← Quay lại trang sách

Chương 10 TIẾN VÀO ARKANSAS

Chú từng biết một người không biết sinh nhật mình là ngày bao nhiêu. Ông này may mắn thật, ông sống mỗi ngày của cuộc đời mình, ngày nào cũng như ngày nào, không hề biết chính xác tuổi, vậy nên không bao giờ biết tới sự chuyên chế hằng năm của ngày sinh. Chú có thể sống mà không cẩn tới nó, cảm ơn, đời chú quá đủ rồi. Cái vấn để của sinh nhật là con cứ sống tỉnh bơ, hít thở, hết ngày này qua ngày khác, trở thành phiên bản con sẽ trở thành mà không phải nghĩ ngợi gì tới nó. Rồi dù chuyện gì xảy ra, tốt hay xấu, con sẽ mãi đánh dấu nó trong kí ức cùng với lối đi của thời gian, ngày trên tờ lịch ép buộc con phải nhìn về sau nhưng không còn cách nào thay đổi quá khứ, phải nhìn về trước nhưng không cách nào biết chuyện gì sắp xảy ra. Khi chú nhớ về ngày sinh nhật trên chuyến xe cùng với tụi hươu cao cổ, đó là cảm giác phiên bản mười tám tuổi mới toanh của chú cảm nhận được khi đứng trên bờ sông Mississippi, con sông rộng tới mức nếu con muốn băng ngang thì không tài nào nhìn thấy được mình đang đi về đâu. Không có khái niệm gì về nơi mình đang tới và cũng không có thời gian để ngẫm nghĩ những chuyện đã qua, chú cứ đi như người mù.

Tụi chú vừa băng ngang Memphis sau khi bị tên mèo mập trọc phú đuổi theo. Cặp hươu cao cổ giờ nặng nề, chiếc Packard màu xanh lục lúc này hoặc là đang trốn hoặc lại đang chờ đâu đó trên đường, và chú vẫn còn tá hỏa. Đi qua từng tấm biển chỉ về sở thú Memphis trên đoạn đường dọc thành phố, chú đã thương tiếc cho tấm vé đi Calitórnia bị mất, liếc nhìn Ông Già để coi ông có mủi lòng mà thay đổi không và vẫn lo lắng về một sự trừng phạt kiểu-Ông-Già nào đó. Nhưng ông cứ ngoái về phía sau, tay cẩm súng hoa cải, cho tới khi tụi chú thấy cằy cầu phía trước và ông ra hiệu cho chú dừng lại gần bờ sông trước khi lái qua cầu.

Trong lúc Ông Già kẹp cây súng dưới nách và bắt đầu kiểm tra chiếc xe, hai cái mõm hươu cao cổ lại ló ra, lỗ mũi tụi nó khịt khịt ngửi mùi nước sông. Nhưng chú không thể cử động được. Chú chỉ có thể đứng và nhìn chằm chằm vô cây cầu nhỏ hẹp biến mất dần sang bên kia sông cứ như nó đang rơi ra khỏi rìa thế giới -và chú cảm thấy ruột gan mình cũng y như vậy. Tấm bảng ghi CẦU HARAHAN, 1,5 KM. Một cây số rưỡi. Chú đã từng đi qua cây cẩu này khi tới chỗ Cuz, nhưng vào ban đêm và ngồi trên một chuyến tàu chạy ngay giữa. Chú có thể thấy nhiều xe hơi và xe tải đang chạy trên một làn duy nhất mỗi bên, nhìn không khác gì đường ray được đóng ván.

“Tôi phải lái xe qua cái đó hả?” Chú lầm bầm.

“Không còn cách nào khác,” Ông Già nói. “Hơn nữa, mặt cầu cũng thô. Vậy nên giúp tao đẩy đầu tụi nó vô đi rồi ta cùng hi vọng là tụi nó sẽ giữ nguyên đầu như vậy.”

Không còn cách nào khác. Dù vậy, linh cảm nói cho chú biết là nếu đi qua cây cầu đó, chú đã đưa ra lựa chọn, cái lựa chọn mà chú cũng không hiểu lắm. Và chú vẫn không sẵn sàng. Chưa sẵn sàng. Có lẽ không bao giờ sẵn sàng nổi.

Ngay lúc đó, một trong hai con hươu cao cổ đá thùng xe và Ông Già nhảy tới bên hông để tự chốt cửa sổ lại. “Đi thôi,” ông gọi với xuống trong tiếng giậm chân và khụt khịt.

Mình chỉ đang hơi sợ nước thôi… như tụi hươu cao cổ , chú cứ tiếp tục nói với bản thân, vừa nói vừa trèo lên ngồi sau vô lăng và lái xe chở tụi chú hòa vào dòng xe đi lên cầu. Quay lại nhìn ra sau vai mình lân cuối, Ông Già đặt cây súng hoa cải trở lại giá.

Cùng một cái đạp mạnh và một cú xóc nảy, tụi chú lên đường.

Toàn bộ bánh xe chịu va đập, toàn bộ răng hàm của chú đánh vô nhau, và tụi chú bò theo. Bên phía chú là một tuyến đường sắt chạy ngay giữa, và chú cố gắng không nghĩ tới chuyện gì sẽ xảy ra nếu một chuyến tàu chạy tới. Bên phía Ông Già toàn nước là nước, mấy cái trụ cầu lồi lên là thứ duy nhất chắn giữa tụi chú và một cú ngã tự do của tụi hươu cao cổ lẫn chiếc xe và bộ phận cơ thể người xuống nước sông Mississippi sình lầy.

“Gi-giữ cho y-yên…” Ông Già nói lúc tụi chú đang dằn xóc trên đường, xe cộ dồn cục sau lưng, mỗi phút trôi qua lại càng dồn nhiều hơn.

Đi tới giữa cầu thì có một tấm bảng CHÀO MỪNG TỚI ARKANSAS.

“G-g-giữ yên…” Ông Già cứ nói mãi. “G-g-giữ yên…”

Cùng một cú xóc run rẩy xương cốt, tụi chú cuối cùng cũng qua tới bờ bên kia, một lần nữa được chạy trên mặt đường chắc chắn, cả hai con hươu cao cổ đểu bật chốt thò đầu ra mà hít hà mùi đầt tốt tươi.

Đất đồng bằng trải dài phẳng phiu dọc hai bên đường xa hút tầm mắt của cả bốn tụi chú, và Ông Già đã có dấu hiệu thả lỏng. Cây súng hoa cải nằm yên trên giá và ông không còn lấm lét ngoái nhìn ra sau nữa. Thở dài thườn thượt, ông dựa về sau, cởi cái nón phớt rồi để nó trên ghế giữa hai tụi chú. Không bao lầu sau, đường ray xe lửa một lần nữa mất hút, và tụi chú trở lại tốc độ hợp lý và nhịp điệu êm dịu của cung đường. Nhưng như vậy cũng không là gì nếu so với hình ảnh êm dịu của cái nón phớt đang lặng lẽ nằm giữa tụi chú.

Tụi chú tiếp tục đi trong im lặng vài cây số nữa, nhìn mảnh đất đồng bằng màu đen kéo dài thành những ruộng bắp từ đây tới tít đằng kia. Chú có thể thấy hàng mẫu đất lúc nhúc những tấm lưng thợ hái cúi thấp, chỉ vài tấm lưng gần phía xa lộ là thôi không cúi nữa vừa kịp lúc để thấy tụi hươu cao cổ đi ngang. Trông Ông Già vẫn thật tội nghiệp với những vệt máu khô trên áo và một vết cắt đã khô mài trên thái dương, và rồi ông nhìn thấy một tiệm bán thực phẩm và đồ khô bên đường đất chạy men theo xa lộ và kêu chú dừng lại. Lái vòng qua một ông nông dân đang đánh một chiếc xe lừa kéo hết sức yếu ớt, chú đậu xe ở phía này của cửa tiệm.

Ông Già nhảy xuống và bật mở cửa sập chỗ Cô Gái, nó vẫn còn kiệt sức tới độ không thèm đá cái nào khi ông dám đụng vô miếng nẹp gỗ đã được băng bó lại.

“Cho tụi nó uống nước đi,” ông vừa ra lệnh vừa đóng cửa lại, gương mặt tối sầm rồi tiến vô cửa tiệm. Lúc ra, ông đã mặc một cái áo mới rồi, vết cắt trên đầu cũng được khử trùng, và ông đang cẩm một cái bao bố đầy hành tây để thay thế cho cái mà ông dùng để nện gã tài xế.

