô là cái người suýt nữa tông cho chúng tôi rớt xuống vách núi đây mà! Đi cho khuất mắt đi, con nhóc!” Ông quay lưng lại với nàng, nhưng nàng vẫn không chùn bước. Nàng quay sang và nhắm máy chụp hình tới mấy người con và mấy ông bá. Nhưng lúc đó, tầm chắn đường bằng xương bằng thịt đã trở lại, và anh giơ bàn tay tổ chảng của mình chắn máy chụp hình.

Tóc Đỏ nuốt nước bọt ực một cái.

“Cậu Bảy muốn nói là người lịch sự phải xin phép đó, cô nương,” Bố Già thống dịch.

Tóc Đỏ mất một giây để nghe hiểu lời Bố Già, nhìn chằm chằm lên bàn tay của Cậu Bảy đang đặt trên ống kính. “Tôi xin lỗi. Tôi chụp hình mọi người có được không?” Có vẻ Cậu Bảy hài lòng, nên anh hạ tay xuống.

Trong lúc đó, Moses săm soi hai cái bánh sau xẹp lép. “Ông có một cái bánh sơ cua,” anh nói. “Ông không có hai cái. Mà ông lại cần hai cái.”

Ông Già ráng không nói lời nào về cái việc lặp lại điều hiển nhiên. “Anh có bánh xe nào cùng cỡ này để tụi tôi mua lại không?”

Moses lắc đầu.

“Vậy anh có cái máy bơm hơi nào để tụi tôi thay bánh xe sơ cua được không?” Ông Già thử cách khác. “Tụi tôi phải lên đường trước khi trời tối.”

Một lần nữa, Moses lắc đầu.

Hoàn toàn cạn kiệt ý tưởng, Ông Già nhìn về phía chú. Không có gì khả quan.

“Ông chắc là hai con thú khổng lồ này không xuống xe được hả?” Moses hỏi.

Ông Già ngập ngừng. “Nếu không thì anh có giúp được không?”

Bố Già và Moses nhìn nhau, rồi Moses gật đầu thật chậm và cả đại gia đình quay người đi mất.

Những người còn lại không còn cách nào khác ngoài chờ đợi, Ông Già bốc hỏa, tụi hươu cao cổ sụt sịt, Tóc Đỏ chỉnh lại máy chụp hình, sửa nút bấm và xoay vòng đai như thể không còn gì quan trọng trên đời, kể cả chiếc xe sang trọng mà nàng đậu bên đường. Rồi đầu nàng nhổm lên. Moses đã xuất hiện trở lại cùng với một lốp đơn nhìn nhẵn nhụi hệt như anh ta, và sau lưng anh, các cậu con trai trở lại theo từng nhóm. Một nhóm đang cầm hai thân cây dài chẻ đôi bự bằng bộ ngực của một người đàn ông, một nhóm khác thì cầm những thanh thép dài có mấu, và nhóm còn lại đang lăn một tảng đá - phẳng một bên, tròn một bên với một cái rãnh bự bằng thân cây - rồi đặt mặt phẳng ở dưới, phía sau xe đầu kéo, cách chừng mấy mét.

Cách họ di chuyển cho thấy họ đã làm việc này rất nhiều lần rồi. Các cậu con trai xếp xen kẽ thần cây và thanh thép, đẩy cái sandwich gỗ ấy dưới gầm xe để kê trục xe sau lên, rồi đặt đầu bên kia của cái sandwich gỗ vô rãnh trên tảng đá để tạo thành một cái bập bênh tạm bợ kì cục nhất mà con từng thấy.

Rồi với một sự hiệp lực nhịp nhàng như dàn đồng ca, toàn bộ các cậu con trai và các bá leo lên một đầu của cái sandwich gỗ đang chồng lên trời. Thanh thép rền vang, mấy khúc gỗ bị nghiền nát, chiếc xe kêu ken két, và rồi cả thân xe trồi lên chừng năm phân vừa đủ để Moses thay hai cái lốp xẹp lép bằng một lốp sơ cua sẵn có trên xe cùng cái lốp nhẵn nhụi của anh.

