Chương 9 BĂNG QUA TENNESSEE
Một vài tiếng đồng hồ bon bon êm xuôi, phía này của Chattanooga, tụi chú dừng lại ở một trạm xăng kiêm tiệm tạp hóa Texaco, được bao quanh bởi một tán cây với nhiều lá ngon lành để nhâm nhi. Lốp xe kiểm tra thấy ổn, chính xác như Ông Già dự tính. Vậy nên ngay sau khi người đàn ông mặc bộ đồng phục lộng lẫy đính ngôi sao Texaco gặp gỡ cặp hươu cao cổ rồi đổ đầy bình xăng, chú kéo thùng xe qua bên kia để tụi hươu nhai lá rồi quay về buồng lái. Chỉ một phút sau, Ông Già trở lại từ cửa hàng cùng với salami, nước ngọt và một tờ báo mà ông quăng xuống ghế giữa chú và ông.
HITLER VẪN TUYÊN BỐ CHIẾN TRANH, trang nhất của tờ báo hò hét bằng dòng chữ in lớn màu đen, và mắt chú nhìn trúng ngày trên đó - ngày 10 tháng Mười.
Ngày mai là sinh nhật chú.
Chú sẽ tròn mười tám.
Ngay lúc đó, xe của cảnh sát phó hạt chạy tới cùng cái còi nhấp nháy rền vang, làm tụi hươu cao cổ lảo đảo còn chú, như thường lệ, căng thẳng hẳn lên.
“Ờ, mầy ông biết giề không,” ông cảnh sát phó bụng bia nói, ra khỏi xe và kéo cao quần lên. “Tui chắc cái cáo thị chỉ cà rỡn thôi. Trên đó ghi là phải để ý một cô nàng chạy một chiếc Packard xanh lục đuổi theo một xe tải chở mấy con vật chầu Phi cao chót vót. Rùi mấy người đó ở đây.”
Chú co rúm người.
“Ông nói một cái cáo thị hả?” Ông Già hỏi lại.
“Đúng rùi.” Bước tới cửa sổ chỗ chú ngồi, ông cảnh sát kê một bên bốt lên bậc thềm xe. “Từ tít thành phố Nữu Ước. Tui đọc nhiều cáo thị lắm rồi, nhưng cái đó đúng là lạ lùng nhất. Nói cái gì mà một cô vợ bỏ trốn cùng với chiếc xe chạy theo mấy con hươu cao cổ.”
“Ông nói một cô vợ bỏ trốn hả?” Ông Già hỏi.
Chú lại co rúm người. Tệ rồi.
“Đúng rùi. Chạy chiếc Packard của ông chồng á.”
Nghe vậy, chú phải bấu chặt vô lăng để tay khỏi siết chặt thành nắm đấm.
“Mà cổ còn hồng có bằng lái nữa,” ông cảnh sát phó lại tiếp tục. “Có thể là cãi cọ chút đỉnh rồi bỏ đi xuyên hết phân nửa nước Mỹ, nhưng mà hồng quan trọng. Một người đàn bà chạy đường trường một mình, nhiêu đó thôi là đủ để thành nghi phạm rồi, hông phải đàn bà con gái tử tế gì mới đi làm cái chuyện như vậy,” ông nói cùng với một cái khịt mũi khe khẽ đầy đạo đức. “Nếu vậy thì tụi tui vẫn áp dụng Đạo luật Mann ở đây được. Tức là, cậu trẻ à,” ông cảnh sát già nói, “về việc bẫt kì người giới tính nam nào vượt qua ranh giới bang với mục đích đồi truy cùng bất cứ người giới tính nữ nào.” Ông ta gần tới mức chú có thể ngửi được mùi thuốc lá bột phía dưới môi. “Ờ, tui dám cá ăn tiền là cô nàng này có bố đường. Tụi này lúc nào cũng có. Đặc biệt là mấy con gà mái tơ, mà theo mô tả thì cô này tơ thiệt, một con điếm tóc đỏ bốc lửa.”
“Vậy cũng không làm cổ thành con điếm được!” Cái miệng ngu ngốc của chú tự động phun ra.
Ông cảnh sát phó quay ra sau nhổ nước thuốc lá qua vai rồi lấy tay áo lau miệng. “Vậy là,” ông nói, kèm theo một cái liếc mắt đểu cáng dơ bẩn về phía chú, “tui đoán là mấy người thấy cổ rồi.”
Chú cụp mắt, biết là mình làm vậy ngu không kém việc phun ra mấy câu khi nãy.
“Cứ cho là tụi tôi tình cờ gặp cổ,” Ông Già nói. “Phải không, nhóc?”
Chú nhún vai, ráng không nói gì.
“Một mình hả?” Ông cảnh sát hỏi.
“Có vẻ vậy,” Ông Già trả lời. “Cổ chạy theo chụp hình, nói là mình làm việc cho tạp chí Life ? Ông ngừng lại chút. “Phải không, nhóc?”
Chú lại nhún vai. Thấy cặp mắt của ông cảnh sát phó vẫn còn nhìn chú, chú sợ không biết chuyện gì sắp xảy ra.
“Mày tên gì hả con trai?” Ông cảnh sát hỏi.
Ông Già cắt ngang. “Tên nó là Woodrow Wilson Nickel đó ông cảnh sát.”
“Cái tên này nghe quen quen. Hai đứa mình gặp nhau chưa hả, cậu Woodrow Wilson Nickel?”
Chú lắc đầu, chắc chắn rằng cáo thị vùng Cán Xoong là toàn bộ những gì ông này đã đọc.
“Tên nó giống tên ông tổng thống. Chắc vậy thôi.” Ông Già lại cắt lời. “ông cảnh sát phó, nó lái xe được mấy ngày rồi, nó lái ổn lắm.”
“Nhưng mà có thể tui nên dòm qua cái bằng lái của nó. Lấy ra cho tao coi đi, con trai.”
Dù vậy, vào giây phút ấy, những gì chú thấy là một chiếc Packard xanh lục đang chạy tới - mà phía sau vô lăng là thấp thoáng những lọn tóc đỏ. Chú cố gắng không nhìn. Có Chúa biết là chú đã cố gắng. Nhưng chú lại nhìn. Và khi chú nhìn, ông cảnh sát cũng nhìn theo.
“Cái con khỉ… Là con điếm đó hả?” Ông cảnh sát phó già cả bụng bia xoay người nhanh tới mức suýt té dập mông lúc chiếc Packard tăng tốc và biến mất sau khúc cua. “Ở lại đây! Tất cả không được cử động!” Ông ra lệnh cho tụi chú, lò dò tới chỗ xe tuần tra rồi chạy đuổi theo Tóc Đỏ.
“Đứng lại cái dách gì,” Ông Già nói. “Đi thôi.” Trong lúc tụi chú lấn ra đường thì cặp mắt trũng sâu của Ông Già vẫn tiếp tục liếc nhìn chú. “Mày có cần phải nói cho tao biết gì về đứa con gái đó không?”
Chú lắc đầu hơi nhanh và hơi nhiều quá.
Dù chẳng biết điều gì về Tóc Đỏ nếu bị hỏi, chú vẫn giả vờ như mình tội lỗi vì biết điều gì đó, nhưng thứ chú biết là về bản thân chú thì đúng hơn. Chú sẽ không quan tâm nếu nàng cướp nhà băng, vì chú cũng suýt tí nữa thì làm cái chuyện như vậy. Chú sẽ không quan tầm nếu nàng chạy trốn, vì chú có thể cũng làm vậy nếu má và cha không chết trước. Nhưng là vợ? Cái đó thì chú quan tâm. Hơn cả cái đoạn đau tim nữa, ôi Chúa cứu giúp con. Nhưng chú lại buột miệng nói, “ông sẽ khai cổ ra nếu cổ xuất hiện lãn nữa phải không?”
“Tao từng ngoái đầu vì nhiều người phụ nữ rồi, nên tao biết mày đang cảm thấy thế nào,” ông nói. “Ta đã gặp đủ trắc trở rồi, nhóc à, nên đúng vậy đó. Tao sẽ khai. Nếu con nhỏ đó không nói dối về bản thân mình thì nó sẽ ổn thôi. Mà nếu có thì mình cũng sẽ ổn hơn nếu không có…” Nhưng Ông Già chưa kịp nói cho hết câu thì đã phun ra một tràng dài lê thê mấy tiếng chửi thề lớn tới nỗi làm chú sợ mất mật. Ông đang há hốc miệng nhìn xuyên qua chú. Xa lộ đang đi ngang bãi ghép tàu, và ở khoảng sân giữa xa lộ và đường ray là một gánh xiếc, đang dọn dồ sau suất diễn ở Chattanooga. Lần này thì không giấu tụi hươu cao cổ được nữa. Cách tụi chú chưa tới ba mươi mét, hai người đàn ông đang treo một cái biển mới trên toa nhân viên: TỐI NAY Ở MUSCLE SHOALS!