“Tao gọi cho Little Rock rồi,” ông vừa nói vừa trèo lên xe. “Ta sẽ qua đêm tại cái sở thú nhỏ như lỗ mũi ở đó.” Rồi ông nói, “Tao chưa quên lời hứa với mày về vụ Memphis, nhóc à. Nhưng chuyện thay đổi rồi. Ta sẽ nói chuyện tối nay.”

Chú bắt đầu thò tay vô túi để cảm nhận sự dễ chịu của đổng vàng đại bàng hai chục đô. Dù vậy, liếc nhìn Ông Già, chú lại dẹp suy nghĩ đó đi và vô số.

Trong vài tiếng đồng hồ kế tiếp, Ông Già chìm vào suy tư, còn chú thì lo lắng không biết ông suy tư cái gì. Đã là tháng Mười rồi nhưng không khí vẫn còn đặc quện vì nóng và ẩm, tới mức con sẽ tưởng đang là tháng Tám nóng bức. Tuy vậy, tụi hươu cao cổ có vẻ thoải mái, vì tụi nó cũng không thò đầu ra lần nào kể từ lúc trên cầu Memphis.

Tới khi mặt trời bắt đầu lặn thì tụi chú đã tới gần Little Rock, cánh rừng thông ôm ấp lấy xa lộ ngoằn ngoèo. Mọi thứ đều có vẻ bình thường lúc tụi chú tới một thị trấn nhỏ xíu hệt như bất kì cái thị trấn nhỏ xíu nào mà tụi chú từng đi qua… tới khi tụi chú thấy một tấm biển lớn viết tay:

ĐÁM DA ĐEN ĐỪNG ĐỂ MÌNH KẸT GIỮA TRỜI TỐI Ở ĐÂY

Lúc đi tàu, chú đã từng nghe tới mấy “thị trấn mặt trời lặn” với những tấm biển cảnh báo du khách “da màu” đừng để bị bắt gặp ở đó sau khi mặt trời lặn. Giờ chú đã tận mắt thấy một cái như vậy. Chú nhìn thứ đó chăm chú tới mức suýt nữa là tông xe vô một đống đổ nát cách đó chưa tới hai mươi mét.

Từ đó nhìn ra phía xa lộ là một chiếc xe chở hàng Mẫu A, bên hông treo tấm bảng được sơn một cách cẩu thả: CÓ BÁN HẠT HỒ ĐÀO. Toàn bộ phần đầu của một con hươu đực với bộ gạc tổ chảng bị kẹt trên ca lăng trước, và bộ tản nhiệt đang rỉ ra chất lỏng màu hồng. Chú kịp né chiếc xe nhưng lại vướng phần đuôi của con hươu. Máu, mấy bộ phận của con hươu và hạt hồ đào bắn tung tóe ra đường - và khi tụi chú cán qua, xương thịt hươu bẹp dí, hạt hồ đào bể tanh bành rồi một người đàn ông da đen đội nón rơm lảo đảo chạy về phía hàng cây.

Cả chú và Ông Già đều quay lại nhìn. Chú đang nhìn trừng trừng vô đống xương thịt hươu mà tụi chú vừa cán bẹp. Nhưng Ông Già lại nhìn chăm chăm vô rặng cây.

“Tấp vô đi,” ông ra lệnh.

Chú nghĩ ông muốn kiểm tra cái hãm xung trước của xe. Nhưng không, ông nhảy xuống, đi tới chỗ rặng cây, rồi la lớn cái gì đó mà chú nghe không rõ. Có lẽ không có lời đáp trả, nên ông lại phải kêu lần nữa, lần này chỉ về phía Little Rock, rồi lại chỉ về tấm biển, rồi chỉ lên mặt trời. Chỉ có vậy, ông già hồ đào mới ló ra từ rặng cây, tay cầm nón rơm. Họ nói chuyện một chút, rồi ông già hồ đào đi theo Ông Già tới chỗ thùng xe, mắt liếc nhanh từ mặt đường tới hai cái đầu hươu cao cổ đang lắc lư để nhìn ông ấy cho rõ hơn.

“Hông ông ơi,” ông ấy nói.

Ông Già ráng đôi co với ông ấy, nhưng ông già hồ đào cứ nhìn xuống đường rồi lắc đầu.

“Hông ông ơi. HÔNG ông ơi.”

Chỉ đến khi có tiếng xe chạy tới thì tình hình mới thay đổi - ông già hổ đào ba chần bốn cẳng chạy trốn trở lại vô rặng cây.

Khi chiếc xe đã đi mất, Ông Già nổi đóa, nhấc một thùng nước đang đặt giữa đầu kéo và thùng xe, rồi tống nó vô dưới sàn xe. Rồi ông gọi ông già hồ đào lại, chỉ vô chỗ trống ở giữa đầu kéo và thùng xe trước đó vừa mới để thùng nước.

Ông già hồ đào lén lút chạy ra. Đội cái nón rơm lên, ông hối hả chạy lại chiếc xe tải đổ nát của mình rỗi gom nhiều cái bao bố phồng bự nhất có thể. Chạy nhanh về phía thùng xe, ông ép mình vô khoảng trống phía sau buồng lái đặt cái thùng nước khi nãy, hai tay ôm mấy bao hồ đào.

Sau khi Ông Già đã ngồi ép vào ghế xong xuôi, chân gác lên thùng nước tổ chảng, chú vô số xe rồi lại khởi hành, liếc nhìn ông già hổ đào từ kiếng chiếu hậu. Duỗi người ra khỏi cửa sổ phía trước, cái lưỡi dài của Cô Gái đang nhai cái nón rơm của ông, khiến ông già hồ đào phải vẫy tay và lúc lắc tới khi một chiếc xe vút ngang và ông già hồ đào kéo nón rơm sụp xuống sát nhất có thể.

Khi tiến vào thị trấn khỉ ho cò gáy này, chú nhớ mình cảm thấy mồ hôi lấm tấm trên trán. Chú đã cảm thấy sợ hãi nhiều lần trong đời, nhưng lần này là một kiểu sợ khác. Không giống kiểu tụi chú sẽ lẳng lặng di chuyển cùng với cặp hươu cao cổ mà không bị ai phát hiện, và nếu ai đó, bất cứ ai ở cái thị trấn chết tiệt này, nhìn thấy ông già hồ đào, chắc là sẽ phải trả một cái giá kinh khủng như lời cảnh báo. Mặt trời vẫn chưa lặn, nhưng không lâu nữa đầu. Chú không thấy đỡ chút nào, dù Ông Già đã chuyển cây súng hoa cải từ trên giá xuống đùi của mình rồi.

Khu trung tâm thị trấn chỉ còn cách tụi chú chừng bốn khu phố, không hơn một khoảng rộng trên xa lộ là bao. Lúc tụi chú chầm chậm chạy qua, chừng năm bảy người, không lạ lùng gì, toàn là da trắng, bước ra ngoài cửa hàng để nhìn chằm chằm. Chú liếc nhìn ông già hồ đào.

Ông không còn ở đó nữa.

“DỪNG LẠI!” Ông Già hét lên, còn chú thì nhấn mạnh chân thắng.

Một gã nhà quê mặt đỏ rực mặc bộ cảnh phục vàng nhạt đã sờn, bên hông vắt một cây súng lục cũ, bước ra ngay trước đầu xe đang chạy và giơ một tay lên. Liếc nhìn cái hãm xung trước bê bết máu, gã bước tới để nhìn tụi chú từ cửa sổ phía Ông Già. Trên bộ đồng phục của gã là dòng chữ nhìn như được viết bằng mực viết máy lấm lem: “Cảnh sát tuần tra an ninh buổi mặt trời lặn”. Không cần phải tưởng tượng gì nhiều để hình dung gã trong bộ cảnh phục khác, kiểu có nón trùm đầu… và chú thì đang ước gì cả đại gia đình Bố Già có mặt đầy đủ với mấy lưỡi liềm sắc nhọn và đáng sợ.

“Ông đang cản đường đó, ông già,” gã nhà quê cằn nhằn. “Ông đang chở theo cái khỉ mốc gì vậy?”

“Hươu cao cổ.”

“Ờ. Ông đi chung với đoàn các-na-van hả? Tụi này không hạp với các-na-van gì đầu. Kéo theo nhiều lũ bất hảo với mấy thứ rắc rối khác. Tụi này thích giữ thị trấn yên bình sau khi mặt trời lặn thôi,” gã vừa nói vừa nhịp nhịp lên dòng chữ ghi chức danh bằng mực trên áo đồng phục. “Giờ thì mặt trời sắp lặn rồi.”

