← Quay lại trang sách

Chương 11 BĂNG QUA OKLAHOMA

Đây là nơi chú bắt đầu ước.

Chú ước mình có thể tua nhanh về phía trước.

Chú ước mình có thể tới liền vạch đích mà không cần phải lái xe băng qua Oklahoma và vùng Cán Xoong Texas giữa thời Đại Khủng hoảng này một lần nữa.

Nơi con lớn lên là thứ vĩnh hằng, con sẽ nhớ tớì khi tất cả những thứ khác đều bị quên lãng, dù nó đã đối xử tệ hay tốt với con đi chăng nữa. Thậm chí khi nó chút nữa là lấy mạng con. Thậm chí khi nó xâm phạm những giấc mơ của con và châm ngòi cho những cơn ác mộng. Thậm chí khi con chạy trốn khỏi nó để không bao giờ quay lại nữa, rồi tự nhiên thấy mình chạy thẳng về phía nó, và thứ đỡ nhất con có thể cầu mong là được lái xuyên qua nơi đó, đầu cúi thật thấp và trí khôn vẫn còn đây, né tránh điều tồi tệ nhất để con được tiếp tục cuộc đời trẻ dại của mình ở một nơi nào đó khác.

Như người ta thường nói, nếu ước muốn là mấy con ngựa thì lũ ăn mày sẽ cưỡi ngựa hết. Nhưng như vậy cũng không khiến một người ăn mày thôi không ước muốn.*

Có hai đường chính từ vùng Bão Cát tới California. Tuyến đường 66 được hầu hết mọi người chú ý tới, đổ xuống vùng bình nguyên từ Chicago băng qua Oklahoma rồi tới Los Angeles. Đường kia, “tuyến đường miền Nam” tới San Diego, băng ngang qua phần dưới của vùng Cán Xoong Texas, chỗ của chú. Chú chưa từng thấy người nào kêu nó là xa lộ Lee hết. Nó chỉ là đường về miền Tây thôi, và nó chính là tuyến đường mà tụi chú đang đi dù chú có thích hay không.

Màu xanh của đất đai bắt đầu mờ nhạt dần khi đi qua ranh giới bang Arkansas và tiến vô Oklahoma không xa lắm. Thậm chí màu xanh của bầu trời cũng thay đổi lúc tụi chú chạy sâu vô địa phận bang, màu nhợt nhạt hơn, mờ mịt hơn, loãng hơn. Má chú từng kể chú nghe về vẻ đẹp bao la trong xanh của bầu trời vùng Cán Xoong Texas khi má và cha bắt đầu được phân đất canh tác, nhưng có lẽ với chú chuyện đó cũng như chuyện cổ tích vì cả thời thơ ấu, bầu trời luôn là một thứ đáng ngờ, không lâu sau thì chết người. Con có lẽ đã nghe về ngày tệ nhất, cái cơn bão cát ăn đứt mọi cơn bão cát khác, được gọi là Chủ Nhật Đen. Vào tháng Tư năm 1935, một đám mầy đen hùng hổ kéo tới chân trời, đủ làm thánh thần gì cũng phải sợ chết khiếp. Đó là Đại Bình Nguyên đang quét qua tụi chú, cơn bão từ địa ngục đã thổi bay ba trăm triệu tấn đất mặt ở Texas, Arkansas, Oklahoma và Kansas. Khi cơn bão tới, nó làm cả bầu trời đen kịt tới nỗi con để tay trước mặt cũng không thấy gì, tĩnh điện trong không khí nhiều tới mức chỉ cần bất cứ ai hay bất cứ thứ gì chạm một cái nhẹ nhàng nhất, nó cũng biến tia lửa điện thành ngọn lửa của phép thuật hắc ám. Và nó cứ tiếp tục cháy. Thật ra, bão cát bay về phía đông rất đặc, mạnh và nhanh nên nó đã che kín cả bầu trời Washington, DC, thậm chí người ta còn nói là mấy ông nghị sĩ phải đóng cửa sổ để tránh bụi. Ngày hôm đó là một cột mốc thật sự trong lịch sử đối với nhiều người. Đó là thời điểm mà cả dòng họ nhà chú không còn đường lui. Đó là khi em gái chú và má chú, ho mãi, bắt đầu chết dần vì chứng viêm phổi do bụi, cùng với một cơ số những người khác, già trẻ lớn bé. Trong suốt nhiều tháng, đó là thứ duy nhất người ta có thể nghĩ tới. Cát bụi chưa bao giờ thật sự biến mất khỏi không khí, cứ trồi lên sụt xuống như cơn dịch bệnh trong Kinh Thánh với hàng đàn châu chấu tạo thành những đám mây vàng và bầu trời màu nâu rơi xuống những giọt mUa bùn. Thậm chí sau khi không khí đã trong lành hơn, nỗi lo vẫn không thể nào nguôi. Mỗi năm lại có nhiều trận bão cát hơn, mỗi lần như vậy lại giữ cát bụi trong không khí lầu hơn và cát bụi lại ăn sâu vào phổi hơn, và những cơn mưa thật sự thì chỉ còn là những lời cầu nguyện không được hồi đáp. Dân nhận đất canh tác và dân tá điền đều thành từng đàn mà rời đi. Những người ở lại thường không nói về vấn đề gì khác tới tận cái ngày tụi chú đi qua đó. Bởi vì hôm đó có gió. Cùng với gió là chút cát. Và có cát là có nỗi sợ ngày xưa - thậm chí ngay cả khi có một cặp hươu cao cổ từ bên kia trái đất đang chạy ngang ngay trước mắt họ.