Trong lúc Moses lau tay, mấy cậu con trai và các bá nhảy xuống khỏi bập bênh từng người một, thả cặp hươu cao cổ và chiếc xe xuống, mấy cái lốp xe chạm xuống nền đất nảy lên một phát - tròn trịa. Chỉ có vậy, toàn bộ các bộ phận của bập bênh lại tách rời trong những đôi tay đã đem chúng tới, những người đàn ông di chuyển trong im lặng và tôn nghiêm.

Ông Già và chú hoàn toàn thộn ra trước chiến công đầy gan dạ và cơ bắp này. Cậu Bảy vỗ nhẹ lên vai Ông Già, giơ cái nón phớt nhàu nhĩ ra tới khi Ông Già cầm nó, rồi cũng biến mất sau đường ray.

Ông Già lơ đễnh phủi nón, tìm lại tiếng nói của mình và quay về phía Bố Già. “Tôi nợ ông bao nhiêu?”

Bố Già xoay cái cuốc mà bây giờ nghĩ lại chú thấy giống một kiểu thể hiện lòng tự hào của gia đình. “Không cần tiền của ông.”

“Vậy thì tôi cảm ơn ông bằng cách nào?” Ông Già hỏi.

Cậu Bảy trở lại tù chỗ đường ray cùng với đứa bé gái từ căn nhà chữ I có cửa sổ, nó đang ngồi công kênh trên vai cậu, và Bố Già nở nụ cười.

“Ong Mật muốn gặp mấy con vật này,” ông nói, “nếu ông không phiền.”

Ong Mật thì thầm vào tai ông.

“Ong Mật muốn biết tên tụi nó,” Bố Già nói thêm.

Dù không ngờ tới nhưng chú có thể thấy là Ông Già bị cuốn hút rồi. Ông nhìn qua chú một cái rồi nói, “À thì, cô Ong Mật, tụi nó chưa nói tên cho chúng tôi biết. Mình hãy kêu đứa này là Cô Gái còn đứa kia là Chàng Trai. Cô chịu chứ?”

Vậy nên Ong Mật được đặc cách đi xem, Cậu Bảy nhấc nó lên vừa đủ để cả hai con hươu cao cổ tha hồ hít hà làm quen với con bé.

Bố Già nói với Ông Già, “Lốp cũ không trụ lầu đâu. Tụi này có thể sửa cả hai lốp cho ông vào ngày mai. Trời bắt đầu tối rồi. Tụi này sẽ cho ông ngủ lại. Ở đây có kinh doanh nhà nghỉ.” Ông chỉ tay về phía con đường đất cách đó khoảng chín mét phía trước mặt, dẫn tới một rừng thông, một tấm bảng CHỖ TRÚ CHÂN CHO NGƯỜI DA MÀU khác dựng bên cạnh nó. “Còn nữa,” Bố Già tiếp lời, “Ong Mật muốn ông ở lại. Ong Mật biết đường đi quanh đây. Phải không, Ong Mật?”

Con bé gật đầu.

“Sau tất cả mọi chuyện các ông làm cho chúng tôi, chúng tôi còn hơn cả vinh dự nhận lòng hiếu khách của các ông,” Ông Già trả lời, giơ tay để Bố Già bắt, và họ bắt tay. Nở một nụ cười thật tươi, Ông Già đi về phía con đường đất với Bố Già và Moses, trở thành ông Jones duyên dáng mà tôi thấy ở Trạm dừng chân Bên đường của Round.

“Tốt hơn hết là đi chung đi, cô nương,” Bố Già quay đầu kêu với theo qua vai, còn Cậu Bảy và Ong Mật thì đứng chắn đường Tóc Đỏ.

Mắt Tóc Đỏ phóng ngay giữa biển CHỖ TRÚ CHÂN CHO NGƯỜI DA MÀU và Cậu Bảy. “Ờ, thôi, không cần đâu, cảm ơn…”

Nhưng Bố Già đã đi mất rồi, vừa đi vừa nói chuyện với Ông Già. Vậy nên, nghe theo tiếng cười khúc khích của Ong Mật, chú vô số rồi chạy về phía con đường đất trong lúc Cậu Bảy nhặt lại mấy cái lốp xe xì bằng tay rảnh và lùa Tóc Đỏ về cùng một phía, cái áo măng tô của nàng kéo lê trên nền đất.