Trong lúc Ông Già chỉ thấy gánh xiếc, chú còn không thể rời mắt khỏi bãi ghép tàu. Đó là nơi mà chú đã nhảy chuyến tàu hàng đầu tiên để tới chỗ Cuz sau khi cái lọ Mason đựng tiền của má cạn kiệt. Lang thang khắp trạm xe lửa đó để ăn cắp đồ ăn và cố gắng nghĩ ra bước tiếp theo phải làm gì, chú bắt gặp mấy người nhảy tàu bằng tuổi mình. Hồi đó, hàng ngàn người như vậy đi tàu chung với bụi đời và những kẻ lang thang. Chú còn có thể nghe tiếng họ đấu tranh: Là tự do đó anh em! Cái cày với mấy con bò là cho tụi ngu! Nên chú nhập bọn, và đây chính xác là cảm giác mà một thằng trai quê như chú cảm thấy: Tự do. Tụi chú giờ đang ở gần gánh xiếc lắm, dù rất cố gắng nhưng chú cũng không thể phớt lờ cái đám ồn ào vô đạo đức được - động vật gầm vang, vài con thì gào thét, mấy người đàn ông rống lên, roi quất vun vút.
“Nhanh lên!” Ông Già hét lên.
Mặc cho chú phóng thật nhanh, ông cảnh sát phó bụng bia lại tiếp tục xuất hiện, ra hiệu cho tụi chú tấp vô lề.
Lúc chú tấp vào, chú tưởng Ông Già sắp nổ tung rồi. Tụi chú ở ngay đối diện cái đám om sòm lạnh sống lưng đó, chuồng voi cách tụi chú chỉ vài bước chân.
Lái chiếc xe tuần lại gần, ông cảnh sát phó hò hét, “Ông thấy con nhỏ đó hông? Con điếm đó có quay lại hông?”
Tụi chú lắc đầu.
“Lần này thì ở yên đó! Đừng có mà nhúc nhích một li nào!” Ông ta lại vòng xe đi mất.
Nên lần này tụi chú ở yên, thấy ngày càng khổ sở vì những tiếng kêu rống, la thét, tiếng roi vun vút ngày càng lớn, mạnh và thô bạo hơn - cho tới khi Ông Già trở nên quá khốn cùng. “Nhìn cách mấy thằng chó đẻ đó đối xử với tụi voi này kìa!” ông hét lên.
Chú không muốn nhìn. Thề có Chúa là chú không muốn. Nhưng chú lại nhìn, và rồi không thể rời mắt.
Mấy con voi, rống thật lớn và thảm thương, đang bị tụi làm công dùng cọc nhọn để thúc vào trong toa chở súc vật.
“Mày biết cái tụi bên gánh xiếc kêu mấy con vật kì diệu này là gì không? Tụi nó kêu là mấy con bò cao su!” Ông Già lắp bắp. “Thấy mấy cái cọc tụi nó dùng để thúc bò cao su không? Cái đó gọi là móc bò đính gai dài hơn bảy phân rưỡi! Trên người voi có mấy chỗ mà mày có thể dùng gai nhọn đâm vô để tụi nó thấy đau đớn thực sự, rỗi với mấy bộ đồ nghế rẻ tiền đó, vẫn luôn có mấy thằng cha đáng khinh cảm thấy hưng phấn một cách bệnh hoạn ở mấy chỗ như thế.” Rồi giọng ông trầm xuống, cực kì trầm. “Đến nỗi mày ước gì tụi voi cũng như tụi sư tử, cắn xé… tới mức nó có thể xé nát tim mày khi tụi nó không… tới mức sớm muộn gì thì cũng có người nào đó cho thằng cha dùng cái móc một cách hả hê đáng khinh kia nếm mùi cây móc bò trên chính da thịt của nó.” Trước khi chú có cơ hội để suy nghĩ về những gì mình vừa nghe, ông nói, “Hông thưa ông, ngay bên kia chính là cái nhóm làm ăn mờ ám có thể quyết định mua một cặp hươu cao cổ một cách dễ dàng. Thằng cảnh sát phó đó đi xuống địa ngục đi - đưa cả đám rời khỏi đây!”
Giờ thì cái đầu óc ngu muội của chú đã ngộ ra bằng cách nào mà Ông Già biết tất cả những điều này.
Ông từng làm việc cho một gánh xiếc, có lẽ còn bỏ trốn để gia nhập hồi còn nhỏ nữa. Lúc nhấn ga để chạy nhanh khỏi bãi ghép tàu, chú chắc chắn tới nỗi chút nữa là chú đã hỏi rồi. Ông vẫn đang nhìn chằm chằm mấy con voi, suy nghĩ những điều mà chú không muốn nghe, toàn là mấy thứ về gánh xiếc mà chú không muốn biết, và chú vốn đã không chịu nổi mấy cơn ác mộng rồi tim bị đau rồi cô vợ chạy trốn. Tệ tới mức khi chú nhìn thấy dăm ba gã lang thang và dân nhảy tàu chạy theo để nhảy lên một toa hàng chạy chầm chậm, chú ước gì mình cũng đang nhảy, đi đâu cũng được miễn thoát khỏi đây.
Tự do, anh em ơi!
Nhưng lúc chú nhìn theo thì một gã lang thang vác một cái nồi trên lưng đã vấp té trên đường ray và khi gã bò ra để khỏi bị cán, chú nhìn thấy mặt gã. Đó là gương mặt của mọi gã lang thang… dạn dày sương gió, bẩn thỉu, thiểu não… giống như gương mặt của gã lang thang chú thấy đã té chết vì đôi giày.
Suýt nữa là lái xe tông vào lề đường cùng kí ức bị khóa chặt đó, chú hất mạnh tụi hươu cao cổ và quăng Ông Già đập người vô bảng điều khiển còn mạnh hơn hồi ở DC nữa. Chắc con nghĩ là ông sẽ nhai đầu chú rồi phun ra, nhưng không, ông chỉ rít lên một chút, vẫn còn lạc trong mớ suy nghĩ về gánh xiếc.
Phải hết tám cây số sau chú mới lái xe một cách bình thường, thêm tám cây số nữa thì chú mới gạt bỏ được gương mặt của gã lang thang. Tới lúc đó thì chú đã đi qua Chattanooga, một lần nữa đất nông trại bao quanh tụi chú, con đường đầy những bảng quảng cáo của mấy thứ mứt, cao lương và rượu táo, nước ngọt RC và bia Jax.
Bên phía chú ngồi, xa lộ đang chạy dọc theo phía bên phải của đường ray và phân cách với nhau bằng vài hàng cây thông thưa thớt. Hết cây số này tới cây số khác, Ông Già cứ nhìn chừng chừng hàng cây đó và chú ước chi mình không biết lý do. Tụi chú có thể nghe tiếng một chuyến tàu hỏa đang tới, và chỉ trong vài giây, một chuyến tàu chở hàng tốc độ nhanh đang trờ tới ở đầu bên kia. Tiếng leng keng lớn lắm, khiến cả hai con hươu cao cổ đều ló đầu ra bên phía có tàu hỏa, xóc mạnh tới độ thùng xe bị nhấc bổng lên khỏi mặt đường. Chú nghiêng qua bên kia, như thể làm vậy có thể khiến cho thùng xe nặng trịch khỏi chúi về phía hàng cây. Nhưng khi Ông Già cũng làm vậy, chú lại thấy ông đang cố gắng hét lên để át tiếng inh ỏi, ra hiệu cho chú dừng xe. Vậy nên chú nhấn thắng gấp, giật mạnh cả chiếc xe để ngừng lại bên vệ đường. Khi chuyến tàu hàng ầm ầm tiến tới, Ông Già túm lấy cái bao bố của Bố Già, leo lên bên xe không có tàu hỏa, và bắt đầu phân phát hành tây qua cửa sổ của tụi hươu cao cổ, hết củ này tới củ khác. Ông đang cố gắng để tụi nó rụt đầu vô - tụi nó nghe theo - và, mặc dù bầy giờ tụi chú đã biết cái then cài không nghĩa lí gì với tụi hươu cao cổ, ông vẫn cài lại. Sau khi chuyến tàu dài ngoằng đi qua, Ông Già và chú, hai tai còn ù, ngồi mãi trong buồng lái, không còn chút sức lực để nhúc nhích tới khi những tiếng âm vang dứt hẳn.