Chưa tới một tiếng sau khi băng qua ranh giới địa phận bang Oklahoma, gió bắt đầu thổi mạnh, đủ để làm lắc lư cả xe. Tụi chú dừng lại dưới vài tán cây vững chãi để kiểm tra nẹp gỗ của Cô Gái và cũng để tụi hươu cao cổ ăn uống nghỉ ngơi, vì chú biết đây là tán cây cuối cùng tụi chú nhìn thấy trong một khoảng thời gian dài sắp tới, mỗi cây số đi qua là cây cối lại càng thưa thớt. Trước khi lại lên đường, tụi chú cố gắng đẩy đầu của tụi hươu cao cổ trở lại và gài chốt cửa sổ, nhưng tụi nó không chịu mà tụi chú thì đã quá trễ giờ rồi, không kịp mưu mẹo gì nữa.

“Mày biết cái này sẽ kéo dài bao lâu không?” Ông Già hỏi, tay giữ chặt cái nón phớt.

Chú không biết, và trong cả cuộc đời trai quê khổ sở của mình, chưa bao giờ chú lại khao khát mình biết được như vậy.

Hai tiếng tiếp theo, gió lại càng mạnh và mặt đường lại càng bằng phẳng hơn, tụi chú chạy chậm hơn bình thường. Thêm vài dặm bên này Comanche nữa, tụi chú dừng lại ở Loco, một giao lộ với chỉ hai căn nhà ở phía đối diện của xa lộ chính. Một căn là trạm xăng hai trụ, tất cả đều màu đỏ và đen, sáng bóng hệt như bảng hiệu Texaco phía trên. Căn còn lại là một căn nhà xiêu vẹo làm cửa hàng tạp hóa và bưu điện có vẻ sẽ đổ sụp nếu con đẩy mạnh. Cửa hàng có nhiều biển kim loại hơn là biển gỗ, những tấm biển cỡ đại ghi Coca-Cola, Brylcreem và Thuốc Gan Bé Tí Của Carter được gắn ở khắp nơi. Ông Già có thể thấy nó lạ lùng, nhưng với chú thì cũng bình thường. Những tấm biển kim loại chắn bụi và gió, thậm chí chặn được cả hắn ín lẻn vô kẽ hở trên căn nhà này.

Chú đậu xe vô trạm xăng Texaco tí hon và một anh nhân viên có kẽ hở giữa hai răng, cổ thắt nơ ra chào tụi chú, cặp hươu cao cổ cúi xuống để tự mình chào anh chàng.

“Vầy mà không trùm nữa thì còn ai!” Anh ta cứ luôn miệng.

Tuốt bên kia trụ xăng, một nhóm người chạy xe chạy vô con đường đất phía Bắc đang hò hét bằng tiếng Tầy Ban Nha khi thấy tụi hươu cao cổ.

“Công nhân nhập cư,” anh chàng đổ xăng nói, dùng tay giữ nón để gió khỏi bay. “Tới mùa rồi. Cả tuần nay, tụi nó đi qua đây trên đường lên tuốt Michigan để hái anh đào mùa này. Nếu bão cát còn tệ hơn nữa, tôi thề đó, tôi cũng sẽ lên đó luôn.”

Ông Già tự tay cho tụi hươu cao cổ uống nước để có thể kiểm tra nhanh cái nẹp của Cô Gái lần nữa, rồi giao chú chạy qua tiệm đối diện để mua đồ ăn và vài bao bố hành tây.

Phía sau quầy của cửa tiệm, một người đàn ông da bọc xương với cái bướu trên cổ bự bằng một trái bắp dồn miếng bánh quy cuối cùng vô họng. “Chú mày chở cái gì bên đó vậy?” Ông hỏi, lấy tay áo chùi mép và nheo mắt nhìn ra cửa lưới.

“Hươu cao cổ.”

“Thiệt hả? Mấy thứ tao thấy thì vụt qua. Vọt qua nhanh lắm, tao nghĩ vậy.”

Chú gật đầu, gom hàng lại và bày lên quẩy tính tiền.

Ông đằng hắng tỏ vẻ khó chịu. “Chú mày tốt hơn là đi lẹ đi, gió kéo tới rồi. Mấy con chuột bọ cổ dài như vậy không thích thú gì khi trời chuyển màu nâu đâu. Tao thức dậy đã thấy bão cát mắc dịch rồi. Mấy tháng nay chưa thấy. Cả bang này vẫn còn đang hồi phục sau năm 1935 đó, không biết mày biết không.”

“Tôi biết,” chú trả lời.

“Mà vậy thì mấy trận bão cát năm 1934 với 1937 nhìn cũng giống như mấy trò dã ngoại ở nhà thờ vậy, không biết mày biết không.”

“Tôi biết,” chú trả lời.

“Nhưng mà sắp mưa rồi,” ông nói thêm. “Mày có thể cảm nhận được mà.”

Nghe vậy, chú lạnh toát người - đó là câu mà chú nghe mòn tai, như bài ca của tất cả những người còn bám trụ ở miền Bão Cát, những người quá cứng đầu nên không rời đi. Cha của chú từng nói vậy, ngay trước khi mọi thứ thường trở nên tệ hơn, và điều này làm chú quay trở lại để lấy thêm một thứ - một hũ Vaseline. Rồi đặt đó cho Ông Già trả tiền, chú ra nhà vệ sinh ở sau lưng tiệm.