Tụi chú tới chỗ ba căn nhà nhỏ, tụm lại một bên đối diện với hàng cây phong đầy lá dọc theo bìa rừng - việc kinh doanh nhà nghỉ của Bố Già. Khi tụi chú đi ngang căn nhà đầu tiên có đậu một chiếc Olds mui kín màu xanh lam bóng loáng, mấy đôi giày cũ được cột vào cái hãm xung, thì một cặp đôi da đen ăn diện lộng lẫy bước ra, trố mắt nhìn cảnh tượng kì lạ đang đi ngang, cũng chính là tụi chú đây.

Đi ngang căn thứ hai, Moses thả Tóc Đỏ đi, để nàng lại đó, tay nàng nắm chặt máy chụp hình, đứng bên hiên nhà nho nhỏ.

Rồi đi về phía căn nhà nhỏ thứ ba được đặt xa hơn, tụi chú băng qua ngã ba trên con đường đất dẫn tái một căn nhà hai tầng quét vôi trắng cùng một nhà kho bự gấp đôi căn nhà. Ông Già ra hiệu cho chú đợi trong lúc mọi người, trừ chú và cặp hươu cao cổ, đi bộ xuống. Chỉ vài phút sau, Moses và Ông Già trở lại, và chú chạy xe lại căn nhà thứ ba để đậu xe. Ông Già nhảy lên bậc thềm xe bên phía ghế phụ, mở cửa, nhảy vô, rồi bắt đầu nói thật nhanh: “Tao biết có mấy thằng nông dân Texas phản đối không chịu ngủ qua đêm ở nhà nghỉ dành cho dân da màu của mấy người tốt bụng này. Thằng đó phải mày không?”

Chú lắc đầu.

“Rồi nếu là mày thiệt thì mày có nói cho tao biết không?”

Chú lắc đầu lần nữa.

“Tốt thôi. Tao không muốn nghe đâu. Tao vẫn muốn mày ở ngay trên xe. Mấy cậu con trai sẽ thay phiên nhau gác đêm, mà tao không muốn từ chối. Ông kêu “Cậu Hai” tới gác ca đầu. Nhưng mày phải ở lại với tụi hươu cao cổ. Tao nói mấy người đó đây là nhiệm vụ của mày.”

“Đó là lý do anh con trai cầm lưỡi hái đứng đó hả?” Chú hất cằm về phía Cậu Hai - chú suy luận vậy - đang đứng gần một cây phong khổng lồ lúc chú dừng xe lại.

“Lý do đó,” Ông Già vừa bước ra vừa nói. “Mày có thể ngủ trong buồng lái. Nếu có vấn đề gì thì tao sẽ khó mà giải thích cho Bà Sếp hiểu mọi chuyện chỉ trong một vài câu từ. Giờ thì chế Annie Mae và mấy đứa con dâu đang nấu một bữa thịnh soạn chưa từng thấy,” ông nói thêm, hất mặt về phía căn nhà lớn. “Còn mình thì sắp nhận sự hào phóng rồi, tao ở trong kia còn mày ở ngoài này.”

Tới lúc chú đậu chiếc xe đầu kéo trước căn nhà nhỏ thứ ba, bật nóc, và cho cặp hươu cao cổ uống nước xong xuôi thì Ông Già trở lại, thức ăn của chế Annĩe Mae đặt trên đĩa được Cậu Bảy đem ra, Ong Mật vẫn còn ngồi trên vai anh. Anh để đĩa lên mui xe rồi chạy đi kiếm Tóc Đỏ.