“Đường ray còn sát bên xa lộ bao lâu?” Chú gom hết can đảm để hỏi.
“Nguyên ngày,” là câu trả lời của Ông Già.
Suốt một tiếng đồng hồ tiếp theo, tụi chú lái dọc xa lộ, để ý đường ray và kiếng hậu, cặp hươu vẫn yên lặng trên xe, trời chuyển xám xịt cho hợp với tâm trạng. Chú cứ nhìn ra sau để tìm Tóc Đỏ. Có nhiều xe trên đoạn xa lộ đó nhưng không có chiếc Packard màu lục. Nếu nàng ở đó, và chú biết là nàng ở đó, nàng hẳn phải trốn rất giỏi để không gặp cả ông cảnh sát lẫn tụi chú.
Cuối cùng, tụi chú nghe tiếng một đoàn tàu nữa, lần này thì di chuyển từ phía sau lưng. Thấy đèn nhá vàng rồi đỏ trong kiếng hậu, tụi chú biết đó là gánh xiếc. Những toa tàu chở voi, ngựa và sư tử dán kín quảng cáo chú hề và tay quản trò đội nón chóp cao ngày càng nhích gần hơn đến lúc cả đoàn tàu di chuyển ngay sát bên tụi chú.
Lần này không còn lề đường để tấp vào nữa. Chú phải tiếp tục chạy. Hoảng loạn, Ông Già tìm kiếm trên đoạn đường phía trước một đường nhánh nhưng vô vọng.
Đoàn tàu bây giờ gần tới mức mấy con sư tử muốn ngồi trong buồng lái còn được. Điều duy nhất còn ổn chính là tụi hươu cao cổ vẫn còn đứng trong xe rất yên ắng, không bị nhìn thấy.
“Thôi nào, mấy cục cưng… ở yên đó,” Ông Già cứ khe khẽ nhắc lại như vậy, mỗi vài giây là phải liếc sang mấy cánh cửa sổ đã gài chốt. “Ở yên đó.”
Nhưng rồi một trong những con mèo lớn của gánh xiếc gầm lên, và hai cái đầu hươu cao cổ thò ra để kiếm bọn sư tử. Vậy nên tụi hươu bị nhìn thấy, được thôi. Một quý bà có râu gần cửa sổ thùng xe Pullman thấy đầu tiên. Rồi một người đàn ông bụng phệ với bộ rầu ghi đông đẩy cửa sổ lên để chồm nửa người ra ngoài nhìn. Đó chính là người trên toa nhân viên ở Maryland.
Chú tưởng Ông Già sắp nổ tung thành từng mảnh ngay tại chỗ, ông hò hét và chỉ trỏ một con đường liên huyện phía trước mặt. Vì cua quá nhanh, tụi chú mém để xe lật ngang còn hai bánh nhưng vẫn không dừng lại tới khi thấy tấm biển mới phất phơ treo trên toa nhân viên màu đỏ: TỐI NAY Ở MUSCLE SHOALS!
Tới lúc tụi chú tìm được đường trở về xa lộ qua những con đường ngoằn ngoèo thì mấy toa tàu đã đi mất và chắc hẳn gánh xiếc đã tới Muscle Shoals rồi.
Khoảng ba mươi hai cây số tiếp theo, xa lộ Lee hoàn toàn vắng lặng. Tụi chú đã đi suốt nhiều cây số im lặng rồi, nhưng sự im lặng này lại như ẩn chứa điều gì đó. Khi bầu trời trở nên tối sầm và xám xịt hơn, tụi chú lái xe vào một vùng thấp cùng một cơn bão đang chuẩn bị ập tới, được hoàn thiện bởi màn sương mù đường đột và dày đặc. Những chiếc xe đằng sau tụi chú có lẽ cũng đã biến mất.
Suốt mười phút đồng hồ, tụi chú chỉ có thể nhích từng chút một, hi vọng những người khác cũng vậy.
Từ trong màn sương, một tấm biển vụt qua.
TRẠM DỪNG CHÂN HIỆN ĐẠI CHO DU KHÁCH CỦA YELLER
ĐI TIẾP KHOẢNG 90 MÉT
“Dừng ở đó đi,” Ông Già ra lệnh. “Ta phải tìm cách tới trước đoàn tàu đó vào ngày mai rồi tới Memphis lúc họ còn bận chất đồ. Nếu tính toán thời gian đúng thì ta sẽ tới điểm dừng bảo trì của họ trước, vậy là xong.”
“Mấy người đó có dừng bảo trì?”
“Đây là gánh xiếc miền Nam,” ông nói. “Trừ khi mọi thứ thay đổi thôi. Mà không có gì thay đổi hết.”
Hơn chín mươi mét phía trước, một tấm biển lại xuất hiện trước mắt.
TRẠM DỪNG CHÂN HIỆN ĐẠI CHO DU KHÁCH CỦA YELLER
QUÝ KHÁCH ĐÃ TỚI NƠI
Tụi chú có thể nhìn ra mấy cây thông cao bao lấy cổng vào, thân cây được sơn màu vàng chói. Chú quẹo vô và chạy xe về phía bảng hiệu đèn neon đỏ ghi VĂN PHÒNG đang soi sáng như đèn sương mù ở giữa rừng cây.
Chỗ này là trạm dừng nhà lưu động, chứ không phải nhà nghỉ. Trừ nhà lưu động của chủ nhà và một vài căn có vẻ là cho thuê, chắc chỗ này chỉ có mình tụi chú, dù không thể chắc chắn được vì sương mù. Sau khi Yeller được gặp-gỡ-hươu-cao-cổ một mình một lúc, còn tụi chú thì ngầu nghiến phần ăn tối đặt ngay trên bàn trong căn nhà lưu động của ông, thì Yeller thắp đèn.
“Rất là mừng các ông thấy bảng hiệu của chúng tôi trong sương mù này, đã vậy còn hai người bạn này nữa,” Yeller nói, hất mặt về phía tụi hươu cao cổ. “Chúng tôi là chỗ dừng duy nhất trong vòng cả cây số bên phía này của Muscle Shoals.”
Tụi chú đi theo ông xuyên qua màn sương, còn ông thì thắp đèn dọc theo đường đi. Đi qua căn lưu động mà tụi chú thuê chùng ba mươi mét, ông ra hiệu cho chú đậu chiếc xe ở bên rìa trạm dừng chằn dưới một hàng cây sum sê, măy thân cây quét sơn vàng vây quanh tụi chú trong màn sương mờ đặc như thể đang đóng khung cả thế giới. Treo đèn lên cây, Yeller vẫy chào rồi trở về theo hướng đèn neon ở văn phòng.
Hoàng hôn buông trong sương mù một cách kì quặc. Lúc tụi chú chăm sóc cho cặp hươu cao cổ, ánh sáng xung quanh chuyển từ xám trắng sang xám rồi đen xám cho tới khi thứ ánh sáng duy nhất còn sót lại là ánh đèn lồng tỏa xung quanh trạm dừng vắng tanh. Ông Già thông báo là như thường lệ ông sẽ ngủ vào ca gác đầu tiên và trở về căn nhà lưu động của tụi chú.
Nhưng chú không làm điều thường lệ. Chú không leo lên và duỗi mình trên tấm ván gỗ chéo giữa cặp hươu để ngắm sao nữa. Chú sẽ không nhìn vì sao nào tối nay, nhưng không phải vì sương mù. Thật ra, ngay sau khi tụi hươu cao cổ bắt đầu nhai lại, chú đã đóng cửa sổ và nóc xe trước khi tụi nó có thời gian vươn người tới chỗ chú, cũng là đóng cửa lòng mình tối nay. Khi chú ngồi xuống bậc thềm xe, cáu kỉnh và kiệt sức, đầu óc chú vẫn còn đầy ắp hình ảnh của những kẻ lang thang bị giết hại, mấy con bò cao su và những bà vợ chạy trốn, mà chú cũng không chắc mình bực cái gì đầu tiên. Chú phải tự nhắc nhở mình là ngày mai sẽ tới Memphis. Chỉ còn một ngày thôi là không còn gì quan trọng nữa. Mình sẽ lên đường đi California, chú cứ lặp lại, và không bao lâu sau thì đã chìm đắm trong những suy nghĩ chợt xuất hiện về việc ngồi trong một toa tàu sang trọng tới miền đất của sữa và mật, nơi chú sẽ sống như một vị vua hái trái từ trên cây và nho từ giàn nho, nhâm nhi nước từ những dòng sông mát trong.
Chú chỉ cần tới ngày mai thôi.