Đi ngang một cái thùng phuy đầy táo, cái tật ăn cắp vặt của chú suýt nữa sai khiến chú thó một trái bỏ túi. Nhưng lúc đi ra khỏi cửa nhà vệ sinh, chú bắt gặp bà Augusta Tóc Đỏ. Nhìn thấy nàng, chú vặn vẹo như một cái bánh vòng, đặc biệt là vì hồi ở Little Rock, chú nghĩ mình sẽ không bao giờ gặp lại nàng nữa. Mặc cho bao lời ngon tiếng ngọt nàng đã nói ở sở thú, chú vẫn chưa dứt giận hờn, và chú cũng không có tâm trạng để nghe cái gì nữa. Chú lùi lại sau cửa để nàng đi khỏi, và chú suýt nữa là không theo kịp những gì nàng sắp làm. Liếc thấy ông nhân viên bán hàng vẫn còn chăm chăm nhìn tụi hươu cao cổ, nàng rặn ra một tiêng ho. Rồi, hết sức mượt mà, thậm chí còn mượt hơn cả chú, nàng chộp một trái táo, bỏ vô túi quần, rồi bước ra cửa sau, nơi chiếc Packard đang đậu.

Chú ngớ người ra hết mấy giây ở đó, không chắc những gì bản thân đã thấy và cũng không chắc chuyện này có nghĩa lí gì nếu thật sự mắt chú đã nhìn thấy.

Khi chú vội vàng băng qua đường để trở lại xe, ngoái cổ lại nhìn Tóc Đỏ, chú mém tông vô cái cột gần trụ xăng, kịp quay lại nhìn trước đó một giây duy nhất.

“Ê!” Anh chàng nhân viên đổ xăng đeo nơ kêu lên. “Xíu nữa à.”

“Tốt hơn hết là nhìn đường nhìn sá đi, nhóc. Đi nhanh cỡ đó mà đụng trúng cây cột thì chỉ có nước té dập mông,” Ông Già nói, tay đóng mấy cánh cửa sập. “Tao thấy tiệm có bảng hiệu Western Union, có thể tao sẽ coi thử có điện tín từ Bà Sếp không. Mày lựa sẵn hàng cho tao ra trả tiền rồi phải không?”

Chú gật đầu, vẫn còn nhìn Tóc Đỏ. Nàng đây rồi, dựa người vào gió, nâng máy chụp hình lên, tất tả băng qua đường về phía tụi chú.

Ông Già thấy nàng liền nổi điên lên. “Con nhỏ này cứ xuất hiện. Như sao quả tạ vậy,” ông lầm bầm, rồi đi vòng qua phía bên kia để tránh nàng.

Chú chắc chắn là Ông Già sắp gọi cảnh sát tới bắt nàng, như ông từng nói, và chú tự nhiên muốn cảnh báo cho nàng biết. Nhưng chú đã không làm vậy. Chú chỉ có thể đứng đó nhìn nàng chụp hình anh chàng đổ xăng đeo nơ và cặp hươu cao cổ. Rồi nàng nhìn lên và nhe răng cười, và chú nghe đâu đó có tiếng hát. Chú bắt đầu vỗ vỗ lên đầu mình tới khi thấy một cái lều phía ngoài trạm xăng được vây quanh bởi nào là xe tải, xe thổ tả và xe thồ. Tiếng hát đang ngân nga theo làn gió. Chú đoán chỗ đó chắc hẳn là một sự kiện “kêu gọi cải đạo” của nhà thờ hệt như mấy cái hồi xưa chú bị bắt đi hằng năm, với đầy đủ các nhà truyền bá Phúc Âm đấm thùm thụp lên bục thuyết giảng và những lời kêu gọi hãy tự cứu vớt linh hồn từ trên bàn lễ thánh thể, nên chú không định nhắc tới nó.

Nhưng Tóc Đỏ thì có. “Bên kia có gì vậy?”

“0, họ sẽ hát ngoài đường cả ngày,” anh nhân viên đổ xăng nói. “Phần lớn là tín hữu cuồng Jesus. Cô biết đó, đám người Thánh Khiết. Ước gì mấy người đó là tín hữu Baptist. Giờ thì họ có thể hát, và họ không dùng mấy cái trống lục lạc leng keng chói tai.”

Gương mặt Tóc Đỏ sáng bừng.

Ngay lúc đó, trời bắt đầu mưa lất phất.

Một người phụ nữ đứng gần cửa lều líu lo, “Mưa rồi!” và phân nửa đám đông đó chạy ra để xem.

“Kính mừng Jesus!”

“Thật là phước lành!”

Một giọng soprano* nghĩ rằng đây là dịp xứng đáng reo mừng bằng vài nốt cao.

Ngay lúc đó người phụ nữ đứng gần cửa lều thấy tụi chú. “Các anh chị em - nhìn kìa!”

Khi phân nửa đám đông còn lại ùa ra há hốc miệng nhìn cặp hươu cao cổ, tiếng hát nhỏ dần rồi dứt. Trong chốc lát, chỉ còn tiếng gió và những âm thanh réo rắt nho nhỏ còn sót lại của cái trống lục lạc. Rồi mưa bắt đầu rơi nặng hạt hơn, nghe tí tách tí tách.