Trong lúc Tóc Đỏ chụp hình Ong Mật đang cho hươu cao cổ ăn bánh kếp, chú đánh chén thức ăn no nê tới mức chú thấy bị bỏ lại mà no vậy cũng đáng. Là sự hào phóng mà, đúng rồi. Khi Tóc Đỏ đặt máy chụp hình xuống, nàng ăn ngấu nghiến còn nhanh hơn chú nữa. Lúc tụi chú ăn xong rồi, không khác gì liếm hết đĩa, tụi hươu cao cổ cũng bắt đầu nhâm nhi đọt cây, và Ong Mật đưa cho chú cái bánh kếp cuối cùng mà hơi xấu hổ là chú đã ăn như điên. Khi mặt trời lặn, Ong Mật và Cậu Bảy đi về, kéo cả Tóc Đỏ ra căn nhà nhỏ thứ hai. Cặp hươu cao cổ đang thỏa mãn nhai lại, còn Ông Già, vừa xỉa răng vừa có vẻ cực kì hả hê, lững thững đi về phía căn nhà nhỏ thứ ba để ngủ.

Vậy nên, khi màn đêm buông xuống, chỉ còn chú và cặp hươu cao cổ ngoài xe đậu trước căn nhà nghỉ dành cho người da màu giữa chốn khỉ ho cò gáy. Một lần cuối ngoái nhìn Cậu Hai đang đứng dưới bóng cây, chú đóng nóc thùng xe rồi chúc Cô Gái và Chàng Trai ngủ ngon. Với chiếc bụng cả đời chưa từng no căng hạnh phúc tới vậy, chú thấy buồn ngủ mặc dù bị kẹt trong một chiếc xe tải nơi rừng rú với một người đàn ông cẩm lưỡi hái sắc nhọn gần đó. Kéo kiếng cửa sổ lên cho khỏi lạnh, chú duỗi người trên ghế băng trong xe và cho phép bản thân chìm vào giấc ngủ no nê ngon lành thì cửa xe bên kia kêu lách cách.

Bật người dậy, chú nhìn tay nắm cửa vặn sang một bên rồi cánh cửa mở bung.

Tóc Đỏ ngồi xuống trên băng ghế cạnh chú, vẫn còn mặc cái áo măng tô bự chảng.

Nàng thở hổn hển, khóa cửa xe rồi đặt tay lên vị trí trái tim mình. “Tôi quyết định tới đây để thăm anh và cặp hươu cao cổ… nếu được.” Nhìn ngó xung quanh như thể đang tìm Ông Già, nàng nói thêm, “Anh ở ngoài này một lát, phải không?”

“Cả đêm,” chú nói.

Nàng nhỏm dậy. “Cả đêm?”

Chú gật đầu.

Vỗ vỗ lên ngực, nàng lại liếc nhìn sang bóng dáng của Cậu Hai cầm lưỡi hái đứng gác trong ánh trăng. Rồi nàng với tay khóa cửa chỗ chú ngồi. “Tôi… chưa từng ở lâu gần mấy người da đen. Anh thì sao?”

Chú nhìn sang Cậu Hai, không biết trả lời như thế nào. Sự thật là chú chưa từng thấy một người da đen nào cho đến khi đi tàu hỏa tới chỗ Cuz. Nếu có người da đen nào trong xó xỉnh của chú ở vùng Cán Xoong thì chú cũng không biết ở đâu, mà như vậy khiến họ thông minh hơn toàn bộ người da trắng chú biết. Nhưng không có nghĩa là họ sẽ được chào đón, đặc biệt là ở Thời kỳ Đen tối khi quá đông người thất nghiệp và cần có nhiều người sống khổ sở hơn họ.

Tiếng vỗ ngực của Tóc Đỏ càng trở nên lớn hơn kéo chú ra khỏi dòng suy nghĩ… Nàng vẫn đang cố gắng hít thở. “Cô sợ hả?” Chú hỏi.

Nàng lắc đầu, tức giận vì ý nghĩ đó. Nàng vẫn chưa thở bình thường được. Chú bắt đầu xin lỗi, nghĩ là mình đã chọc tức nàng, nhưng rồi nàng hoàn toàn không thở nữa. Tay bấu chặt ngực, nàng hổn hển - hơi thở gấp, ngắn, thoi thóp, cái kiểu thở mà chú chưa nghe lâu rồi kể từ ngày phổi má và em gái chú bám đầy bụi. Chú sợ tới mức không cử động được, cứng người vì những ầm thanh chú tưởng cả đời mình sẽ không bao giờ nghe nữa.

Hơi thở nàng từ từ chậm lại, rồi ngưng hổn hển hẳn. Vén tóc khỏi gương mặt, nàng thở một hơi thật dài và đổ sụp xuống ghế.