“Chúng tôi chỉ đi ngang qua thôi, nếu các ông đồng ý,” Ông Già nói. “Đang ráng tới sở thú Little Rock trước khi trời tối.”

“Ờ.” Gã liếc nhìn vết cắt trên đầu Ông Già rồi hất cằm về phía mặt trước của chiếc xe. “Có máu trên cái hãm xung của ông kìa.”

“Chúng tôi tông trúng một con hươu đực cách đầy mấy cây số,” Ông Già nói.

Gã “cảnh sát tuần tra an ninh buổi mặt trời lặn” bước lại về phía cái hãm xung và búng miếng da hươu máu me đi. Trong lúc đó, từ kiếng hậu của mình, chú có thể thấy Cô Gái đang duỗi cổ để đánh hơi ở vị trí hồi nãy ông già hồ đào ngồi. Gã nhà quê nhìn lên Cô Gái. “Có cái gì làm con vật này nhúc nhích à?”

“Con hươu làm nó sợ,” Ông Già nói. “Vậy thôi.”

Gã cảnh sát đầu tóc bù xù gãi gãi. Rồi đặt một tay lên súng lục đeo bên hông, chắc là thấy mấy ông cảnh sát miền Tây làm vậy, gã bắt đầu tiến về phía khoảng không mà Cô Gái vẫn đang ngửi ngửi.

Thấy vậy, Ông Già liền nhấc họng súng hoa cải rồi kê lên thành cửa sổ, vừa đủ để gã cảnh sát tuần tra thấy. “Ông thấy đó, ông cảnh sát,” Ông Già nói, “Nếu là tôi thì tôi sẽ tránh cho xa. Mấy con vật này nguy hiểm lắm. Rất nguy hiểm.”

Gã nhà quê ngập ngừng, nhìn chằm chằm hết nòng súng rồi tới biểu cảm trên mặt Ông Già, và từ từ rút bàn tay khỏi súng lục.

“Như tôi đã nói,” Ông Già tiếp tục, “chúng tôi chỉ đi ngang qua để kịp tới Little Rock trước khi mặt trời lặn thôi. Chúng tôi nên đi bây giờ.”

“Ừ thì được thôi… Tôi cũng không muốn cản trở mấy người da trắng tử tề đâu,” gã lầm bẩm rồi lùi lại, ưỡn ngực và vẫy tay ra hiệu cho tụi chú. “Các ông có thể đi rồi đó.”

Khi tụi chú tăng tốc trở lại trên xa lộ, chú nghe thấy tiếng gió quật trên thứ gì đó nghe giống tấm vải dầu đã được cất kĩ để dành cho những đêm lạnh hoặc bão lớn, mà từ đầu chuyến đi tới giờ tụi chú chưa gặp. Chú nhìn trong kiếng hậu thì thấy tấm vải nhô lên tới tầm nhìn, và dưới đó là gương mặt của ông già hồ đào. Ông ấy đã kéo tấm vải ra vừa đủ để trùm lên thân mình cùng với mấy bao hỗ đào, cái nón rơm bị gãy là thứ tổn hại duy nhất. Tới tận lúc tụi chú đã bỏ xa thị trấn đó sau lưng rồi thì ông ấy mới chịu giở tấm vải ra và ngồi dậy, còn Cô Gái thì chào đón ông bằng một cái liếm và dụi mũi.

Ông Già và chú không nói một lời nào. Không có gì để nói, ít nhất là không có gì tụi chú muốn nói. Vậy nên tụi chú cứ im lặng, cả hai cứ cách vài giây đều liếc nhìn về phía ông già hồ đào. Không bao lâu sau ông ấy đã ngồi thẳng lên đủ để với tới và chạm vào mõm Cô Gái như thể ông vẫn chưa chắc mình đang chạm vào thứ gì đó có thật.

Ở ngoại ô Little Rock, ông già hô đào gõ vào kiếng sau xe. Chú dừng lại gần một con đường đất và ông nhảy xuống, bẻ thẳng cái nón rơm bị gãy, gom mấy bao hạt hồ đào, rồi ngầng cao đầu, giơ một bao hạt về phía cửa sổ chỗ Ông Già ngồi. Chú biết Ông Già thật sự muốn ông già hồ đào cứ giữ lấy số hạt đó. Nhưng khi có nợ thì người mắc nợ có quyển trả. Nên ông nhận bao hồ đào. Ông già hồ đào gật đầu với tụi chú và ngước nhìn tụi hươu cao cổ lần cuối rồi biến mất vô bóng cây.

Tụi chú ngồi đó chừng một phút, nhìn bóng râm càng trở nên sẫm màu hơn ở chỗ ông ấy biến mất, và kể cả tụi hươu cao cổ cũng ngóng theo để ngoái nhìn lần cuối. Rồi Ông Già cất cây súng hoa cải trở lại giá và nói, “Đi thôi.”

Chú vừa vô sỗ thì nghe tiếng máy xe ầm ầm phía sau.

Chú quay lại nhìn và cứng đờ người.

Đó là một chiếc xe tải bít bùng… Một chiếc xe tải bít bùng màu vàng…

Tấm bảng quảng cáo ghi CÔNG BÁO ARKANSAS BUỔI TỐI, GIAO TẬN CỬA trên chiếc xe chạy vụt qua.

Tim chú thôi không thòng ra ngoài nữa, chú nhả ly hợp rồi chạy tiếp.

Không lằu sau khi chạy qua khỏi ranh giới thành phố, tụi chú thấy một biển báo chỉ về phía SỞ THÚ FAIR PARK. Nó dẫn tụi chú tới một cây cầu lát sỏi đã cũ vắt ngang đoạn đường ray và đi vô công viên thành phố, thẳng tới cổng sở thú. Tòa nhà duy nhất của sở thú nhìn giống những kết cấu bằng đá mà chú thấy trên núi, không nghi ngờ gì, cũng được WPA xày. Cổng trước được dựng trên một chỗ hơi gò, và khu công viên bao quanh sở thú toàn là người. Nhưng không phải kiểu con tưởng tượng được đâu. Tụi chú hướng mắt tới chỗ nào là chỗ đó đầy những người đã hết vận may đang nằm la liệt, trên băng ghế, dưới những mái che tự chế, và trong ống cống, như những người ở Công viên Trung tâm mà chú thấy khi đi ngang thành phố Nữu Ước hồi còn đuổi theo cặp hươu cao cổ.

“Ở đây đi,” Ông Già vừa kêu chú, vừa nhảy xuống xe. Đi vòng qua một ông cảnh sát tuần tra đang làm náo động hòng xua đuổi một kẻ lang thang khỏi cổng vào, ông đi vô sở thú.

“Mình có hươu cao cổ rồi!” Một đứa bé hét lên, thoát khỏi vòng tay mẹ để chạy tới chỗ tụi chú. “Hươu cao cổ! Hươu cao cổ!” Nó cứ nói mãi, nhảy lên nhảy xuống.

Một đám đông bu lại, hết ố rồi á khi thấy hai con hươu cao cổ duỗi cổ cúi xuống để được chạm vào. Chú không thể nói đó là một liên khúc ngọt ngào dành cho tụi hươu cao cổ sau một ngày dài, và dù không thể ngờ tới, nhưng chú cũng cảm thấy dễ chịu.

Ông Già trở lại, ra hiệu cho chú chạy xe tới một cái cổng có hàng rào cao bằng đá. Lúc tụi chú chạy tới chỗ ông đang đứng kế cánh cổng đang mở thì thấy ông đang nói chuyện với một người đàn ông thấp bé đeo kiếng có gắn dầy ở gọng và ăn mặc bảnh hơn là một người làm việc ở sở thú nên mặc - chưng diện, với bộ vest, cà vạt và một cái nón trái dưa. Ngay khi tụi chú vừa vô thì ông đã đóng cổng lại và dẫn tụi chú tới chỗ cây sung dâu sum sê bên hông bức tường phía sau, một chỗ hoàn hảo để cho hươu cao cổ no say.

Sở thú thật sự nhỏ như Ông Già nói. Kể cả trong ánh hoàng hôn, chú có thể thấy toàn bộ khu đất từ chỗ đậu xe. Phía bên trái cổng trước là một tòa nhà dài có nhiều chuồng khỉ được mở hướng ra một lối đi có mái che dẫn tới bãi đất bên ngoài, phía tay phải của tụi chú - có một con trâu đang rong ruổi trong một cái chuồng lớn, những con rùa và cây thảo nguyên đang ở trong một con hào khô, mấy con chim công và lạc đà, một con sư tử, một con ngựa vằn và một con gấu nâu. Chỉ có bấy nhiêu.