“Điềm đó!” Ai đó hò reo.

Hai nhóm khác nhau bắt đầu hát hai bài khác nhau. Ai đó bắt đầu hát một khúc thánh ca được ưa chuộng… “Tôi sẽ bay đi, ôi nhiệm màu, tôi sẽ bay đi…” Trong khi đó nhóm kia bật ra một bài khác… “Ồi, hãy đến nhà thờ trong rừng hoang…” Cảnh huyên náo này nghe như hai cái trống lục lạc song tấu cùng dàn hợp xướng hỗn mang của mấy con mèo gào thét. Trong lúc ca trưởng vất vả để toàn ca đoàn hát một bài duy nhất, tụi hươu cao cổ thò cái cổ dài ra hướng vẽ phía đám bát nháo đó, bốn cái tai xoay tới xoay lui gần như theo nhịp của mấy cái trống lục lạc.

Lúc cả đám đông bắt đầu múa điệu múa linh thiêng trên nền khúc nhạc chiều để mừng cặp hươu cao cổ, những cái miệng há bự tới mức hứng được nước mưa hoặc cả lòng kính sợ Chúa, thì Ông Già bước ra từ cửa hàng đối diện. Hai tay ông ôm đổ đạc lỉnh kỉnh, và vẻ mặt như đang tự hỏi cái quỷ quái gì đang xảy ra ở đó.

“Muốn tôi thử kéo đầu tụi hươu cao cổ vô không?” Chú lớn tiếng hỏi để át tiếng huyên náo trong lúc ông vội vã bước về phía tụi chú.

“Mày nghĩ mấy người đang gào thét cỡ đó để mày làm vậy hả?”

Tụi chú nhảy lên buồng lái, kéo cửa sổ lên thì ca đoàn kéo lại gần hơn. Tóc Đỏ đang đứng ngay giữa để chụp hình, và ngay khi nhìn thấy nàng, mặt Ông Già tối sầm còn hơn Chủ nhật Đen nữa.

“Ông có báo cảnh sát về vụ của cổ không?” Chú hỏi.

Ông nhìn chú như kiểu ông đã quên mất việc đó rồi, như kiểu có gì đó khác làm ông bận tâm.

Điều đó làm chú ngập ngừng. “Ông có điện tín hả?”

Ông phất tay về phía con đường. “Nói chuyện đó sau đi. Giờ thì lên đường.”

Chú đề pa, và át cả tiếng máy đang gầm lên, ca trưởng vẫy tay và hò hét, “Trang 351, các anh chị em ơi! Tụi mình cùng tiễn họ đàng hoàng tử tế đi nào!”

Nghe vậy, các ca viên và các tay trống lục lạc im bặt, không khí trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng và trong sáng như điệp khúc của thiên thần. Bốn nhóm bè cùng hòa giọng, và họ bắt đầu hát khúc ngợi ca hoàn hảo nhất có thể dành cho khoảnh khắc độc nhất vô nhị đó. Chú đã nghe bài đó cả đời rồi. Nhưng chỉ khi ấy chú mới nghe ra được ý nghĩa của nó:

Toàn cầu hôm nay về đây vui hát

Cùng gặp nhau dưới trời mây bát ngát

Ha-lê-lu-gia, Ha-lê-lu-gia!

Thậm chí chú còn phải công nhận là họ hát hay thật.

Suốt chừng hai cây số, Ông Già và chú tiếp tục trong sự yên lặng quý giá, tụi hươu cao cổ quay lại nhìn như thể tụi nó đã thích nghe thánh ca, hai cần gạt nước hoạt động liên tục. Thêm chừng hai cây nữa, chiếc Packard màu lục xuất hiện trở lại trong kiếng hậu, và chú đã không thể thả lỏng tới khi nàng chạy chậm lại và một lần nữa biến mất khỏi tầm mắt khi tụi chú băng qua Comanche.

Tám cây số đã qua, cơn mưa lất phất đã ngừng và tụi chú kéo cửa sổ xuống.

Trong vòng tám cây số kế tiếp, con sẽ không biết là khi nãy trời đã mưa đâu. Bão cát lại trở lại, đất cát trong không khí dày đặc tới nỗi bám dính trên da chú, làm chú phải thụt cùi chỏ vô trong cửa sổ, nên chắc chắn là cái thứ đó đã chui vô mắt và mũi tụi hươu cao cổ rồi. Tụi chú phải cố gắng kéo đầu tụi nó vô, nên đã ngừng lại ở một giao lộ rộng lớn. Một ông già có nhiều nếp nhăn hơn là da đang ngồi trong một chiếc xe chở hàng như phế thải, có nhiều vết rỉ sét hơn là sơn, đậu dưới biển báo dừng lại.

“Mấy người chở hươu cao cổ trên cái đó hử!” Ông cười khằng khặc. “Mấy người muốn đút cái đầu bự của tụi nó vô trong tại vì bão cát hả?”

Chú gật đầu, rồi bắt tay vào việc, còn tụi hươu cao cổ thì chịu hết nổi rồi nên để cho chú làm vậy.

Ông già vẫn còn lên tiếng. “Lâu rồi mới có dấu hiệu bão cát. Chắc là sẽ ngày càng tệ cho tới khi nào đỡ hơn,” ông nói với theo lúc tụi chú rời khỏi. “Nhưng mà sắp mưa rồi. Mấy người có thể cảm nhận được mà.”