Chuẩn bị cho một đêm dài hơn thường lệ, chú nhìn quanh tìm Tóc Đỏ xem nàng có xuất hiện không trước khi chú nhớ ra là mình không muốn nàng xuất hiện. Nhưng như vậy cũng không làm chú thôi mong ngóng nàng. Thật ra, chú đã mong ngóng nhiều tới mức mỗi lần thấy gì đó di chuyển, chú lại đứng dậy để đối mặt với bà Augusta Tóc Đỏ.
Thay vì vậy, từ trong bóng tối xuất hiện một bóng dáng cao ráo, bước đi như thể hắn ta đang đi dạo trong rừng. Hắn gần như đối mặt với chú trước khi chú kịp thấy mặt, và thứ đầu tiên chú nhìn thấy trong màn sương là bộ râu ghi đông. Đó chính là người đàn ông bụng bia trên tàu hôm trước - mặc một bộ vest đuôi tôm, đeo nơ đỏ và mang bốt cao tới đầu gối - giống như hắn vừa nhảy ra từ tấm áp phích quảng cáo dán trên tàu, người quản trò bước ra đời thực. Ông ta còn đội một cái nón chóp nữa. Rồi chú để ý ông ta cầm trên tay một thứ gì đó. Nó là một cây gậy cán ngà, chú ước gì mình có cây súng hoa cải của Ông Già vì đã từng nghe chuyện súng đạn được giấu trong mấy cái gậy như thế rồi.
“Percival T. Bowles hân hạnh được phục vụ,” hắn ta nói, nhấc hờ vành nón. “Còn tên của cậu là gì?”
“Không chắc có liên quan gì tới ông,” chú nói, mắt không rời cây gậy.
Hắn đặt cả hai tay lên trên cây gậy. “Nhìn cậu có vẻ là một anh chàng trẻ tuổi ra trò đó. Có lẽ cậu đã thấy tàu chở gánh xiếc của chúng tôi, Sự kiện bùng nổ của Gánh xiếc Di động Bowles &Water,” hắn tiếp tục nói, khoe mấy cái răng nanh như chó sói trong lúc làm cái động tác mà chú nghĩ là cười.
“Tôi có thấy.”
Hắn ta lấy mấy ngón tay múp míp nhịp trên đầu gậy. “Cậu không nói nhiều nhỉ? Dấu hiệu của một người đàn ông khôn ngoan. Cậu thích gánh xiếc không, con trai?”
“Đừng kêu tôi là con trai.”
“À. Một người đàn ông tỉ mỉ, đồng thời cũng là một người đàn ông khôn ngoan. Tôi nể trọng điều này,” hắn nói, rôi tiếp lời. “Chúng tôi ở ngay dưới đường. Hái suất diễn tối nay. Đang trên đường trở về kia, cậu có thể thấy đó,” hắn nói thêm, cúi xuống bộ đồ đang mặc. Hắn rút từ túi áo trên ngực vài tấm vé. “Đây là vài tấm vào cửa miễn phí, nếu cậu muốn tham gia cùng chúng tôi. Vé cao cấp của quản trò.”
“Tôi không muốn.”
Hắn ta lại nhe răng nanh cười lần nữa. “Tôi không trách móc cậu chút nào đâu. Cậu cũng có cả gánh xiếc ở đây mà, phải không?”
Trong lúc hắn để mấy tấm vé vô trở lại túi áo trên ngực, chiếc áo vest đuôi tôm đã he hé đủ để chú liếc thấy một cây súng ngắn trong bao đựng đeo bên hông.
Hắn thấy là chú đã thấy.
“À.” Hắn chạm tay vào. “Tôi có quên nói cho cậu biết tôi cũng là tay thuần hóa sư tử không? Một người thuần hóa sư tử không bao giờ biết chính xác khi nào mình cần hạ gục con vật, cậu biết đó.” Rút tay trở lại để đặt lên trên tay kia, hắn liếc ngang chú rồi nhìn chiếc xe đầu kéo. “Thì ra đây là công việc tử tế mà cậu làm.”
“Không phải công việc,” chú nói. “Tôi chỉ lái xe chở tụi nó thôi.”
“À thì bây giờ, tôi sẽ cho cậu công việc. Tôi sắp tuyển thêm người. Cũng mong muốn sẽ sớm có được vài con hươu cao cổ.”
Tóc gáy chú dựng đứng hết lên. Chú từng có cảm giác này lúc đi săn trong mấy bụi cây ở vùng Cán Xoong, cứ như một cặp mắt thú hoang nào đó đang dõi theo chú. Chú liếc nhìn màn sương xung quanh trong lúc ông quản trò nhấc cây gậy, dựa nó lên một bên cánh tay và rút ra cái gì đó khác từ trong túi áo ngực. Hắn giấu nó trong lòng bàn tay, rồi mở các ngón tay ra và chìa về phía chú. Đó là một đồng vàng hai mươi đô có hình con đại bàng, lần đầu tiên trong đời chú được nhìn thấy, và ánh sáng từ ba cái đèn lồng lại càng làm nó ánh vàng nhiều hơn nữa.
“Nghe nè!” Hắn nói, rồi thảy nó cho chú.
Chú chụp lấy nhưng không nắm chặt đồng vàng. “Thấy đã phải không?” Hắn nói, với tay giật nó khỏi lòng bàn tay chú. “Cậu có cá cược không? Tôi dám chắc cậu thấy tỉ lệ năm mươi - năm mươi là khá ổn, phải không? Cậu có thích đồng đại bàng hai chục này không? Chỉ cần nói là nó sấp hay ngửa thôi là cậu có thể lấy nó.” Hắn tung đồng xu rồi lấy tay đập nó lại trên mu bàn tay kia. “Nói đi.”
Chú không nói gì thì hắn ta nghiêng đầu hối thúc. “Thôi nào cậu trai trẻ. Là mặt nào? Ngửa? Hay sấp? Nếu cậu thắng, cậu không phải lấy nó đâu. Chỉ là để vui thôi.”
Chú ngập ngừng. “Ngửa.”
Hắn ta nhấc bàn tay đang phủ đồng xu. Là sấp. Rồi nhe răng nở một nụ cười tươi và trơn tru tới mức chú suýt trượt té, hắn lật đồng xu qua một bên… Mặt bên kia cũng là sấp.
Chú bật ngửa. “Ông đang muốn chứng tỏ cái gì!”
“Mánh hay, cậu không đổng ý sao? Lúc nào cũng hiệu quả. Cậu đã từng nghe ai nói “sấp lên” chưa?” Hắn chìa đồng tiền ra. “Cho cậu đấy. Một cậu trai trẻ thông minh như cậu có thể tận dụng nó.”
“Không muốn,” chú lầm bầm. “Không thích mánh.”
“À, cũng là một người đàn ông thật thà nữa.” Hắn lật cổ tay lên và có tận hai đồng vàng trong lòng bàn tay hắn. Hắn lật một lần nữa và chỉ còn có một. “Cậu trai trẻ, tôi hứa không có mánh khóe gì hết. Chỉ có một đề nghị cung cấp dịch vụ đàng hoàng. Đây là một đồng đại bàng hai chục, hàng thật. Cứ tự nhiên. Kiểm tra đi.”
Chú lật đồng tiền trong lòng bàn tay hắn. Đồng tiền có số mặt sấp ngửa hợp lí - một sấp, một ngửa.
“Cậu chỉ cần cho tôi nhìn qua hai con hươu cao cổ vượt bão thôi,” hắn nói, hất mặt về phía chiếc xe.
“Làm sao ông biết?”
“Sao vậy, cậu nổi tiếng mà, cậu trai trẻ. Cậu đã lên tất cả các mặt báo suốt chặng đường. Tôi đoán cậu sẽ đi cùng trên xa lộ Lee, và tôi đã đúng. Nên cậu nói sao?
Chỉ liếc nhìn một cái thôi và đồng tiền sẽ là của cậu.” Khi chú không vồ lấy liền, hắn cầm nó giữa ngón tay cái bự mập và ngón tay trỏ rồi chìa ra, đông tiền dường như lấp lánh trong ánh đèn.