Chú há hốc miệng nhìn nàng.

“Lâu lâu tôi bị hụt hơi một chút,” nàng nói.

Chú vẫn tiếp tục há hốc miệng. Chú vẫn chưa hoàn toàn bình tĩnh sau những gì vừa mới chứng kiến.

Nên Tóc Đỏ thở dài lần nữa và nói, “Tim tôi bị đau.”

Chú biết không phải nàng nói về chuyện thất tình, và chú cảm thấy có chút sợ hãi. “Ý cô là sao?”

“Ý tôi là nó thật sự bị đau.”

Chú ngả người ra sau. “Không vui gì hết.”

“Ừ chứ gì nữa,” nàng lẩm bẩm.

Chú không biết mình nên nghĩ gì, huống chi là làm gì, và chú chắc hẳn là đã thể hiện ra mặt. Bởi nàng đã nắm lấy tay chú và đặt nó lên ngực nàng. Bên trên chiếc áo lụa. Trên bộ ngực mềm và căng tròn của nàng.

“Bệnh thấp tim. Khi tôi còn nhỏ,” nàng nói. “Tim tôi kiểu như nhảy chứ không phải đập. Có cảm nhận được không?”

Thứ mà chú chắc không cảm nhận được là nhịp tim của nàng. “Cái gì?” Chú lẩm bẩm.

“Tim tôi ấy. Có cảm nhận được không?”

Chú tự ép mình phải tập trung, chờ đợi nhịp tim. Nhưng không thấy gì. Và giờ tất cả sự tập trung của chú dồn vào việc chờ đợi nó. Nhưng khi có nhịp tim rồi thì nó chỉ là… thình thịch… thịch… thình thình thịch… ngưng… thịch… ngưng… ngưng… ngưng… ngưng… thịch.

Chú bị dọa tới mức chỉ muốn bám chặt hơn vào ngực nàng, như thể chú đang ép trái tim đập cho đúng nhịp. “Cô nói nó có ngừng lại hả?” Chú nghẹn ngào. “Cô có thể chết?”

“Có thể.” Nàng cười mà không nhấc môi. “Nhưng có lẽ không phải tối nay.”

Chú tự nhiên nổi giận với nàng vô cớ, và rụt tay lại. “Vậy thì cô còn làm gì ở ngoài này?”

Nghiêng đầu, nàng nói khe khẽ, “Woody, anh chưa từng muốn thứ gì tới mức một là làm hai là chết trong cố gắng sao?”

Chú biết là mình có. Hai ngày trước thì chắc chú nghĩ là không.

Nhưng chuyện này khác chứ.

Nàng đang nhìn về phía thùng xe. “Anh biết hươu cao cổ trong hoang dã chỉ sống chừng hai lăm năm là tối đa không? Tim của tụi nó bỏ cuộc nhanh quá, tôi nghĩ vậy, chắc tại phải bơm máu lên xuống cái cổ dài kia. Tụi nó thật sự được phù hộ mà không biết, nhưng mà, đôi mắt cao chót vót của tụi nó. Tụi nó đã nhìn thấy cả thế giới.”

Tai chú vẫn toàn là tiếng nhịp tim đứt quãng của nàng, nên chú có vẻ đã mất năng lực tư duy. Nàng lại nói nữa. “Cái gì?”