Ông Già và ông quản thú đội nón trái dưa đứng phía trước đầu xe trò chuyện lúc chú bật nóc xe lên cho tụi hươu cao cổ ăn. Khi chú trèo xuống, Ông Già vẫy tay gọi chú.

“Xin lỗi ông vì chút rắc rối ở trước cổng,” ông quản thú đội nón trái dưa nói, giọng cao như một người phụ nữ. “Chúng tôi có mấy vấn đề với khu Hooverville làm xấu mặt công viên xinh đẹp này như hầu hết các thành phố trong nước khác, nhưng dù chúng tôi có làm gì đi chăng nữa thì vấn đề vẫn cứ tệ hơn vào giờ đóng cửa. Đây là ai đây ạ?”

“Cậu trẻ này là Woodrow Wilson Nickel, tài xế của tôi,” Ông Già nói. “Chúng tôi gặp chút khổ sở hồi sáng nay ở Tennessee khiến chúng tôi mong muốn có chỗ ngủ an toàn tối nay khi qua bên đầy sồng. Nên chúng tôi cảm ơn ông trước vì dù báo sát giờ nhưng ông vẫn đồng ý tiếp đón.”

“Người nào là bạn của bà Benchley thì cũng được chào đón ở đây hết,” người đàn ông đội nón trái dưa nói, mắt ông lướt qua khỏi chú để nhìn tụi hươu cao cổ đang nhâm nhi lá cây. “Nhà cậu ở đâu, cậu Nickel?”

Nhà ư? Chú không có nhà, ít nhất không phải là nơi chú muốn nhắc tới.

Ông Già đột nhiên chen vào. “Chúng tôi gặp cậu trẻ Nickel đầy lúc ở Bờ Đông, và cậu ấy đã giúp chúng tôi một chút.”

Tuy nhiên, người đàn ông đội nón trái dưa không lắng nghe gì cả, ông quên béng cả phép lịch sự xã giao thông thường bởi bùa mê của tụi hươu cao cổ. Ông thở dài, ngước nhìn tụi nó. “Có gì mà chúng tôi không làm cho tụi hươu cao cổ chứ. Chắc là ông cũng không muốn để tụi nó ở lại lâu một tí?”

Ông Già còn không tôn trọng câu hỏi đó bằng một câu trả lời. Chú không biết nên nghĩ gì tới khi cả hai người phá lên cười.

“Bà Benchley muốn cả hai chúng ta đều bị bôi tro trát trấu lên mặt!” Người đàn ông đội nón trái dưa rú lên. “Theo đánh giá tình hình, tôi đã gọi bác sĩ thú y tới coi cái chân của con cái rồi. Ông bác sĩ sẽ mừng lắm. Chắc ổng chưa từng thấy con hươu cao cổ nào. À, ổng kìa.”

Bác sĩ thú y của sở thú này khác một trời một vực với anh bác sĩ áo blu trắng ở sở thú Bronx, ông mặc bộ kaki bị dính ố, người đây mùi phần súc vật, hai mắt thô lố chắc ăn đứt cả chú cái lần đầu tiên nhìn thấy cặp hươu cao cổ. Ông cố gắng tự ép mình tập trung vào chân của Cô Gái. “Ông nói nó ở trong thùng xe suốt hả? Đây chắc là cái nỗi khốn khổ ông nói. Có vẻ như nó đã chạy và đá hết sức bình sinh rồi.”

Thấy Ông Già không trả lời, chú đã sai lầm khi tự ngó chân nó, và chú nghĩ là chú sắp ói tới nơi. Nó còn tệ hại hơn hồi ở rẫy bắp nhiều, máu và mủ ứa ra tứ phía. Tại mình hết , chú nghĩ. Chú đã hạ vách hông xuống. Chú đã lấy đồng vàng hai mươi đô. Chú đã không cảnh báo Ông Già - và chú đã làm tổn thương Cô Gái. Chú không thể thở nữa, cảm giác như có một cục đá nặng đè lên cuống phổi, như thể ông Percival T. Bowles cũng đang ấn cái mông mập của mình lên ngực chú mà ngồi.

“Lấy mấy củ hành đi,” Ông Già nói.

Tay cầm bao bố, chú leo lên bên hông và bắt đầu cho Cô Gái ăn hành tây, nó ăn hết là chú lại đưa thêm. Trong lúc ông bác sĩ thú y kiểm tra, thoa thuốc rồi băng bó lại, chú cứ tiếp tục cho Cô Gái ăn tới khi ông nói là “xong hơn cả xong” cho chuyên đi. “Đừng nói là ông sẽ để nó lại đây tới khi cái chần quyết định là nó sẽ lành,” ông bác nói.

Ông Già lắc đầu.

“Ừ giờ thì chắc như bắp là miễn ông có thể đưa nó lên nền đất càng nhanh càng tốt thì sẽ ổn cả thôi,” ông bác sĩ nói. “Sáng sớm mai tôi sẽ trở lại để kiểm tra trước khi các ông khởi hành và sẽ đưa thêm sulfa với mấy thứ khác cho chuyên đi. Tôi rất hân hạnh.”

Nghe vậy, người đàn ông đội nón trái dưa vỗ lên lưng Ông Già, kiểu như mình lại vui vẻ như ngày nào, và nói, “Đi gởi điện tín cho bà Benchley nào.”

“Tôi trở lại với ông sau,” Ông Già nói. Hai người đàn ông của sở thú cùng đi, và Ông Già ra hiệu cho chú trèo xuống. Hất cái nón phớt lên một chút, ông chống tay lên hông và chờ tới khi chú đứng trước mặt, rồi hướng ánh mắt về phía chú và nói, “Tao biết tao đã hứa gì với mày ở Memphis, nhưng tao phải lựa chọn vì lợi ích của hai cục cưng. Giờ thì chắc là tao phải nhờ mày đi tiếp rồi. Nếu không, ta sẽ bị kẹt ở đây quá lâu, tới mức chân nó không chịu nổi nữa. Nếu mình có thể né được vận xui thì chỉ cẩn ba ngày thôi là tới California rồi, như mày muốn.” Ông ngừng lại. “Mày chịu không hả Woody?”

Đây là lần đầu tiên Ông Già kêu chú là Woody. Ông sẽ không nộp chú cho tụi cớm… và chú thì vẫn tới California. Chú không nói được câu nào. Chú chỉ có thể gật đầu.

“Được rồi.” Ông vỗ lên vai chú hai cái khá gượng gạo, điều ông chưa từng làm trước đó, và nói, “Ở đây an toàn. Ta nên ngủ cho ngon. Những gì đang chờ phía trước sẽ rất khác với những gì ta từng trải qua, khác như mặt trăng với mặt trời. Nhưng mày cũng biết rồi đó,” ông nói thêm, “tại vì mình sẽ đi ngang chốn xưa của mày.”

Câu nói đó như sét đánh ngang tai chú. “Cái gì?”

“Xa lộ,” ông nói. “Nó băng qua miền Okie và vùng Cán Xoong Texas để tới được bờ Tây.”

“Nhưng mình đang đi trên tuyến đường miền Nam mà,” chú lẩm bẩm. “ông nói vậy mà, tuyến đường miền Nam…”

“Đây là tuyến đường miền Nam,” ông thẳng đầu lên. “Ta đang ở Arkansas mà nhóc. Mày tưởng mình đang đi đường New Or-leens hả?”

Đúng rồi! Chú muốn hét lên. Đó là tuyến đường miền Nam! Tự chửi rủa bản thân vì quá ngu ngốc, chú không biết làm gì nữa. Mình không thể trở lại vùng Cán Xoong! Mình còn không thể tới gần nữa - mình thử thách vận may quá nhiều sau biết bao thứ mà mình đã làm! Chú cứ suy nghĩ, đầu óc chú muốn gào thét vì nó. Nhưng chú không thể nói với Ông Già. Ông sẽ muốn chú nói tại sao, mà chú thì sẽ không làm vậy đâu. Chú thậm chí còn nghĩ là bằng cách nào đó ông đã biết rồi. Có phải đây là lí do ông giữ mình lại sau khi phát hiện ra xấp tiền trong túi mình không - để dẫn mình trở lại rồi giao nộp cho ông cảnh sát trưởng hạt của vùng Cán Xoong để nhận tiền?