Tụi chú chạy thêm vài cây số nữa, chậm nhưng chắc, gió đã bớt mạnh một chút, làm cho cát bụi càng vương trong không khí lầu hơn, điều này càng khiến tụi chú lo lắng.

Tụi hươu cao cổ bắt đầu ho.

Thậm chí bầy giờ, nghĩ lại cảnh tượng đó chú còn nổi hết da gà. Tiếng tụi nó ho nghe giống tiếng giấy nhám chà lên mặt đá, nửa rền rĩ, nửa gầm gừ, và trăm phần trăm là tệ. Lúc đó, kể cả Ông Già và chú cũng ho dù đã kéo cửa sổ lên.

Cảm nhận được cơn hoảng loạn của một thằng nhóc miền Bão Cát đang dâng cao vì biết rằng cơn ho cũng giống như giấy mời dự đám ma, chú liền tấp vô lề.

“Mày làm cái gì vậy?” Ông Già vừa hỏi vừa ho vô nắm tay mình.

Chú chộp lấp hũ Vaseline đã thêm vô đống hàng cần mua khi nghe lời nguyền trận mưa của cha chú -đó là câu trả lời của má chú cho đợt bão cát tệ nhất. Dù tụi hươu cao cổ có chịu để chú thử không, mà chú cũng chẳng biết, thì chú cũng phải thử. Ông Già chạy theo, chú thì trèo lên, mở nóc xe, và vét sạch sành sanh hũ Vaseline đó để trét lên bốn cái lỗ mũi bự như bốn trái dưa vàng của tụi nó, trong lòng ước chi vẫn còn nhiều hơn. Khi Ông Già và chú vuốt cổ của tụi nó rồi rủ rỉ bằng tiếng hươu cao cổ, cổ họng tụi nó di chuyển lên xuống theo từng đợt như những cơn co giật nhỏ… tới khi tiếng giấy nhám chà xát chậm lại. Cát bay vô hai cái mõm bự chảng của tụi nó đã ít lại. Nhưng chú sợ như vậy là chưa đủ và đã quá trễ rồi.

“Trùm tấm vải dầu lên luôn đi,” Ông Già ra lệnh, và thề có Chúa chú ước gì tụi chú đã làm vậy sớm hơn. Một khi cát chui vô, nó sẽ cứ xoay vòng rồi xoay vòng nếu con tiếp tục di chuyển, và tụi chú không còn cách nào khác ngoài việc tiếp tục chạy.

Tụi chú chạy được liền tù tì ba mươi phút rói. Tiếng khò khè như giấy nhám cũng hết và gió giờ cũng không khác gió nhẹ là bao. Nhưng tụi hươu cao cổ cứ khụt khịt rồi hắt xì lớn tới mức tụi chú đóng kín cửa xe rồi mà vẫn còn nghe thấy, nên phải dừng lại lần nữa, gỡ tấm vải dầu ra một chút để có thể ngó vô bên trong mấy cái cửa sập. Đầu, cổ tụi nó cúi sát và cả hai đều bầy nhầy nào là nước dãi và nước mũi. Hai thân hình bự chảng của tụi nó đang cố gắng tống khứ số bụi còn lại.

Ông Già lệnh cho chú mở nóc xe trong khi ông hứng đầy hai xô nước từ mấy cái bình nước kim loại trên thùng xe. Ngay khi chú nhảy xuống đất thì ông đã trèo lên một bên thành xe với một trong hai xô nước, thảy nó lên tấm ván chéo, và gầm lên một tiếng, ngồi xuống đó. Chú bỏ túi vài củ hành cho trường hợp khẩn cấp, xách theo xô còn lại và cũng làm theo.

“Ở yên đó đi,” ông ra lệnh khi thấy chú đã lên tới bậc thang trên cùng. “Cho tụi nó ngầng đầu lên đi,” ông nói, “rồi giữ ở đó.”

Cứ như chú có thể làm thề nếu tụi nó không chịu vậy. Đặt xô nước thứ hai xuống, chú vẫy vẫy một củ hành tây về phía Chàng Trai. Cái mõm nhớt dãi của nó ngước lên theo. Lúc cho nó ăn củ hành, chú choàng tay qua quai hàm của Chàng Trai nhẹ nhàng nhất có thể mà không hù nó sợ, sẵn sàng túm chặt khi Ông Già sẵn sàng. Rủ rỉ tiếng hươu cao cổ từ phía bên kia, Ông Già nhấc xô nước rồi gật đầu. Chú quắp cổ nó. Bằng một cú nhấc mạnh bạo, ông tạt cả xô đầy nước vô mặt Chàng Trai, trực diện và vô thẳng hai cái lỗ mũi bự chảng. Chàng Trai giãy giụa quất vào chú như một con ngựa hoang, và rồi hắt xì một cái làm cả người Ông Già phủ đầy nước dãi lẫn nước mũi, trong đời chú chưa từng thấy nhiều tới như vậy. Ông Già cứ chửi thề rồi chùi rồi chửi thề rồi chùi, còn chú thì phải cắn ráng ráng nhịn cười. Rồi tụi chú chuyển sang làm y như vậy với Cô Gái, đã thấy hết những gì cần thấy và sẵn sàng để tới lượt nó trả thù. Ông Già nhấc xô lên và gật đầu. Chú chộp lấy đầu. Ông tạt. Và Cô Gái, giãy giụa khỏi vòng tay của chú, ngửa đầu ra sau và hắt xì một cái án đứt mọi cái hắt xì khác, chia sẻ một chút chất nhớt với chú luôn.