Thấy vàng ở cự li gần như vậy, chú quên hết về đồng tiền gian lận, cơn giận của Ông Già ở chỗ đường ray, và hầu như là mọi thứ khác. Vào cái thời mà con có thể mua một cái bánh mì kẹp xúc xích và một li nước ngọt chỉ với năm cent, một đồng vàng hai mươi đô là đủ để thành John D. Rockerfeller. Chú không chỉ muốn nó, chú cần nó. Không có giao kèo nào ác hiểm hơn là mời một thằng khố rách áo ôm giữa Thời kì Đen tối lấy một đổng vàng. Chú đã húp xúp cỏ lăn mà sống và thèm khát được ăn thịt gấu mèo nấu trên đống lửa được đốt trong thùng sắt của mấy thằng chết đói. Cho tới tận những ngày nhập ngũ chú mới tin là ngày mai còn có đồ ăn mà không phải sợ sệt gì. Mình đang trở lại Memphis một mình, phải không? Chú tự trấn an, nhìn về phía đồng vàng đó. Cho dù có vé đi Cali thì mình cũng cháy túi rồi đói sớm thôi, đúng không? Ngay lúc đó, thằng trai trẻ ngu ngục trong chú bắt đầu tính toán cách để vừa có thể lấy được đồng vàng vừa không gây hại gì cho tụi hươu cao cổ và Ông Già. Chú đã kiêu ngạo tin chắc là mình có thể làm được, mặc dù vẫn chưa học được rằng không ai lại lật ngược giao kèo ác hiểm được, chỉ có thiên đàng hoặc địa ngục để trả giá cho mọi thứ trên đời này và không có gì nằm giữa cả.
Chú với lấy đồng vàng.
Hắn giấu đồng tiền trong lòng bàn tay. “Đầu tiên phải cho tôi xem đã.”
Nên chú bước lên cái chắn bùn để mở cửa sổ chỗ hai con hươu cao cổ. Nghe tiếng chú rất gần, cả Chàng Trai và Cô Gái tự thò đầu ra ngoài.
“Ô…,” tên quản trò reo lên cùng với vẻ khoái trá đầy nịnh nọt, hai mắt sáng lên. “Chúng thật là kì vĩ! Còn non quá chứ! Hoàn hảo, hoàn hảo.”
Dù vậy, tụi hươu nhìn hắn một phát rồi rụt đầu vô hết.
Hắn kêu ca. “Đừng, đừng, đừng, bắt tụi nó ra đi chứ!”
Vì chú thừa biết mình không thể bắt một con hươu cao cổ làm gì hết, mà hắn thì có vẻ không biết, nên chú cứ tưởng là xong rồi. “Ông thấy tụi nó rồi. Giao kèo là giao kèo,” chú nói, hai mắt không rời bàn tay siết chặt kia.
“Nhưng tôi phải thấy nhiều hơn.” Hắn mở bàn tay có đồng vàng ra. “Nhiều hơn thì đồng này là của cậu. Tôi hứa.”
Chú nhìn tới nhìn lui đồng vàng rồi chiếc xe, ngẫm nghĩ điều ít gây hại nhất mình có thể làm để lấy đồng tiền.
Vì hắn đã thấy phần đầu, chú mở cửa sập để lộ phần thân dưới của cả hai con hươu cao cổ, hi vọng vậy là đủ.
Nhưng không.
“Tới luôn đi, cậu có thể làm tốt hơn mà.”
Giờ điều duy nhất chú có thể nghĩ tới là mở phần nóc để nhìn xuống. Chú trèo lên cái thang bên hông, tưởng tay quản trò thân hình hột mít sẽ trèo lên theo.
“Cậu trai trẻ,” hắn gọi với lên, xoa xoa cái bụng, “phải có cách nào khác chứ.” Thấy chú không sốt sắng ngay, hắn lại vẫy vẫy đồng vàng trước mặt chú. Chú không nghĩ ra cách nào khác. Hắn giờ đang thảy lên thảy xuống đồng tiền trong lòng bàn tay, cốt để nó lấp lánh trong ánh đèn. Có một con đại bàng hai mươi đô, bằng vàng và lấp lánh. Đợi. Chú. “Của cậu đó, con trai! Cậu không muốn à?”
Rời mắt khỏi đồng vàng, chú liếc nhìn xung quanh, hai mắt dừng lại ở một cái kẹp siết lớn gần tay chú, một trong bốn cái kẹp “dốc thoải” nặng kí giữ cho cả mặt bên đứng thẳng được. Chắc là mình có thể hạ vách bên hông xuống - chỉ một chút thôi , chú nghĩ vậy. Không màng tới việc bản thân chưa từng đụng vô mấy cái kẹp và cũng không màng tới việc chú không hề biết tấm vách bên hông nặng cỡ nào. Kéo xuống nửa chừng thôi - mình sẽ chỉ làm tới chừng đó , chú tự nhủ, sự cám dỗ cũng ghê gớm như dặm trường.
Chú mở nóc xe trước, rồi bắt đầu xử lí mấy cái kẹp trên mặt hông. Ông Già đã dùng thanh gỗ chắn xuống để giữ nó cho cả chuyến đi, và chú phải nới lỏng chúng ra. Con chắc sẽ nghĩ rằng làm vậy sẽ cho chú thêm thời gian để suy nghĩ xem mình đang làm gì. Nhưng đồng vàng đó đã làm chú tin rằng mình có thể chơi khăm một con mèo mập trọc phú già mưu mô, kẻ đã khiến chú điếc, đần và đui trước mọi thứ, trừ đồng vàng đó. Khi cái kẹp cuối cùng cũng được mở, chú vịn phần thân giữa và dùng một chân chống lên cái chắn bùn -tức là xa nhất có thể - và hạ vách ngăn chở hươu cao cổ xuống, lần đầu tiên kể từ khi tụi hươu được lùa lên trên đó. Chú chắc có thể vẽ cả một biểu đồ giải thích cách làm, ông Percival T. Bowles quan sát nhất cử nhất động của chú. Đây có lẽ còn tệ hơn cả trò liều mạng của mấy thằng ngu, cái trò ích kỉ và chết người mà chú hối hận ngay khi thực hiện. Bởi ngay khi bước xuống, chú trượt chân trên cái chắn bùn trơn trượt vì dính sương và té, lưng tiếp đất, còn cả mặt bên của thùng thì ngã đè lên người chú tới tận ngực.
Trong khoảnh khắc đó, không còn gì ngăn cách giữa cặp hươu cao cổ và tụi chú, trừ thinh không. Tụi nó ngả nghiêng nhặng xị, nhảy dựng lên, rung lắc cái thùng xe, sẵn sàng đá bất cứ ai tới gần. Mà chú chính là người ở gần. Chú nhìn tụi nó trừng trừng. Những viên bi màu nâu đầy sự tin tưởng kia giờ đang tràn ngập nỗi sợ hãi và rối loạn, còn chú thì thấy như đứt từng khúc ruột. Cứ như thể chú thoáng thấy hai tâm hồn của hai con hươu cao cổ vĩ đại, còn tụi nó, Chúa ơi cứu con, lại thoáng thấy cái trạng huống đáng thương của chú, vì chúng đã bắt đầu dùng mấy cái cẳng chân mỏng manh cào lên vách hông, tránh xa khỏi chú. Tụi hươu cao cổ đã thấy được con sư tử trong chú. Tụi nó có thể làm cái việc mà tụi nó làm với bọn sư tử bất cứ lúc nào. Tụi nó sẽ đá cho chú chết tươi như cái giá chú xứng đáng phải trả, nhưng làm vậy tụi nó sẽ té chổng gọng xuống ván gỗ.
Nếu chú không làm gì đó và làm thật nhanh thì cả chú lẫn tụi nó sẽ đi đời nhà ma.
Lồm cồm bò dậy và dùng toàn bộ sức nặng của mình đang kẹt dưới tấm vách đã ngã bẹp dí, bằng cách nào đó chú đẩy nó đứng lên được, nhảy trở lại lên tấm chắn bùn, rồi đẩy cái thứ nặng trịch qua khỏi đầu, kẹp chặt lại nhanh nhất có thể tới khi nóc và vách ngang đã được gài chặt trở lại.
Loạng choạng nhảy xuống đất, chú nhìn chằm chằm vào cửa sổ, lòng thầm cầu nguyện tụi hươu cao cổ sẽ xuất hiện. Thay vì vậy, chú lại bắt đầu nghe thấy âm thanh mà chú hi vọng không bao giờ phải nghe lại lần nữa - tiếng gào của hươu cao cổ khi hoảng loạn từ cái đêm gặp mấy thằng vô lại. Trèo lên được nửa cái thang bên hông, chú ráng hết sức có thể và bắt đầu rủ rỉ qua mầy thanh cửa sổ bằng tiếng hươu cao cổ như Ông Già đã làm, sợ rằng - chính xác hơn là biết rằng - tụi nó sẽ không bao giờ tin tưởng chú nữa. Dù vậy, chú rất sốc vì khi chú tiếp tục rủ rỉ với tụi nó thì những tiếng gào bắt đầu dịu dần. Chú lại rủ rỉ nhiều hơn nữa. Chỉ vài giây sau, tụi hươu cao cổ đã im lặng hẳn, và rồi, tha thứ cho tất cả sự phản trắc của chú, tụi nó lại di chuyển về phía chú.