Nhưng ông không thể biết được…

Lần đầu tiên một tâm hồn đáng thương được nhận một chút ân sủng trong suốt cuộc đời thê thảm, đặc biệt là của một người đã tuyên bố là không chấp nhận bất kì kiểu lừa lọc nào, đây là điều khó có thể nhận ra huống hồ chấp nhận, và càng khó để tin tưởng hơn. Chú biết phải làm gì với sự phán xét, vì cả cuộc đời non trẻ của chú đã nếm trải điều này quá nhiều rồi. Tuy nhiên, bấy nhiêu lòng tốt, nếu thật sự là lòng tốt, chỉ khiến chú cảm thấy như bị châm chích và thậm chí có chút sợ hãi, bởi chú vẫn chưa quên được những gì Percival Bowles đã cảnh báo chú khi nghe tới tên của Ông Già.

Ông Già vẫn tiếp tục nói. “Mày chưa tới sở thú lần nào phải không? Đừng nói với ông bốn mắt bận đồ đẹp, nhưng mà dù tụi động vật có khỏe mạnh thì cái sở thú này chỉ bằng một góc của sở thú San Diego thôi.” Ông huơ tay về phía cổng trước. “Cứ đi lòng vòng nếu mày thích, nhưng đừng rời mắt khỏi hai cục cưng. Tao sẽ ăn một bữa ra trò với ông bạn nấm lùn của Bà Sếp, rồi chừng một tiếng nữa tao sẽ đem tí đồ ăn về cho mày. Tao trả tự do cho mày sớm hơn là tốt nhất, để mày được một giấc ngon lành. Từ giờ trở đi, ai biết được mình sẽ ngủ kiểu gì nữa.”

Rồi ông đi mất.

Chú đứng đó, choáng váng, nhìn lên tụi hươu cao cổ theo cái cách mà chú đã không cho phép mình nhìn kể từ hồi ở trạm dừng chân Yeller vì cảm giác tội lỗi. Hai cái mõm mạnh bạo của Cô Gái và Chàng Trai đang thò ra từ trên nóc, lưỡi của tụi nó với tới các nhánh cây sung dâu, và cảnh tượng này bơm vào người chú một cảm giác thuần khiết nhiều tới mức hai gối chú khuỵu xuống. Chú phải lấy tay vịn vào cái chắn bùn để đứng vững, lòng nặng trĩu những cảm xúc của hai ngày vừa qua, mắt thu về hình ảnh hai con hươu cao cổ dịu dàng, lúc nào cũng vị tha…

… tụi nó xứng đáng hơn mình.

Có thứ gì đó đã biến mất và thay đổi mà chú không nhìn thấy. Chú khó mà có thể tự nhận ra mình. Giữ đồng vàng đại bàng của Percival Bowles và tự bỏ túi một mớ tiền? Điều này không khiến chú ngạc nhiên tẹo nào. Chú đã làm hai việc đó mà không chớp mắt. Phát súng chú đã bắn để bảo vệ Cô Gái khỏi bọn tay sai trộm cắp? Chú cũng đã làm vậy mà không chớp mắt, như thể chú đang tự bảo vệ mình. Nhưng tụi nó không thuộc về chú. Những gì chú có thể nhận được từ tụi nó cũng ít ỏi như của Tóc Đỏ. Và giờ chú sắp phải đánh liều trở lại vùng Cán Xoong vì hai con vật thậm chí còn không phải của chú? Chú ngạc nhiên, kích động như một thằng dở hơi, biết là lần này chú phải chấm dứt và bỏ chạy… Nhưng mỗi lần nhìn lại tụi hươu cao cổ là một lần thấy như dao cứa vô tim. Chú không muốn trở lại cuộc đời của một con chó hoang, nhưng chẳng phải như vậy còn đỡ hơn thứ có lẽ đang chờ đợi chú nếu chú trở về quá khứ của mình ở vùng Cán Xoong sao?

Vào giây phút đó, như một điềm báo, chú nghe tiếng một chuyến tàu hàng. Nó đang tiến tới từ phía này.

Rời mắt khỏi tụi hươu cao cổ, chú tiến lại phía cổng trước của sở thú bé xíu. Đám người huyên náo vẫn còn ở bên trong nhưng đang tiến tới lối ra hết rồi. Lấy hết can đảm để chạy trốn, chú nhìn chằm chằm vô lối ra, tay nắm chặt đồng vàng trong túi. Mình có thể tự tìm đường tới Cali, chú tự nhủ. Mình vẫn còn đồng hai mươi đô… Mình sẽ ổn thôi. Tụi hươu cao cổ không cần mình. Tụi nó cũng sẽ ổn thôi… Tụi nó còn không để ý là mình biến mất. Còn Ông Già? ổng sẽ đạp nát cái nón phớt nhàu nhĩ, rỗi người đàn ông đội nón trái dưa sẽ tìm một anh lái xe thực thụ để chở tụi hươu cao cổ tới chỗ bà Benchley an toàn … Còn hơn cả ổn…

Mọi người đang chậm rãi di chuyển xung quanh chú, biến mất khỏi lối ra. Chú phải nhiều lần hít một hơi thật sâu rồi mới nhập bọn. Nhưng lúc chú vừa bước đi cùng đám đông thì ai đó nắm lấy tay chú. Chú xoay người lại, sẵn sàng ẩu đả như mọi khi.

Là Tóc Đỏ, một tay cầm máy chụp hình còn tay kia vòng qua kéo tay chú.

“Cao Kều, anh đầy rồi!” Nàng nói. “Tụi hươu cao cổ ổn chứ? Mấy người đàn ông kinh tởm hôm qua là ai vậy? Tôi suýt mất dấu anh trong màn sương, rồi thấy chiếc xe đầu kéo bị như vậy rồi…”

“Cô đã đi đâu vậy?” Chú hỏi, cắt ngang lời nàng.

Hai mắt nàng mở to như mắt một con hươu cái đứng trước đèn xe. “Không đi đâu hết. Tôi bị trì hoãn một chút.”

“Tôi cứ nghĩ tôi sắp chào tạm biệt cô.”

Nàng siết chặt tay chú. “Việc gì thì cũng có mùi li biệt, Woody à. Nhưng không phải với tụi mình, vẫn chưa đâu. Giờ thì kể cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra đi! Mấy người đàn ông đó tính ăn trộm hai con hươu cao cổ, phải không? Rói anh bắn một người - tôi thấy! Anh có thể đã bắn chết hắn rồi!”

“Tôi bắn sượt vai thôi,” chú lầm bầm, tự hỏi vì sao mọi người cứ không tin tưởng kĩ năng bắn súng của mình. “Nếu tôi muốn bắn chết hắn thì hắn đã chết rồi.”

Tóc Đỏ nhìn chú bằng ánh nhìn buồn cười hệt như Ông Già. “Vậy cảnh sát nói sao?”

“Cảnh sát không nói gì. ổng không có gọi điện.”

“Ông Jones không báo cảnh sát? Sao lại không! Kể tôi hết mọi chuyện đi!”

Nhưng chú không thật sự thích làm vậy, mà suy nghĩ nhiều hơn về thông cáo của cảnh sát và những người vợ bỏ trốn thay vì mấy con mèo mập trọc phú và tay sai cho gánh xiếc. Thế là chú hỏi, “Sao cô không ở lại mà tự coi?”

Nàng ngập ngừng. “Tôi chắc chắn là ông Jones sẽ gọi cảnh sát, và tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi không dính vô.”

“Sao lại không?” Chú lấn tới.

Buông tay chú ra, nàng lại chuyển chủ để. “Không phải ngoài kia là cảnh tượng buồn thảm nhất sao?”

Nàng hất mặt về phía đám người Hooverville trong công viên bên ngoài lối ra. “Nhìn danh thiếp mà người đàn ông ở ngoài cổng vào đưa cho tôi sau khi tôi chụp hình ổng nè.” Nàng rút ra một tấm thẻ từ túi áo.

Liên đoàn Lao động Lưu cư Lưu động Quốc tế

Thẻ thành viên quốc gia số 103299

Xin cảm ơn vì đã đóng góp để đảm bảo tiếp tục sự tồn tại của tôi.

Tôi mắc nợ bạn.

Xin Chúa phù hộ cho trái tim hào phóng của bạn.

Nàng lật sang mặt kia. “Nhìn mặt sau viết gì luôn này.”