Tụi chú nhảy xuống đất và ngồi thụp xuống bậc thềm xe. Lúc lau chùi cả người, tụi chú nghe thử xem có nhiều ầm thanh đáng lo ngại hơn không. Nhưng tụi chú chỉ nghe thấy vài tiếng giậm chân và chảy dãi rất đàng hoàng. Nên tụi chú cho cặp hươu cao cổ uống vài xô nước nữa, tụi nó liếc nhìn trong giây lát trước khi uống ừng ực, rồi tụi chú lại cất tấm vải dầu và lên đường.

Tụi chú phải tiếp tục đi.

Không bao lâu sau, tụi chú đã tới chỗ bị ảnh hưởng nặng nề nhất của vùng Bão Cát Okie. Đi càng xa, cây cỏ càng trơ trụi. Ban đầu, khi mây kéo tới và mưa bắt đầu lẩt phất, tụi chú cũng không để ý gì. Nhưng sau một tiếng đồng hồ chỉ có tụi chú chạy trên xa lộ vắng tanh này, cả con đường nhìn giống như bị bỏ hoang.

Đột nhiên, tụi chú không còn đơn độc nữa. Từng đàn chim nhỏ màu nâu đang bay cùng tụi chú trong làn mưa lất phất, tạo thành những vòng tròn và dải ruy băng, bay gần, rồi lại bay đi mất. Chừng vài cây số rồi cả bầy lại xuất hiện, những đợt sóng không có bắt đầu cũng không có hồi kết, cứ tiếp diễn mãi phía trên mặt đất phẳng lì, trơ trụi.

Thậm chí Ông Già cũng thấy ấn tượng. “Cái đó mới đúng là kì quan thiên nhiên.”

Tụi hươu cao cổ cũng để ý, hai cái cổ của tụi nó đung đưa theo đàn chim kéo dài vô tận.

“Tụi nó bay cùng lúc tới đâu vậy - mà tại sao?” Chú hỏi, mắt nhìn theo dải ruy băng phất phơ trên vùng đất hoang tàn rồi lại ào trở về.

“Có thể vừa có chuyện gì đó,” Ông Già nói, giọng ông nhỏ dần khi đàn chim kéo lại gần. “Khả năng cao hơn là sắp có chuyện gì đó.”

“Nhưng sao tụi nó lại biết được?” Chú hỏi.

“Bản năng động vật. Từ ngày đầu lũ chim nhỏ màu nâu đã có sẵn rồi,” ông nói. “Không phải là con người không có chút xíu nào bản năng đó. Như khi mày cảm thấy có ai đó đang nhìn mày, hoặc tại sao tới phút cuối mày không đâm thẳng vô cái cột ở trạm xăng vậy. Vài người cảm nhận rõ ràng tới mức họ tin là mình có giác quan thứ sáu, nhãn quan thứ hai, mà mày cũng không giải thích kiểu gì khác được đâu.”

Ờ thì câu đó làm chú hơi ngọ nguậy nhưng nhanh chóng nhất có thể, tự hỏi liệu Ông Già có cách nào biết về chuyện dì Beulah và những cơn ác mộng lai tạp mới đây của chú không. Nhưng hai mắt ông vẫn không rời đàn chim.

“Dĩ nhiên, mấy người như vậy bị kêu là đổng bóng hoặc điên khùng,” ông tiếp lời. “Nhưng tao thấy mấy thứ đó có thể là dư âm của những thứ mà chim chóc động vật chưa bao giờ mất đi - chắc là những phần bé tí còn sót lại của bản năng sinh tồn bẩm sinh mà hàng ngàn năm văn minh của loài người vẫn chưa dập tắt được hoàn toàn.” Ông lắc đầu khi đàn chim bay vòng quanh tụi chú theo những vòng tròn nhỏ rồi lại kéo nhau về phía bình nguyên, “Ừ, tao kể mày nghe tao đã thấy nhiều thứ lạ lùng khi làm việc với động vật nhiều năm nay, lạ lùng và đáng kinh ngạc…”

Cả hai đều im lặng, bị đàn chim dập dìu hớp hồn, tới nỗi chú quên hết mọi thứ. Suốt hai tiếng đổng hô, kiếng hậu bên hông của chú tràn ngập những chim và hươu cao cổ, lồng khung như một bức tranh, hai cái cổ dài của tụi hươu đung đưa cùng bầy chim tung cánh cuồn cuộn, cho cả Ông Già lẫn chú dư dả thời gian để đăm chiêu. Chú vẫn nghe kể suốt là có một thuật ngữ cho hiện tượng này - tập kết - tức là hiếm hoi mới có rất nhiều chim tụ lại nhìn như một đám mây nhảy múa. Nhưng không ai có thể giải thích về dải ruy băng kéo dài vô tận này để chú có thể nhớ. Trên vùng đất không chút khoan dung của cả thời thơ ấu mót từng bạc cắc, nơi cụm từ kì quan thiên nhiên không có nghĩa lí gì, cảnh tượng này làm lòng chú trào dâng cảm giác của thứ gọi là kì quan.