“Tôi hỏi là hôm qua ở xưởng trên núi không phải ngầu lắm hay sao?” Nàng đang đổi chủ đề, đã nói xong về sự thật là nàng có thể chết ngay lúc đó, ngay tại đây, như thể tụi chú đang nói về thời tiết. “Vui ha. Giống cả quân đoàn Woody! Tôi thấy mình như Margaret Bourke-White hơn bao giờ hết. Anh thấy mấy tấm hình Bão Cát của cổ chưa? ôi, Cao Kều, anh có thể xuất hiện trong hình với gương mặt thề này.” Nàng ngả người vào chú và dùng hai tay ôm lấy hai bên má của chú. Lần này, chú chắc chắn là nàng sắp hôn lên môi chú. Nhưng thay vì vậy, nàng nhắm cả thân người nàng vào trước khuôn mặt nhà quê của chú như thể đang dùng mắt chụp hình. Chú sửng sốt như vừa bị đạn chì bắn trúng. Chú chưa từng được nhìn bằng ánh mắt như vậy, và chắc chắn là không phải dưới ánh trăng. Ngay lúc đó chú không biết ánh nhìn đó là kiểu gì. Giờ chú biết nó đến từ “tình yêu thương nhân loại”. Nhưng giống mọi cậu trai mười bảy tuổi khác, đặc biệt là một thằng vốn đã có quá nhiều cảm xúc, chú tưởng đó là tình cảm cá nhân, loại tình cảm khiến chú có cảm giác tê tái chạy dọc từ gương mặt đang được nựng nịu tới bên dưới đầu khóa dây nịt. Cảm thấy bản thân đỏ mặt vì chuyện gây hiểu lầm này, chú cảm ơn Chúa lòng lành là trời lúc đó tối quá nên nàng không thấy gì.

“Sao anh tới đây được vậy, Woody?” Nàng lẩm bẩm. “Làm sao anh sống sót được qua trận Bão Cát cộng với một cơn bão rồi lại lái xe chở hươu cao cổ?” Khi chú không trả lời, nàng mỉm cười và rời tay khỏi mặt chú. “May mắn là anh tới được đây. Tôi không biết mình có thể tin tưởng ai trên chặng đường này, nhưng tôi tin tưởng anh, Woody Nickel.” Nàng liếc nhìn cặp hươu cao cổ. “Tôi thấy tụi mình không thăm tụi nó đêm nay được rồi. Tôi nhớ tụi nó.” Ngả đầu lên cửa sổ bên cạnh, nàng thở dài và nhắm mắt.

Tù chỗ ngồi của chú trên ghế tài xế, chú không thấy gì chỗ cửa sổ phía nàng trừ bóng của Cậu Hai thấp thoáng sau rặng cây dưới ánh trăng. Dù vậy, chú có thể thấy Tóc Đỏ, bóng tối đã ưu ái cho chú thấy. Chú ngắm nàng chừng rất lâu rồi, và khi cất lời, chú nhận ra mình chưa từng dùng tên thật của nàng. Tóc Đỏ? Chú suýt nữa là nói vậy.

Thay vì vậy, chú thì thào, “Augusta?” Tên nàng trên đầu lưỡi chú cảm giác thật kì dị.

Chú chỉ còn nghe thấy tiếng thở chầm chậm, đều đểu của nàng. Nàng đã ngủ. Vào chính cái thời khắc đó, chú muốn hôn nàng. Chú muốn ôm nàng vào lòng, đặt bàn tay lên những lọn tóc màu lửa ấy, và hôn nàng như một người đàn ông thực thụ, như nụ hôn để chấm dứt mọi nụ hôn khác mà chú đã luyện tập từ lúc còn ở sân ga, bằng cách nào đó, sẽ có thể sửa chữa mọi thứ. Nhưng rồi Tóc Đỏ cuộn mình lại như một con bọ chết trên băng ghế, những lọn tóc đỏ nho nhỏ của nàng rớt xuống chân chú. Chú ngồi yên như chết, căng thẳng nghe tiếng thở của nàng. Khi không còn nghe được nữa, chú đặt ngón tay dưới mũi nàng để cảm nhận hơi thở. Rồi khi chú vẫn không cảm nhận được, chú bắt đầu phát hoảng, dùng tay vén xuyên qua những lọn tóc để chạm vào cổ nàng, chờ nhịp đập của tim nàng. Vẫn không có gì. Nó vẫn không đập… rồi nó lại đập. Rồi nó lại không đập nữa. Mỗi lần nó nhảy một nhịp, bản thân chú không thể thở được tới khi chú cảm nhận được nhịp đập kế tiếp. Chú cứ lặp lại như vậy không biết bao nhiêu lần. Một lúc rẫt lâu, chú không nhúc nhích một li. Chú có lẽ đã khiến mình mệt mỏi và cuối cùng thì ngủ mất. Bởi sau đó thay vì lo lắng khi nghe nhịp thở của Tóc Đỏ thì chú lại nghe tiếng má kêu mình…

… “Bé con ơi, con đang nói chuyện với ai vậy?”