Điều này đúng là quá đáng. Trong một khoảnh khắc, chú lại thấy đôi mắt màu nâu vỏ táo đầy tin tưởng của con ngựa cái nhà chú trong tụi nó, làm sống lại kí ức về tội lỗi đã đẩy chú chạy tới chỗ Cuz, và chú chỉ muốn hét vô mặt tụi hươu cao cổ rằng Tụi mày dám tha thứ cho tao hả - dám tha thứ hả! Nhưng thay vì vậy, chú ngồi sụp xuống đất và co ro để khỏi ngất xỉu, biết là mình đã né được viên đạn do mình tự bắn ra.
“Tự xốc dậy đi, cậu trai,” chú nghe giọng Bowles nói. “Tụi nó chỉ là động vật thôi mà.” Nghe những lời của cha mình thốt ra từ miệng hắn, thứ duy nhất kiềm chú khỏi đấm vô bản mặt heo của hắn chính là cặp mắt mà chú cảm giác như vẫn còn theo dõi tụi chú từ trong màn sương. “Cậu phải nhắc tụi nó nhớ ai là ông chủ ở đây, vậy thôi,” hắn tiếp lời. “Giờ thì hãy thử một lần nữa.”
Chú nhổm cái mông đáng thương của mình lên rồi tự ép mắt mình dứt khỏi bàn tay đang nắm đồng vàng của hắn. “Tôi không phải là người ông cần hỏi xin để nhìn thêm.”
Hắn săm soi chú một lúc, giờ ánh đèn làm hắn nhìn giống Lucifer. “À, vậy thì là ai?”
“Ông Jones,” chú lầm bầm.
“Rồi ông Jones đó đang ở đâu?”
“Không muốn đánh thức ổng.”
“Vậy thì.” Hắn lại nhe hàm răng chó sói ra mà cười. “Đồng vàng hai chục đô này vẫn là của cậu, và vẫn còn nhiều hơn thế ở chỗ cũ của nó. Ta đang sống trong thời đại cơ hội, cậu trai trẻ à. Cậu cần trả giá để có được thứ mình muốn, nhớ đó. Lời mời làm việc vẫn còn ở đây. Percival Bowles là một người bạn tốt.” Hắn nhìn lại chiếc xe đầu kéo. “Tiếc thật, phải không? Tụi động vật này, thật khó để có được tụi nó nhưng tụi nó lại chết sớm quá, không bao giờ kịp sinh sản trước khi chết. Nhưng mà, trời ơi, vẫn còn có thể kiếm tiền khi tụi nó còn sống mà. Của cậu đây.”
Chú đã thôi không nghe kể từ khúc “Đồng vàng này vẫn là của cậu” rồi, mãi cho tới sau này chú mới hiểu được ý nghĩa thật sự của những lời hắn nói. Ngay sau đó, hắn mở bàn tay ra. Đồng vàng đại bàng hai chục đô ở ngay đây. Chú giật lấy nó, nhanh chóng nhìn hai mặt, và rồi nhét nó vô túi trước khi hắn đổi ý.
“Tôi sẽ trở lại để nói chuyện với ông Jones vào sáng mai.” Hắn nhấc nhẹ vành nón ngớ ngần của mình rồi biến mất trong màn sương, và chỉ cảnh tượng này là đủ sởn gai ốc rồi, không cần thêm người đàn ông mặc bộ vest màu vàng, đội nón chóp và mang bốt đen.
Bước xuống bậc thềm xe, chú lấy đồng vàng ra để ngắm nhìn dưới ánh đèn. Chú hẳn là đã ngắm kĩ và thật sự rất lâu, vì lúc chú vẫn còn ngắm nó thì Ông Già xuất hiện từ trong màn sương để đổi ca gác với chú, và chú nhét nó trở lại thật sâu trong túi.
“Mọi thứ ổn chứ?” Ông Già hỏi.
Chú gật đầu, vội vã đi qua ông để tới căn nhà di động đã được thuê, thả mình xuống giường, và nhìn trừng trừng vào bóng đêm. Cho tới khi trời sáng, chú chỉ dành mấy tiếng đông hồ đó để chờ đợi đêm chuyển thành ngày, mân mê đổng vàng mới của mình và chỉ nghĩ về cái vé tàu từ Memphis.
Dù vậy, tới gần sáng, chú chắc là đã ngủ quên rồi, vì chú có lẽ đã nghe thấy tiếng gào thét kinh sợ của tụi hươu cao cổ lần nữa, ở đằng xa, như trong một giấc mơ.
Chú ngồi dậy để nghe, nhưng tiếng động chú nghe được lại giống giọng của… Tóc Đỏ.
“WOODY! WOODYYYYYY!”
Trên người không mặc gì ngoài quần lót và giày bốt, chú mở toang cửa để nhìn xuyên qua làn sương còn vắt ngang trên cây, và những gì mắt chú thấy làm chú lạnh hết sống lưng.
Một rẫy bắp.
“WOODY!”
Cách chỗ chú chưa tới ba mươi mét, Tóc Đỏ đang đứng kế chiếc xe đầu kéo. Toàn bộ vách ngăn bên phía rẫy bắp đã bị mở bung sát xuống sàn, và nàng đang há hốc miệng. Nhìn hai cái chuồng chở hươu cao cổ.
Phóng thật nhanh qua sỏi đá và mấy trái thông, chú nhìn về phía nàng đang nhìn, và cảnh tượng trước mắt gần làm chú ngã quỵ. Chàng Trai vẫn còn trong thùng xe Pullman, nhưng không hẳn, vì nó đang nghiêng về phía vách bị mở nhiều tới mức trọng lực có thể sẽ sớm cho nó đi tới bước kế tiếp.
Nhưng Cô Gái biến mất rồi.
Từ sau lưng, chú lại nghe tiếng gào thét vì hoảng loạn của hươu cao cổ - lần này lớn hơn và dài hơn. Quay hẳn người lại, chú có thể thấy một đám náo động phía bên kia xa xa của rẫy bắp, thân bắp nằm rạp tứ phía. Kia là Cô Gái, cái cổ dài của nó vươn cao khỏi mấy thân bắp khô khốc. Hai gã đàn ông đang di chuyển về phía nó, một người kéo dây thòng lọng quanh cổ nó, một người khác thì xoắn dây… còn nó thì đang đá liên tục… đá vào lũ sư tử.
Nếu cảnh tượng này chưa đủ kinh hoàng thì ở giữa chú và họ là Ông Già, lảo đảo như đang xỉn rượu, súng hoa cải nhắm ngay bọn nó. Nếu bắn như vậy, với cây súng như vậy, khả năng cao là ông sẽ bắn trúng Cô Gái hơn là đám người quỷ quyệt đang đuổi theo nó. Chú phải cản ông lại.
Nghe tiếng Chàng Trai đang giậm chân sau lưng mình, chú quay lại. Nó đang cào cào tấm vách bị hạ xuống. Nó phải tới chỗ Cô Gái. Một lần nữa, chú dùng hết sức nâng tấm vách lên, vội vã dựng lên trước mặt nó, Tóc Đỏ cũng phụ một tay, rồi chú chộp lấy cây súng trường trong buồng lái và phóng tới chỗ Ông Già.
Chú chạy được nửa đường thì nghe tiếng súng hoa cải.
Choáng váng, chú vấp té, làm rớt cây súng giữa những thân bắp, rồi chuẩn bị tinh thần cho điều chú sắp phải thấy.
Nhưng Ông Già đã bắn hụt và khuỵu xuống.
Bên kia rẫy bắp, hai gã đàn ông, giờ biết rằng Ông Già không thể cản bọn họ nữa, lại trở lại với trò dơ bẩn của mình. Một tên đang vật lộn với sợi dây thừng quấn quanh cổ Cô Gái Hoang Dã, Cô Gái thảy hắn vòng quanh như một con rối tới khi nhổm lên và tên thứ hai tìm thấy mục tiêu - chân trước của nó. Kéo dây thật căng, giờ gã đã bẹt chân của Cô Gái sang một bên và đang vây lấy nó.
Trong một khoảnh khắc, chú căng mắt nhìn cảnh tượng này, không còn nghe thấy gì ngoài tiếng nhịp tim như sấm rền của mình. Rồi nhấc cây súng lên, chú đứng dậy, ngắm và bóp cò.