Tới chiều thì đàn chim đã đi cùng tụi chú lâu tới mức có cảm giác rằng tụi nó đang quá giang trên xe vậy.

Cho đến khi, một cách đột ngột không dấu hiệu báo trước, một khúc cua trên đường làm tụi nó mất tám.

Đàn chim đã bay mất rồi.

Vùng đất ấy lại rất nhanh chóng trở về dáng vẻ trơ trụi xấu xí và hoang tàn, tới mức chú gần như nổ tung. Một lần nữa buộc phải nhìn trừng trừng vào hư không trên vùng đất Okie, tâm trạng chú tuột dốc hoàn toàn, thậm chí liếc nhìn tụi hươu cao cổ cũng không làm chú khá khẩm hơn. Nhìn qua Ông Già, ông cũng đang rất rầu rĩ, chú chỉ còn có thể nghĩ về những đàn bồ câu viễn khách trong truyện về Mắt Diều Hâu mà Ông Già từng kể, đông tới mức tụi nó che kín cả bầu trời -tới khi tụi nó bị quét sạch khỏi trái đất. Tuyệt chủng là một từ mà hồi đó không ai xài nhiều cả. Nhưng là một thằng nhóc suýt nữa không toàn mạng mà thoát khỏi miền đồng cỏ chết chóc, chú cứ nghĩ ngợi về chuyện này trên đường đi, nghĩ về tất cả những người sống dọc biên giới, tay cầm súng etpigon mà nghĩ mãi cũng không biết chim bồ câu đã đi ngả nào - như mấy ông cha bà má Okie cầm cày nghĩ mãi không ra đất trồng đã đi ngả nào.

Trong những năm kế tiếp, khi Thế Chiến bao trùm cả thế giới và khả năng tự tay mình làm mình tuyệt chủng trở thành một thứ khiến người ta buộc phải nghĩ ngợi, chú lại nhớ về khoảnh khắc bầy chim tập kết đột nhiên biến mất đó, cảm giác như một sự mất mát khiến tâm hồn kiệt quệ không sao giải thích được. Nhưng ngày hôm đó, cảm giác chỉ là một nỗi buồn viễn khách man mác lạ lùng không tên, một thứ cảm giác cũng lất phất như cơn mưa trút trên đầu tụi chú vậy.

Cứ như vậy, tụi chú cứ lái tới khi gần ra khỏi Oklahoma. Ông Già phá tan sự yên lặng bằng cách thông báo là tụi chú sẽ qua đêm ở nhà nghỉ ven đường có tí cây cỏ kế tiếp.

Khoảng một tiếng nữa là tới ranh giới địa phận bang Texas thì tụi chú thấy Nhà nghỉ & Khu Cắm trại Trạm Giao thương Lều Thổ dân có mấy phòng hình cái lều được sơn gấm nằm cách biệt như một ngôi làng của thổ dân Da Đỏ. Hàng cây cao được trồng ngay ngắn dọc theo hàng rào phía sau đã thuyết phục được Ông Già, mặc dù ông là kiểu người trời có sập cũng không chịu ở trong một căn phòng trát vữa có hình dáng như cái lều của thổ dân. Nhưng vì tụi hươu cao cổ, tụi chú sẽ vô đó.

Vừa thấy tụi chú, ông chủ và bà vợ liền chạy một mạch ra khỏi văn phòng và trạm giao thương, ông chủ thì ú ớ mừng rỡ còn người vợ thì vẫy vẫy mấy cái nón kiểu thổ dân bằng giấy để làm quà lưu niệm - hai cái cho tụi chú, hai cái cho tụi hươu cao cổ - mà Ông Già đã từ chối tất. Chỉ lát sau, chiếc xe đầu kéo đã yên vị bên mấy cái cây. Ở lại chung chỗ với tụi chú tối đó chỉ có hai gia đình ăn bận sạch sẽ chu du trên hai chiếc xe đẹp, tụi nhỏ tưởng mình trúng độc đắc khi vừa được ở lều thổ dân vừa có luôn hai con hươu cao cổ. Còn nữa, ở chỗ cắm trại xa khỏi nơi đậu xe, còn có một gia đình Okie đông đúc đã dựng lều, đồ đạc của họ được cột chặt vào xe tải Mẫu T.

Khi màn đêm buông xuống, Ông Già và chú chăm sóc cho tụi hươu cao cổ. Tụi chú kiểm tra Chàng Trai và Cô Gái coi còn vấn đề về tai, mũi, họng nào không, vì vậy mà cả người ướt nhẹp nước dãi hươu cao cổ. Cô Gái mệt quá rồi nên cũng chẳng thèm hít hà gì khi Ông Già kiểm tra băng gạc trên chân cho nó. Vậy nên, để tụi hươu cao cổ vui lên, tụi chú đã cho nhóm người hâm mộ hươu cao cổ từ khu làng thổ dần tới gần, cho phép Cô Gái và Chàng Trai chơi giỡn chút, chúi tới gần để liếm mặt tụi nhỏ và hất nón của mấy ông rớt xuống đất. Thậm chí gia đình Okie cũng không cưỡng lại được. Đầu tiên là bà má ẵm con, rồi tới bà nội phải chờ cánh đàn ông dỡ cái ghế bập bênh và kéo nó lại để bà ngồi coi. Ông Già, hơi mỉm cười, còn để tụi nhỏ cho hươu cao cổ ăn hành tây.