… Rồi thấy mình đang phóng ngang nông trại nghèo của cha, trời sáng trưng, đất dưới đôi bốt dần biến thành một rẫy bắp.

… Mình thấy mấy cái đầu hươu cao cổ phía trên thân cây.

… Mình nghe tiếng nước chảy xiết rền vang.

…Và mình nghe tiếng nổ của một cây súng trường - súng của mình - âm vang mãi tới khi nó biến thành tiếng cười khúc khích của một bé gái.

Chú giật mình thức dậy thì thấy Cậu Bảy và Ong Mật đang nhìn chú chằm chằm từ cửa sổ. Trời đã sáng và Tóc Đỏ đã đi mất rồi.

Tim chú đập điên loạn, chú loạng choạng bước ra khỏi xe. Cậu Bảy, đảo mắt về phía căn nhà nghỉ của Tóc Đỏ, nhìn chú cười, một cảnh tượng không thể an tâm được. Gạt chuyện này khỏi tâm trí, chú mở cửa sập ra và bận bịu chăm sóc cặp hươu cao cổ, tụi nó đang giậm chần một chút, như thể đang tự hỏi chú đã ở đâu. Chú đổ đầy nước vô xô, đưa tới chỗ cửa sập, rồi bò ra và mở nóc để tụi nó có thể vươn tới ngọn cây.

Giữ thăng bằng trên đó, chú khó mà di chuyển được với biết bao suy nghĩ. Tệ tới mức ác mộng rẫy bắp trở lại, nhưng chú vẫn còn nghĩ ngợi rất nhiều về Tóc Đỏ. Mà không phải kiểu nghĩ ngợi của con trai khi nhớ về một bóng hồng tóc đỏ đã đặt tay anh ta lên ngực mình. Ý chú là kiểu nghĩ ngợi khi cảm nhận được trái tim lỗi nhịp của Tóc Đỏ. Khi thấy nàng thở hổn hển nhiều như má lúc phổi má bị bám đầy bụi rồi hấp hối tới chết. Khi thấy sự sống le lói dần tắt trong mắt má, đôi mắt duy nhất nhìn chú với bao trìu mến chân thành như vậy.

Cho tới khi chú bắt gặp đôi mắt của Augusta Tóc Đỏ.

Chú còn mãi nghĩ ngợi tới khi nghe ai đó nói chuyện phía dưới.

“Xuống đây nè, nhóc.”

Ông Già đang đứng phía dưới, cầm một cái bao bố tời.

“Để hai cục cưng ăn đi,” ông kêu với lên. “Mấy người đó sửa lốp rồi, trời sáng banh mắt, còn nếu mày ở trên đó ngóng gái của mày, thì nói mày biết là nó đi mẩt rồi.”

Nghe vậy, thấy bản thân sắp đỏ mặt tới nơi, chú ép mình thôi nghĩ về Tóc Đỏ và nhảy xuống đất.

“Xuống mà ăn xúc xích, yến mạch với nước xốt thịt của chế Annie Mae đi,” ông nói, đúng lúc một trong những cậu con trai đẩy một cái đĩa đầy ụ đồ ăn lên mui xe. “Tao đã cảm ơn cả nhà họ vì một đêm nghỉ ngơi ngon giấc rồi. Mày cũng nên làm vậy đi, nếu có cơ hội. Thể hiện mày biết điều một chút.” ông mở cửa xe rồi ném phịch cái bị vô trong. “Ông Jackson đã cho mình mấy củ hành tây nhà trồng đem đi đường để cho mấy sinh vật khồng lổ từ Vườn địa đàng thuần khiết của Chúa đấy!’

“Ông lackson?” Chú hỏi.

“Tên ông chủ nhà đó, nhóc. Nhìn mày không khỏe lắm. Ăn đi. Cho khỏe lên.”

Nên chú ăn, và sự an ủi từ đồ ăn của chế Annie Mae đã làm chú bình tĩnh trở lại.