Khi thằng tay sai quấn dây ngang chân Cô Gái ngã xuống đám thân bắp đang nằm rạp và thằng còn lại chộp lấy đầu dây, chú không còn nghe thấy gì ngoài tiếng nổ súng trong cơn ác mộng của mình… Vì đó không phải là lần đầu tiên chú bắn một người.
Hai thằng tay sai biến mất vào trong rẫy bắp, và chỉ vài giây sau, chú thấy mấy vệt vàng và đỏ chạy lảo đảo giữa những thân bắp.
Theo tiếng xe vọt đi của bọn chúng, chú nhìn chằm chằm vô cảnh tượng hãi hùng trước mắt mình. Cô Gái đang bước chầm chậm giữa những thân bắp, một sợi dây thừng treo toòng teng trên cổ.
Gắng gượng đứng dậy, Ông Già lảo đảo bước tới chỗ nó. Tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, chú nhớ lại từng chữ mà ông đã nói khi còn ở DC.
Không thể nào lôi bọn hươu cao cổ ra khỏi xe được, vì một khi đã ra rồi thì không thể đảm bảo rằng mình có thể lôi tụi nó trở lại xe, và như vậy cũng đồng nghĩa với cái chết của tụi nó, không kiểu này thì kiểu khác.
Ông Già lại ngã quỵ. Chú chạy lại chỗ ông. Máu chảy dài trên mặt. Ông cố gắng đứng dậy nhưng không thể. Đỡ lấy một bên tay ông, chú cũng vất vả kéo ông đứng dậy, trong lúc đó thì Tóc Đỏ, cổ đeo máy chụp hình, đỡ tay còn lại.
“Trở lại xe,” ông thở hổn hển trong lúc tụi chú giúp ông đứng dậy.
Chú chạy lại chỗ chiếc xe. Dây dợ lòng thòng phía sau hệ thống khởi động. Chú đẩy chúng vô và đề máy, rồi cho xe lăn bánh chở Chàng Trai đi vô rẫy bắp, tụi chú đi tới đâu thân bắp nằm rạp tới đó.
Tụi chú thắng gấp dừng lại sau lưng Ông Già, giờ ông đang ngồi chồm hổm, rủ rỉ tiếng hươu cao cổ với Cô Gái cách đó chưa tới hai mươi mét. Đôi chân như hai que diêm của nó đang xoay xoay, sợi dây thừng xoay theo, như thể nó đang sẵn sàng chiến đấu thêm với nhiều con sư tử nữa.
“Để nó thấy Chàng Trai đi,” Ông Già quay ra sau kêu với qua vai.
Chú mở bung cửa sổ chỗ Chàng Trai Hoang Dã. Đầu nó lớ ra, và ngay khi thấy Cô Gái, nó bắt đâu húc vào bên hông thùng xe để được tới gần Cồ Gái.
“Thôi nè… thôi nè, Cô Gái,” Ông Già tiếp tục rủ rỉ, rồi đột nhiên quay sang chú thì thầm. “Hạ vách hông xuống - mình phải đưa nó vô trở lại.”
“Nhưng mà vậy thì Chàng Trai ra ngoài luôn được à?”
“Không đâu trừ khi nó bị té ra khỏi thùng xe. Nó muốn đó, nhưng nó sẽ không tự mình bước xuống đâu. Trừ khi Cô Gái bắt đầu chạy đi mất. Vậy thì tao không biết nó sẽ làm cái gì nữa. Nhưng không hay ho gì đâu.”
Chàng Trai, đầu vẫn còn thò ra ngoài, đang húc thùng xe mạnh tới mức khung xe cũng rung lên bần bật.
Tuy vậy, thấy nó, Cô Gái xoay người chậm lại và ngập ngừng bước một bước về phía tụi chú. Ông Già chửi thề khe khẽ và chú biết tại sao - tấm nẹp trên chân bị thương của nó đã bung hết phân nửa. Và dính đầy máu. Giữ thăng bằng trên ba chân, giờ nó chỉ gắng hết sức để đừng phải dùng cái chân bị thương.
Ông Già di chuyên tới gần nó, và Cô Gái đá một phát - một cú đá yếu ớt tới đau lòng - và nó khiến miếng băng càng lỏng hơn. Một cú đá nữa có thể khiến nó té xuống đất, và một khi té xuống, có thể nó không bao giờ đứng lên được nữa.
“Hành tây…” Ông Già rít lên. Chú lấy một củ hành, đẩy vô bàn tay đang chờ đợi của Ông Già, và đứng lùi lại.
Cái mõm của Cô Gái bắt gặp mùi thơm. Nên Ông Già cố gắng di chuyển tới gần một lần nữa, tay giơ củ hành tây. Nó vẫn không chịu ăn, tiếp tục sẵn sàng cho một cú đá nữa, yếu ớt - và có thể là cú đá cuối cùng.
Ông Già nhanh chóng lùi lại, hạ củ hành tây xuống.
Một giây trôi qua. Chú di chuyển đến gần hơn để nhìn rõ hơn. Cổ của Cô Gái chuyển động cùng với chú, và Ông Già cũng thấy.
“Tiến lại gần đây,” Ông Già thì thào.
Chú bước lại gần.
Nó lắc lư cái cổ tới lui, nhìn chú từ trên xuống dưới.
“Gần nữa!” Ông Già rít lên.
Chú ép bản thân mình làm một lần nữa. Chú đã đứng đủ gần để ăn một cú đá rồi. Một lần nữa, Ông Già giơ củ hành ra, nhưng lần này là đưa cho chú. Chú lẽ ra nên cầm nó, nhưng chú không thể tự ép mình làm vậy được. Chú vẫn đang đấu tranh để thôi mong mỏi được biến mất giữa rừng thân bắp, nên chú không thể là cơ hội cuối cùng để Ông Già cứu lầy con hươu cao cổ sợ hãi mà ông cho là quan trọng hơn mạng của cả hai.
“Lấy đi!” Ông Già ra lệnh. Thấy chú vẫn không nhúc nhích, ông vội vã chạy tới chỗ chú, nhét một củ hành tây vô túi chú, rồi đẩy chú về phía trước.
Lỗ mũi khịt khịt, Cô Gái lảo đảo bước tới gần chú, gần tới nỗi chú có thể chạm vô sợi dây thừng vô dụng đang treo lòng thòng. Rồi giống hệt như cái đêm đầu tiên ở khu cách ly, nó hạ thấp cổ xuống để ngửi củ hành của chú. Chú lôi củ hành tằy từ túi ra rỗi giơ lên cao. Nó lấy lưỡi cuốn lại, ngầng cổ và củ hành chui tọt xuống bụng.
Rón rén lại gần, Ông Già thảy cái bao bố của Bố Già xuống chân chú. “Đưa cho nó đi!” Ông thì thầm. Trong lúc chú đang lấy củ hành đầu tiên từ cái bị, chú nghe một tiếng cốp sau lưng mình. Ông Già đã hạ vách hông của thùng xe xuống, cho Chàng Trai hít khí trời, và đang kéo một tấm ván vừa dài vừa rộng từ dưới thùng xe ra mà chú còn chưa bao giờ thấy ở đó, rồi đặt nó xuống như một cái cẩu dẫn vô chuồng cho đôi chân dài run rẩy của Cô Gái.
Ông ra hiệu cho chú đi về phía của ông.
Chú bắt đầu đi những bước ngắn thụt lùi, tay cầm bao bố, nhét một củ hành tây vào túi mỗi lần bước đi vài bước, và chờ cho Cô Gái tới lấy. Nó bước chậm. Nhưng nó chịu bước. Mỗi lần nó tới gần, chú sẽ cho nó một củ, cái lưỡi nó cuộn củ hành kéo qua khỏi môi rồi ực xuống cổ họng, trong lúc đó chú nhét thêm một củ vô túi.
Tụi chú lặp đi lặp lại, đến khi tới được chỗ thùng xe.
Chú bước lên cái cầu ván, tấm ván, rồi vô cái chuồng vận chuyển.
Cô Gái dừng lại ngay đó.
Chàng Trai bắt đầu khụt khịt và giậm bộ móng xuống nền rêu than bùn. Nhưng Cô Gái cứ tiếp tục xoay xoay cái cổ trước mặt chú như thể nó đang cân nhắc giá trị của hương vị củ hành tiếp theo là vượt trội hơn vị trí mà nó phải đi tới để lấy được.
Bao đựng củ hành gần như trống trơn. Chú bước tới gân nó tù khoang vận chuyển, vẫy vẫy cái bao bố đựng củ hành tây trước mặt nó, rồi bước trở lại vô trong chuồng.
Và nó quyết định.