Tôi - John Jacob Astor, xin trân trọng thề rằng sẽ làm hết sức có thể để hỗ trợ tất cả những người sẵn sàng hỗ trợ mình. Tôi trân trọng thề sẽ không bao giờ lợi dụng những người anh em, hoặc đối xử bất công với người khác, sẽ lên án những người làm như vậy, và sẽ làm hết khả năng để bản thân tôi và nước Mỹ trở nên tốt đẹp hơn - nên xin Chúa hãy cứu giúp con.

“Chỉ là danh thiếp của dân bụi đời thôi,” chú lầm bầm.

“Du thủ du thực cũng có danh thiếp hả?” Nàng hỏi.

“Bụi đời khác du thủ du thực. Bụi đời tự hào vì mình là bụi đời.”

“Thiệt à! ờ thì cũng có tác dụng. Tôi đã cho ổng một đồng. Tấm hình đó chắc đẹp lắm,” nàng nói, để tấm thẻ lại vào túi áo lụa màu trắng, và chú cũng không muốn, nhưng không thể không nhìn chằm chằm. Nhìn hệt như những thứ mà các minh tinh màn bạc mặc, chiếc áo đó, cũng như cái quần đó.

Chú nhìn Tóc Đỏ gắn một cái bóng đèn mới lên máy chụp hình, và dù lòng vui như trẩy hội, chú vẫn cảm thấy một sự phẫn nộ dâng cao vì nàng. Chú muốn nàng cảm thấy khó chịu như chú vì đã bội bạc bỏ đi -và tệ hơn, chú cần nàng phải thấy vậy. Chú không thể chịu thêm được giây nào nữa. “Sao ông cảnh sát phó ở Chattanooga lại đuổi theo cô?”

Nàng cứng người. “Cái gì?”

“Cô nhấn ga, tôi thấy cô. Ông nói cô đã ăn cắp chiếc Packard.”

Nghe vậy, mặt nàng bí xị. “Tôi không ăn cắp. Tôi chỉ mượn thôi.”

“Tôi lúc nào cũng mượn đổ,” chú nói tiếp. “Và những gì tôi đang làm là ăn cắp. Cô có mượn tiền của ông chủ chiếc Packard cho chuyến đi này không?”

“Đừng ngây thơ vậy, Cao Kều,” nàng nạt lại, rồi lại thôi không nói. “Ông Jones có nghe nói về việc này không?”

“Tất nhiên rồi.”

Gương mặt nàng lại càng bí xị, nhưng vẫn chưa đủ bí xị với chú.

“Cô bỏ trốn để cặp kè với người đàn ông khác à?” Chú tiếp tục.

Câu này làm nàng há hốc miệng. “Cái loại câu hỏi gì vậy?”

“Ông cảnh sát phó nói có thể cô đang vi phạm ‘đạo luật đàn ông’ gì đó về việc phụ nữ đã có chồng nhưng bỏ trốn theo người đàn ông khác. Cô có vậy không?”

“Anh biết rõ mười mươi là tôi chỉ đi một mình mà!”

Vậy thì cô có là vợ ai không? Chú khao khát được hỏi câu này tiếp theo.

Nhưng nàng đã khoát tay như thể bản thân có thể gạt bỏ hết toàn bộ mọi thứ. “Lionel sẽ lấy lại chiếc Packard sau khi tối xong việc. Anh ta chính là người không chịu đi theo.”

Ruột gan chú lộn từng phèo. Thằng cha Kí giả Vĩ đại? Nhưng hắn ta già quá, cũng phải ba mươi rồi.

“Tôi phải đưa tin này bằng được dù anh ta có thích hay không,” nàng nói. “Tôi đang cố gắng làm cho tất cả tụi mình đều nổi tiếng. Anh không muốn sao?”

“Cô vốn đang đưa tin mà.”

Nàng đảo mắt. “Đúng, đúng là vậy… Nhưng tôi phải có ảnh… Đó là tạp chí Life đó! Cao Kều à, làm ơn đừng dừng lại. Anh sẽ không hiểu đâu,” nàng nói, đi về phía mấy con khỉ.

Chú không hiểu và chú cần phải hiểu. Có thể gã này cũng cục mịch như hình dáng của gã. Có thể gã cần được đấm thêm một đấm vào mặt. Chú phải biết, nên chú đi theo nàng tới chỗ mấy con khỉ. Lúc nàng giơ máy chụp hình lên, chú với tới và đẩy nó xuống. “Nói cho tôi biết ở nhà có gì tệ tới mức cô không muốn ở lại.”

Những lời nàng nói ra nhỏ tới mức chú suýt nữa không nghe thấy. “Nhà không phải là cội nguồn của mình, Woody. Nhà là nơi mình muốn ở lại.”

Chú chờ để nàng nói tiếp. Nhưng không, nhìn trừng trừng về phía mấy con khỉ đang gào thét trong chuồng, nàng nói, “Anh có từng nghĩ là tụi nó sẽ không bao giờ được tự do nữa hay không?”

“Mấy con khỉ hả?”

“Tất cả,” nàng nói. “Kể cả tụi hươu cao cổ.”

vẫn còn cảm thấy hoàn toàn mâu thuẫn, chú nói điều mâu thuẫn nhất mà chú có thể nghĩ ra. “Ừ, có thể tụi nó cũng thích được vậy. Tụi nó không đói bữa nào. Cũng không có sư tử lăm le rượt cắn sau gót. Cũng không có bão cát giết chết mọi thứ tụi nó biết. Vài người ở ngoài kia chắc sẽ sẵn lòng đổi chỗ với tụi nó nếu được đảm bảo bấy nhiêu thôi.”

Nàng nhăn nhó. “Đó không phải là điều mà tôi muốn nói… Ý tôi là nếu lỡ cả đời anh sống mà không được tung cánh kìa?”

Chú khá chắc chắn tụi chú không phải đang nói về khỉ hay hươu cao cổ gì nữa, nhưng chú không quan tâm. “Hươu cao cổ không có cánh.”

Biết là bản thân không thể bỏ bùa chú lần này, nàng thở dài. “Mình còn một giao kèo mà, phải không?” Nàng giơ bàn tay đang rảnh ra. Nàng muốn bắt tay lần nữa.

Chú thì không.

“Woody, làm ơn đi mà.”

Chú chầm chậm giơ tay ra, và nàng tiến lại gần để ôm chú, đầu nàng ngả vô ngực chú, chiếc máy chụp hình cấn vố xương sườn vẫn-còn-đau-thấu-trời. Rồi nàng nhìn lên chú và cười, một nụ cười buồn bã, không hé môi. Đột nhiên chú muốn hôn nàng như trong tưởng tượng kể từ hồi ở sân ga, dù biết bao phẫn nộ dồn nén - và điều này khiến trái tim rối ren của chú đau đớn tới mức chú ước gì mình không phải nhìn thấy nàng lần nữa. Vậy nên khi nàng nhắm chiếc máy chụp hình về phía chú và ấn chụp, ánh đèn chớp của nó lại khiến chú mù lòa, và chú hân hoan mời nó làm vậy. Chú bị nàng làm cho mù lòa vào lần đầu tiên gặp gỡ, chú vẫn luôn mù lòa suốt khoảng thời gian quen biết nàng, và chú bị nàng làm cho mù lòa vào lần cuối cùng chú nhìn thấy nàng. Gần như nhẹ nhõm.

“Anh biết không, tốt hơn là tôi cứ tiếp tục gặp anh trên đường. Mình đi được hơn nửa chặng rồi, mà, ồ, mấy tấm hình, Woody. Chúng thật tuyệt vời.”

Chú cảm nhận được nụ hôn của nàng trên má mình và rồi nàng biến mất.

Chớp chớp mắt để lấy lại thị lực, chú cứ đứng đó tới khi chú nghe tiếng tàu chở hàng lần nữa, và chú quyết tâm bắt cho bằng được. Bước đểu tới cổng ra, chú len lỏi dưới ánh đèn đường vừa bật sáng, và chú đụng trúng ngay một tay cớm làm nhiệm vụ tuần tra đang tống cổ một gã bụi đời.

“Xin lỗi anh,” tay cớm nói - với chú - và trở lại công việc túm cổ áo của gã bụi đời đang mỉm cười, mà gã này cứ ráng đưa danh thiếp cho tay cớm.

Bị ngả ngửa trên gót giày, chú khựng lại để lấy lại thăng bằng. Lúc những du khách cuối cùng đi rồi, chú bị hình ảnh và âm thanh của đám Hooverville ngay phía trước - tiếng la ó đinh tai điếc óc, đống lửa được đốt trong thùng rác, chỗ trú ngụ bằng bìa các tông và đống giấy tẩm hắc ín. Đó là tất cả những gì chú có thể nghe và nhìn thấy.