Trong khi tụi hươu cao cổ tiếp tục nhai đọt cây, cả đại gia đình Bố Già xuất hiện, dẫn đầu là Moses đang vác hai chiếc lốp hoàn hảo không chỗ nào chê được. Bày cái bập bênh ra lần nữa, họ thay lốp vô bánh xe nhanh tới mức còn không làm tụi hươu rời mắt khỏi bữa sáng của mình.

Lúc các bá của Ong Mật đã xuôi xong hết, chú thấy như nó lại đang nhìn chú. Chú nhìn xuống thì con bé đây rồi, đang đứng cách mắt cá chân chú có vài phân. Nó cười khúc khích với chú và ôm chầm lấy hai chân khẳng khiu của chú.

Ông Già cười nắc nẻ, vỗ lên lưng chú. “Chắc nó tưởng mày là con hươu cao cổ đó, tại cái bớt trên cổ mày,” ông nói, hất cằm về phía cái bớt của chú. “Đúng không hả, Ong Mật?” Ong Mật gật đầu, còn Cậu Bảy thì nhấc bổng nó lên lần cuối để trò chuyện với hai con hươu cao cổ hàng thật.

Rồi Ông Già và chú trèo lên ghế xe, cặp hươu cao cổ thò đầu ra khỏi cửa sổ, và tụi chú tiếp tục hành trình trên con đường vòng cùng với cả đại gia đình của Bố Già tụần hành phía sau.

Lúc tụi chú lái xe đi, cảnh tượng bao trùm kiếng hậu chính là thứ vương vấn trong trí nhớ chú nhất suốt những năm sau đó - cặp hươu cao cổ vươn cổ nhìn theo Ong Mật đang ngồi trên vai Cậu Bảy, vẫy chào tạm biệt tụi nó, còn Bố Già và những cậu con trai thì đứng yên như canh gác, tiễn tụi chú lên đường an toàn.

… Mắt chú đã mỏi mệt.

Và viết chì của chú dã ngắn thêm.

Nhưng chú không thể ngừng lại.

Chú liếc nhìn cửa sổ để thấy Cô Gái Hoang Dã vẫn còn ở đó.

Nó vẫn còn, Chúa thương nó. Cục cưng hươu cao cổ vươn mình và dùng cái mõm bự chảng để húc chú. “Được rồi, được rồi,” chú nói. Sau khi chuốt nhọn viết chì, chú hít một hơi thật sâu và trờ lại viết lách… nhưng chú không thể không tự hỏi.

Đôi mắt con có đang dọc hay không?

Câu chuyện này đã tới tay những con người đáng quý như con chưa?

Trái tim già nua của chú một lần nữa thắt lại khi nghĩ tới đây, và nó đang làm chú không thể suy nghĩ tỉnh táo được nữa. Chú biết hỏi câu hỏi này không có nghĩa lý gì, nhưng chú ráng sức viết vào ngày mai, ngay tại đây, tức là gần chín mươi năm sau sự việc, không khỏi khiến người ta tò mò. Chúa biết chú đã làm những việc đáng xấu hổ hơn sau khi sống trên đời được một thế kỉ. Nếu chú viết những việc đó xuống thì chúng sẽ không khiến chú ngập ngừng đâu vì chú già quá rồi. Đặt cạnh những ngày trong chiến tranh của một người thì chúng chỉ là những thứ vặt vãnh. Nhưng cái ngày này tới cùng với tụi hươu cao cổ lại khoét sâu nhiều cảm xúc trong chú hơn. Nếu trái tim của Tóc Đỏ vốn đã bị đau, trái tim chú cũng gần như không được dùng, vì nó thiếu đi mục đích và chỉ dẫn, và tâm hồn nhỏ bé chết tiệt của chú lại càng hư hại gấp đôi. Chú chỉ có thể tin là khi con đã đồng hành cùng hai “sinh vật khổng lồ từ Vườn địa dàng thuần khiết của Chúa” và ôm ghì lấy bằng chứng thối nát đầu tiên của bản thể, con sẽ không bao giờ quên được, dù con có làm gì để bù đắp đi chăng nữa.

Chú quay lại nhìn cô hươu cao cổ dễ thương bên cửa sỗ rồi thở dài.

Tao xin lỗi, Cô Gái.

Tao vẫn còn vô cùng hối hận.