Một bước, hai, rồi ba. Cái chân đang băng bó của nó gắng gượng để tìm phần ván gỗ cuối cùng. Chú gần như không thể nhìn theo. Rồi nó đã ở trên tấm ván, cả người nó đang đứng trên đó, xiên xẹo một bên… giây kế tiếp sẽ cho biết nó đi tiếp, hay lùi về sau rồi té xuống đất trước khi bất cứ ai kịp ngăn cản.
Chú thảy hết phần còn lại của bao hành tây xuống đám rêu than bùn và lồm cồm ngồi lên phần tấm gỗ chéo gần Chàng Trai, củ hành cuối cùng trong tay chú.
Nó cúi đầu về trước, thọc chiếc lưỡi dài vô đống hành tây, hết củ này tới củ khác. Rồi cái cổ dài của nó cũng ngầng lên, cao lên, đi theo mùi hương của củ hành cuối cùng trong tay chú, tới khi nó đã bước hết bốn chần lên đám rêu than bùn.
Cô Gái Hoang Dã đã trở vô.
Nhanh hơn tốc độ trong khả năng của mình, Ông Già tự mình dựng đứng tấm vách hông lên và kẹp cố định lại, rồi ngồi phịch xuống bậc thềm xe để thở. Chú rất muốn tham gia cùng nhưng không tài nào di chuyển được nữa. Cô Gái đã duỗi cái đầu khổng lồ của nó ngang chân chú. Khoảnh khắc tấm vách được dựng đứng lên và chốt lại thì nó cũng đã sượt ngang chú để hít hà Chàng Trai. Sau đó, dựa thân người vẫn còn run rẩy vào chuồng, nó ngả cái mõm nặng trịch của mình lên đùi chú rồi nhắm mắt lại, và từ hai lỗ mũi nó phát ra tiếng thở dài vang dội, lớn như bản thân Cô Gái Hoang Dã vậy. Chú đặt tay lên cái đầu còn run rẩy của nó và từ đâu đó sầu thẳm trong tâm can vốn bị ghìm chặt, một luồng cảm xúc dữ dội nhưng đã bị lãng quên trỗi dậy. Đó là cảm giác của cậu-bé-bận-tã mà chú đã tự cho phép mình được cảm nhận - một lúc - vào cái đêm sau khi lên núi. Tuy vậy, ngay bây giờ, khi cái đầu dễ thương của Cô Gái đang đặt trên đùi, cảm giác ấy xâm chiếm từng thớ thịt của chú, trái tim chú căng tràn, ấm áp, thuần khiết và dịu dàng theo cách mà từ lầu chú đã quên mất. Chú chìm đắm trong giây phút đó, cái sự đằm thắm bỗng chốc trỗi dậy khiến chú nghẹn ngào.
Cô Gái mở mắt, đôi mắt thật giống với đôi mắt màu nâu vỏ táo của con ngựa cái nhà chú. Khi cảm giác dịu dàng ấy biến thành nỗi đau tinh khôi nhất của cơn ác mộng bí mật, chú nhấc sợi dây thòng lọng ra khỏi cổ nó rồi quăng xa vào đám thần bắp.
Phải mất một lúc lâu tụi chú mới lại lên đường, vẫn còn đậu ở giữa rẫy bắp, chiếc xe đầu kéo giờ đã dạn dày sương gió, mà tụi chú cũng không khá hơn là bao. Chú nhìn lại về phía căn nhà di động của Tóc Đỏ. Một lần nữa, nàng lại biến mất. Vậy nên chú ngồi đó, vẫn còn mặc độc cái quần lót và mang đôi bốt, nhìn Ông Già xử lí vết thương cho Cô Gái bằng toàn bộ lượng sulfa còn sót lại thông qua cánh cửa sập, mà vết thương giờ đây không chỉ máu me mà còn mưng mủ. Đã có dấu hiệu nhiễm trùng. Nó quá mệt mỏi rồi nên cứ dựa vô thành chuồng mà kệ ông làm gì thì làm. Ông ráng hết sức quấn cái nẹp gỗ lại. Tụi chú nín thở lúc nó lảo đảo chừng một giây rồi đứng thẳng trở lại bằng bốn chân.
Đóng cánh cửa sập lại, Ông Già ngồi sụp xuống bậc thềm xe, chỉ tới lúc đó mới nhấc một tay lên kiểm tra vết thương của mình. Vết cắt trên đầu ông đã thôi không chảy máu nữa nhưng nhìn vẫn có vẻ phẫn nộ hệt như cái cách Ông Già cảm nhận về sự hiện diện của nó. Chú theo dõi, cảm nhận được toàn bộ gánh nặng của vụ việc ông Percival T. Bowles đè lên ngực mình, đồng vàng trong túi chú thiêu đốt như một tội lỗi, vì chú đã không cảnh báo ông. Nếu chú không nói với ông ngay bây giờ, chú sẽ luôn thấy mình là một thằng Judas bán Chúa của miền Cán Xoong. Nhưng giờ nói cho ông ấy nghe thỉ ích gì? Ông sẽ bỏ mình bên đường ngay bây giờ trước khi tới được Memphis , chú tự nhắc nhở mình.
Chú phải nói câu gì đó, nên chú hỏi: “Tôi giúp dọn dẹp cái này được không?”
Ông không trả lời. Ông nhìn những ngón tay trên bàn tay xương xẩu của mình, mấy ngón tay không hẳn đã bẻ cong lại được, rồi chửi thề nhặng cả lên, sau đó dùng ngón tay ấn vào bên thái dương bị cắt sầu, ông lại chửi thề. Dù có chuyện gì xảy ra thì ông cũng không có tâm trạng để chia sẻ.
Chuyển trọng tâm tù chân này sang chân khác, chú thử lại lần nữa. “Cô Gái sắp ổn rồi, phải không?”
Câu này khiến ông đứng dậy liền. “Hên lắm mới không có xác một con hươu cao cổ chết ngắc phải đem đi chôn ở cái rẫy bắp chết tiệt này. Nên tốt nhất là hi vọng may mắn của ta còn đó cho tới khi kiếm được nhiều sulfa hơn, hoặc là vẫn phải đem chôn.”
Chú đã chuẩn bị sẵn sàng cho những gì sắp xảy ra, một cú điện thoại cho cảnh sát và tất cả những câu hỏi theo sau. Thay vì vậy, Ông Già lắp đạn lại cho cả hai cây súng, đặt nó lên giá, rồi nói, “Nếu có ai hỏi thì nhóc à, tao bắn phát súng đó. Mày có thể đã giết chết một mạng người, mà tao thì không muốn chuyện này xảy ra với mày.”
Chú nhíu mày, bối rối về một nhận xét nghe giống như đang đặt vấn để về kĩ năng bắn súng của chú hơn. “Tôi cố ý bắt sượt thôi,” chú nói. “Nếu tôi nhắm để giết người thì nó chết chắc rồi.”
Cặp lông mày rậm rạp của Ông Già nhướng thật cao, như thể ông không biết phải nghĩ gì về những lời chú vừa thốt ra. Ông lại ném cho chú cái nhìn trừng trừng bằng đôi mắt hõm sâu trong một lúc lâu, nhưng đằng sau đó là cảm giác thoáng qua mà chú vẫn chưa thể gọi tên. “Mặc áo với quần vô đi,” cuối cùng ông cũng nói. “Càng nhanh càng tốt. Ta phải đi rồi.”
“Ông… không gọi cảnh sát hả?”
“Mày chưa nghe lọt lỗ tai sao? Ta cần phải đi tới Memphis,” là câu trả lời của ông. “Ngay bây giờ.”
Chú đã muốn nói rằng đó là đêm cuối cùng tụi chú thấy Percival Bowles, nhưng không phải. Trở lại xa lộ, tụi chú xem đoạn đường ray từ xa đang chầm chậm tiến gần tới. Lúc tụi chú đến Muscle Shoals thì xa lộ lại một lần nữa dẫn tụi chú tới ngay ga xe lửa, không còn chỗ nào để trốn - và kia là gánh xiếc đang bắt đầu lăn bánh.
Khoảng hơn mười sáu cây số bên kia thị trấn, đường ray lại ôm lấy con đường một lần nữa, tụi chú thấy một cửa hàng bên đường với vài ông bà già đang trò chuyện trước hiên nhà. Tụi chú chưa có gì bỏ bụng kể từ sau khi ăn đồ thừa ở trạm dừng chân Yeller đêm trước và tụi chú đang cạn xăng. Tụi chú có thể đi tiếp mà không cần ăn, nhưng không thể đi mà không có nhiên liệu. Tụi chú phải dừng lại.
Chú lái chiếc xe tới chỗ cây xăng. K