Nhưng vượt lên trên âm thanh hỗn loạn đó, chú có lẽ đã nghe thấy tiếng vọng của một con hươu cao cổ rên rỉ. Chú biết không thể nào. Tiếng hò hét của đám Hooverville đó lớn lắm, làm sao nghe được âm thanh nào khác.

Chú gạt bỏ suy nghĩ đó.

Rồi chú lại nghe thấy.

Bước lùi lại qua cổng sở thú, đi ngang tụi khỉ, chú nhích lại gần chiếc xe đầu kéo, chắc chắn là mình chỉ tưởng tượng ra thôi.

Nhưng khi quay lại hướng lối ra, chú cảm thấy thứ gì đó đang vỡ vụn nhè nhẹ dưới đôi bốt của mình. Có lẽ chú đang đứng lên thứ gì đó giống yến mạch… Có một vệt dài xuất phát từ phía chuồng trâu, giống như con gì đó đã nẫng thức ăn từ một cái máng rồi vội vã chạy ra. Tụi hươu cao cổ đang giậm đùng đùng. Nhìn lên, chú thấy con gì đó đang lom khom núp trong cái bóng của chiếc xe tải. Thầm ước mình có cây súng hoa cải trong tay, chú rón rén tới gần hơn, sẵn sàng giơ vuốt lên nếu có gì đó xảy ra.

Nhưng chỉ có mỗi một thằng nhóc đang đứng ôm mấy bao hành tây, hổ đào và nhìn chằm chằm vô tụi hươu cao cổ. Nó chăm chú tới mức chú gần tới được chỗ nó rồi nếu không lỡ đạp lên một nhánh cây khô.

Nó xoay người lại, tay ôm mấy cái bị vô ngực.

Trong lúc Chàng Trai và Cô Gái càng giậm mạnh hơn nữa, cả hai người tụi chú đều không nhúc nhích. Chú có thể thấy nó trong ánh đèn mờ nhạt phát ra từ một bóng đèn đường của công viên. Nó rách rưới và đi chân trần, chỉ cỡ nửa tuổi chú, nhưng ốm o hơn nhiểu, không có gì ngoài da bọc xương. Trên cổ chú có vết bớt thì nó lại có một vết phỏng đã lành phân nửa vắt ngang cả cổ lẫn quai hàm, cái kiểu phỏng của người bị rớt xuống đường tàu nóng bỏng hoặc ẩu đả kế bên thùng đốt lửa của tụi du thủ du thực. Quá tả tơi để làm bụi đời, quá nhỏ để là bọn du thủ du thực, nó chắc là một đứa nhảy tàu xấu số - chú chắc chắn là vậy. Nhưng giờ thì không. Giờ nó đang ăn trộm đồ ăn cho động vật, lom khom như một con chó hoang ngoài bãi rác. Tụi chú nhìn chăm chăm vô mắt nhau, và những gì chú thấy khiến chú sởn gai ốc. Không còn gì trong đôi mắt đó ngoài sự sợ hãi và đói khát, và kia là điều nó có thể làm để thôi không bị cả hai thứ này ám nữa.

Ngay lúc đó, một trong hai con hươu cao cổ đá thùng xe mạnh tới mức làm cái khung rung lên. Khi chú nhìn lên thì nó chạy thẳng vô chú, đẩy chú té dập mông - hệt như chú đã làm với Ông Già hồi còn ở khu cách ly - và chú té xuống đất một cú đau điếng, mùi thúi của nó vẫn còn dính trên bộ quần áo mới của chú. Hình ảnh cuối cùng của nó mà chú thấy được chính là mấy cái bao bố lọt qua bức tường đá vốn không trèo lên được vì quá trơn mịn. Nhưng mà nó đã trèo tới đó rồi. Như một con mèo.

Nằm đó trên nền đất vương vãi yến mạch, chú nhìn trân trối theo thằng nhóc rách rưới, bị mắc kẹt trong phút giây này. Suốt những năm sau đó, không hiểu sao đôi lúc chú lại thấy gương mặt nó trong gương. Nhưng hồi đó, thứ duy nhất kéo chú trở lại là tiếng rung lắc, chao đảo của chiếc xe đầu kéo, nghe như trục bánh xe đang bị cọ xát tới mức gần gãy lìa. Tụi hươu cao cổ đang muốn lật ngang thùng xe. Lồm cồm đứng dậy, chú đá một củ hành tây rớt ra rồi nhặt nó lên. Sau đó chú ngồi vắt ngang tấm ván chéo nằm giữa hai cục cưng của Ông Già theo cách mà chú nghĩ chú sẽ không bao giờ ngồi lần nữa. Cô Gái và Chàng Trai di chuyển lại gần và thùng xe lại đứng yên. Chú vuốt ve hai cái xương hàm khổng lồ, rủ rỉ tiếng hươu cao cổ của Ông Già và cho tụi nó ăn hành tây, lột hết lớp này tới lớp khác. Hai cái đầu bự chảng của tụi nó cứ vấn vương, vây quanh thân người non trẻ của chú như một chỗ trú chân bằng xương bằng thịt, trái tim chú như vỡ òa lần nữa cùng với cảm giác của một cậu-bé-bận-tã như hồi ở rẫy bắp, làm chú cảm thấy nhẹ nhàng hơn, tươi sáng hơn và an toàn hơn theo cách mà chú vẫn không tài nào diễn tả được. Tụi chú cứ như vậy một hồi lâu, tới khi cả hai lần nữa lại rướn người tới chỗ ngọn cây sung dâu, cái lỗ mũi sụt sịt của tụi nó là thứ duy nhất nhắc nhở rằng vẫn có một con sư tử ở ngay gót chân.

Chú nằm trở lại trên tấm ván chéo để canh chừng, nhìn thấy dáng hình của tụi nó in trên nền sao và lắng nghe những tiếng nhai nhóp nhép nhè nhẹ trên nền âm thanh nhỏ dần của chuyến tàu chở hàng.

Rồi chú nghe một giọng nói cộc lốc.

“Mày ở trển nữa hả, nhóc?” Ông Già gọi. “Mày có ngày cũng gãy cái cổ ngu ngốc của mày nếu còn làm vậy nữa.”

Chắc nịch là mình đang trong một toa hàng đang lăn bánh, chú bám vô tấm ván chéo phía dưới. Chú đã chìm vào giấc ngủ. Phía trên, những vì sao đang chuyển động. Tụi hươu cao cổ vẫn còn xung quanh chú, và chú ngồi dậy, cảm thấy thư thái như chú hằng mong mỏi.

“Xuống đây đi,” Ông Già kêu. “Đồ ăn nguội rồi nhưng còn ngon. Ăn hết đi rồi duỗi tay duỗi chân trên cái giường nhỏ xinh đẹp mà ông già bốn mắt chưng diện vừa sắp xếp trong văn phòng của ổng. Tao sẽ kêu mày dậy khi tao cẩn.”

Chú nhảy xuống đất, vụn yến mạch của thằng nhóc rách rưới còn bể nát dưới đế giày, rồi ngấu nghiến phần đồ ăn đó, và thay vì bỏ đi, chú quay sang nhìn Ông Già. Ông đã ngồi thụp xuống bậc thềm xe và đang rút một điếu thuốc cùng cái Zippo ra khỏi túi áo.

“Mày đang nghĩ gì hả?” Ông hỏi, tay châm điếu Lucky.

“Tôi đã bỏ túi xấp tiền,” chú nói. “Sao ông không bỏ tôi lại giữa đường?”

Đóng sập nắp hột quẹt lại, ông rít một hơi, nhìn chú, rồi nói, “Mày tưởng tao chưa từng bị đói hả?” Ông nhìn chú lâu hơn mức cần thiết, vẫn ánh nhìn đó, đầy sự khoan dung, giống như tụi hươu cao cổ đã nhìn chú sau khi chú mở tung thùng xe vì một đồng vàng - và nó như đấm vô bụng chú vậy.

Ông cũng tha thứ cho chú nữa.

“Giờ thì ngủ đi,” ông nói, rồi vẫy tay ra hiệu cho chú rời đi, tụi hươu cao cổ thì đang nhai lại một cách điềm tĩnh trên kia.

Chú ngắm nhìn tất cả bọn họ, cảm xúc ngập tràn trong chú… và chú cứ để một suy nghĩ mới, rành mạch đầm chổi trong trái tim được khóa chặt này. Nếu nhà, như Tóc Đỏ nói, không phải là cội nguồn của mình mà là nơi mình muốn ở lại, vậy thì chiếc xe đầu kéo, Ông Già và tụi hươu cao cổ còn hơn cả nhà nữa - và hơn cả gia đình - hơn bất cứ mái ấm nào mà chú từng có. Đối với một thằng mồ côi cù bơ cù bất, nhà này có vẻ hết sức xứng đáng để níu giữ, bằng cả hai tay, miễn là chú còn có thể. Không cần biết chuyện gì đang đón chờ chú trên chặng đường sắp tới.

Quay lại nhìn bức tường đá của thằng nhóc rách rưới, và thêm một lần nhìn về phía vùng Cán Xoong, chú nuốt vào trong mọi nỗi sợ và tiến về văn phòng của ông quản thú đội nón trái dưa, biết là mình sẽ ở lại - dẫu ra sao đi chăng nữa.

Trong cái văn phòng nhỏ xíu của sở thú, thậm chí cùng với sự an tĩnh có được sau khi đưa ra quyết định, chú vẫn mất một lúc mới yên vị được. Chú nằm trên giường cũi, mắt mở thao láo trong bóng đêm, lắng nghe tiếng khỉ kêu và nhớ sự im lặng yên bình của cặp hươu cao cổ, tới khi chú bắt buộc phải ngủ thiếp đi. Vì chú thấy mình đang đứng dưới ánh mặt trời đỏ quạch dơ bẩn…

… Mình nghe thấy tiếng mẹ: “Bé con, con đang nói chuyện vối ai vậy?”

… Mình thấy mấy con vật đang ở trong chuồng, một con gấu, một con gấu mèo, một con báo sư tử và mấy con rắn đuôi chuông.

… Mình thấy mấy con hươu cao cổ đang trôi theo dòng nước chảy xiết.

… Mình thấy một cây súng hoa cải nòng đôi ngắn và bắn.

…Và khi tiếng đùng đùng dội lại từ vách tường văn phòng, chú bật dậy trong bóng đêm, co ro té xuống đất, đụng trúng giường và đủ thứ khác.

Chú xoa xoa chỗ đầu đập xuống bê tông, đầu óc quay cuồng với nào là hươu cao cổ đang trôi lềnh bềnh, nào là động vật bị nhốt trong chuồng. Chú không thể nhớ thứ gì. Điều duy nhất chú nhận ra là hình ảnh của cây súng - tới khi chú nhớ lại nó một cách rõ ràng. Cây súng trong cơn ác mộng của chú là một cây súng trường. Còn cái này là súng hoa cải nòng đôi ngắn. Chú không hề nhớ mình đã thấy một cây súng như vậy trong đời.

Chú đẩy cái giường ra và chạy khỏi văn phòng, không dừng lại cho tới khi chú đã leo lên thùng xe và hai mắt đã thấy cặp hươu vẫn còn an toàn bên trong. Chỉ lúc đó thì chú mới nhìn xuống chỗ Ông Già, ông đang nhìn chú chằm chằm hệt như lần đầu tiên chú chạy ra xe chỉ bận mỗi quần lót, hồi còn ở Trạm dừng chân Bên đường của Round.

Tim đập liên hồi, chú hỏi, “Có gấu bị nhốt trong chuồng ở San Diego không?”

“Tụi này có gấu, nhưng mà nó ở trong mấy cái hốc bự đẹp lắm.”

“Báo sư tử?”

“Không. Không có con nào.”

“Gấu mèo?”

“Giờ thì ai muốn gấu mèo?”

“Rắn đuôi chuông?”

“Cái đó thì có. Tụi này đã đào ra hàng ngàn con từ khu đồi của sở thú để đổi với mấy sở thú khác. Bên úc cũng có một số.”

“Còn nước chảy xiết thì sao? Chỗ ông có nước chảy xiết không?”

“Ờ thì tụi này có biển,” ông nói. “Có chuyện gì à? Cái sở thú nhỏ này làm mày bất an?”

Chú nhún vai. Chú đã dùng toàn bộ năng lượng còn lại để làm được như vậy.

Ông kêu chú ngồi xuống. “Ngồi đi.”

Chú ngồi xuống bên cạnh ông.

“Để tao đặc biệt chiêu đãi mày một vài thông tin về chỗ mà mình sắp tới,” ông nói. “Mày có nghĩ con hào cạn nước cho cây thảo nguyên ở bên kia tuyệt không? Ở San Diego, mày có sư tử châu Phi mà chẳng có gì chặn giữa mày và tụi nó trừ một con hào. Thật ra, nếu Bà Sếp được toàn quyền quyết định, thời tiết tốt thì bọn họ sẽ rào lại hết công viên Balboa rồi để tụi động vật chạy nhảy tự do. Hàng rào có thể rỉ sét và tiền có thể hơi eo hẹp, nhưng quan trọng là chỗ dành cho động vật sống cùng với con người như thế phải xuất sắc nhất có thể. Tao đã kể mày nghe về tụi chim cánh cụt chưa?”

Dựa lưng vào cửa xe, chú nghe Ông Già kể chuyện, vẫn muốn nói với ông về cơn ác mộng mới và thậm chí là dì Beulah, nhưng biết là làm vậy cũng chẳng ích lợi gì.

Thay vì vậy, chú nhìn chằm chằm ra đường.

Miền Tây.

… “Bố ơi!”

Chú đang nằm trên sàn. Chú không biết sao mình lại ở đây. “Cây… cây viết chì của tôi đâu?”

“Để con đỡ bố ngồi dậy, rồi mình cùng tìm viết chì nhé.”

Chú cảm nhận được Tóc Đỏ Đô Con Trật Tự đang xốc dưới nách chú và đỡ chú ngồi lại trên xe lăn. “Ôi bố ơi, bố đập trúng đầu rồi. Như vậy sẽ để lại sẹo đó. Có chuyện gì vậy?”

Chú nghĩ tim chú đã ngừng dập. Nhưng chú sẽ không nói với cô ta đâu. Chú nhìn xung quanh tìm Cô Gái. Cửa sổ mở, nhưng nó không có ở đó.

Và chú nhớ ra vì sao.

Rosie vơi tay đóng cửa sổ. ”Bố lạnh như nước đá vậy. Mình nên đóng cửa sổ lại.”

“Cô Gái có thể trở lại mà!” chú lăn bánh chạy lại để ngăn cô ta, nhưng vấp phải khung giường, và lại té lần nữa.

Rosie túm lấy chú. “Con nên gọi y tá thì hơn.”

“ĐỪNG, ĐỪNG, không được! Y tá sẽ chích thuốc cho tôi mất, mà tôi không thể dừng lại được, tôi phải viết cho xong!

Tôi đã quá thời gian rồi, quá nhiều lắm rồi - cô biết mà! Chỉ còn lại bấy nhiêu để tôi kể cho cổ nghe, mà đối với cổ đó là phần quan trọng nhất! Sẽ không nghĩa lí gì với cổ nữa nếu tôi không hoàn thành - cô phải để tôi hoàn thành!”

Rosie thở dài, liếc nhìn xuống phần chú vừa mới viết vội.

Băng qua Oklahoma.

“Con không nhớ có phần nào về Oklahoma hết, bố à,” cô nàng nói. “Giờ nghĩ lại thì con không nhớ phần nào di qua Arkansas hết. Bố có kể con nghe hết phần cuối chưa?”

“Rồi,” chú nói dối.

“Vậy thì…” Cô nàng ngừng lại, vén đúng mớ tóc bạc đó ra sau tai. “Nếu bố nằm xuống một chút, con sẽ không gọi y tá liền. Được không?”

Chú gật dầu.

“Rồi đó,” cô nàng vừa nói vừa đỡ chú đứng dậy từ xe lăn để nằm lên giường. “Cả ngày nay bố chưa ăn gì mà chỉ cắm cúi ở bên bàn viết. Chắc đó là lí do.”

Chú biết không phải, tim chú vừa lỡ một nhịp. “Cây… cây viết chì của tôi đâu?”

Cô nàng nhặt lên từ tấm lót sàn rồi đặt lên bàn. “Bố có thể trở lại chuyến đi của mình sau khi đã nghỉ ngơi đầy đủ. Trước hết phải nghỉ ngơi, hứa nhé?”

Chú lại gật đầu.

Cô nàng đi mất.

Chú lén ngồi lại lên xe lăn, chụp lấy cây viết chì. Hít một hơi thật sâu, chú đặt tay lên trước ngực một hồi. Rồi lại tiếp tục.

Đây là nơi mà chú bắt đầu ước…