Lúc mấy cặp vợ chồng lùa tụi nhỏ và bà nội hoặc là trở về lều thổ dân trát vữa hoặc là về khu cắm trại, một chiếc Packard màu lục đậu xịch lại cách đó vài căn lều, làm tâm trạng đang tốt của Ông Già cũng tan tành. Chú tưởng mình sắp nghe bài diễn văn chỉ trích như hồi ở Chattanooga. Nhưng không, ông quay sang chú rồi nói, “Tao cần nói chuyện với mày về bức điện tín mới của Bà Sếp. Còn bây giờ thì tao phải trả lời đã.” Rồi ông quay trở lại văn phòng.

Bầu trời đã trong sáng hơn một chút, trận bão cát cũng đã qua, mây trôi trên cao thành từng cụm, đua nhau chạy về phía những vì sao. Nhờ có trạm giao thương ngay tại đó mà Ông Già có thể nấu một bữa ăn nóng hổi có đậu và bánh mì làm từ bột bắp thô trên một cái lò lửa ngoài trời cách tụi hươu cao cổ không xa. Dù không trông mong nhưng xét lại những thăng trầm của cái ngày ở Oklahoma đó, chú thấy không bận tâm gì, cái kiểu không khí trong lành và một cái bụng no nê có thể làm con quên hết mọi muộn phiền trong chốc lát. Ông Già chắc là cũng cảm thấy hệt vậy, bởi thứ mà ông muốn nói tới cuối cùng lại không được ông nhắc đến. Với chú thì vậy cũng được thôi. Dội nước lên lò lửa, ông đi về phía lều thổ dân của tụi chú cùng lời hứa như thường lệ là sẽ thay ca với chú. Vậy nên chú trèo lên nóc rồi ngồi kẹp chân trên tấm ván chéo giữa Chàng Trai và Cô Gái để tận hưởng niềm vui được cạnh bên tụi nó khi tụi nó đã bắt đầu công cuộc nhai lại. Ánh sáng duy nhất giờ đây là hình ảnh phản chiếu từ lửa trại của gia đình Okie bên kia đường, và nó khiến cho vạn vật gần như thật lung linh.

Đó là khi chú nghe tiếng Tóc Đỏ phía dưới.

“Woody?” Nàng hỏi, ráng kìm cơn ho. “Tôi trèo lên nhé?”

Không còn thấy bận tâm nên chú muốn nói không. Nhưng thay vì vậy, chú lại gật đầu, chỉ là có vẻ bực dọc. Nhấc ống quần lên, nàng trèo lên chỗ chú đang ngồi và cũng choàng chân qua để ngồi đối diện chú. Chú nhích người tránh xa nàng, như chú đã từng làm vào cái đêm sau ngày dài trên núi. Nàng để ý. Cô Gái chào hỏi nàng rồi tiếp tục nhai lại, nhưng Chàng Trai thì tới gần để khụt khịt.

Tóc Đỏ vươn tay vuốt ve quai hàm nó, rồi lại phải ráng kìm một cơn ho nữa. “Tôi không lấy bụi ra khỏi mũi mình được,” nàng lẩm bẩm. Trong ánh đèn leo lét từ lửa trại của gia đình Okie, nàng nhìn chú và “khuôn mặt nhà quê” của chú hệt như cách nàng đã làm ở chỗ Bố Già. “Kể tôi nghe câu chuyện của anh đi, Woody,” nàng nói. “Đi mà. Tôi thật sự muốn nghe.”

Chú không nói nửa lời và nàng biết rõ mười mươi vì sao.

“Được rồi,” nàng nói, hít một hơi thật sầu. “Hỏi tôi bất cứ câu nào anh muốn đi. Tôi hứa sẽ trả lời.”

Nên chú mở miệng ra và hỏi, “Cô lấy chồng rồi?”

“Đúng,” nàng nói, nhìn lại chú.

Chú lưỡng lự. “Chồng cô là thằng cha kí giả đó?”

“Đúng.”

Chú lại lưỡng lự. “Vậy thì tại sao cô lại ở đây mà không phải đi chung với anh ta!”

“Bởi vì tôi muốn ở đây hơn.”

“Nhưng cô có chồng mà.”

Nàng hướng mắt nhìn thẳng và lại nói, “Đúng.”

Chú chưa từng ở cạnh người phụ nữ đã có chồng nào trừ má chú hoặc những người như má chú. Cái ý nghĩ là nàng đã có chồng rồi nhưng lại không kè kè với hắn làm chú thật sự không hiểu nổi. “Nhưng anh ta muốn cô trở về với anh ta mà.”

“Có thể,” nàng nói. “Hoặc anh ta chỉ cần chiếc Packard trở về thôi.”

Rồi chú nghe câu này phun ra từ miệng mình, cái câu mà chỉ hai tuần trước chú sẽ nghĩ là chỉ có thằng đầu đất mới hỏi. “Cô không yêu anh ta à?”

Câu hỏi này làm nàng cựa mình khó chịu. “Tình cảm của tụi tôi thế nào đó là chuyện của tụi tôi.” Nàng thở dài. “Anh ta là một người đàn ông tốt, dù anh ta có nghĩ gì về tôi đi chăng nữa.”

“Một người đàn ông tốt? Anh ta đã cho cảnh sát đăng thông cáo về cô đó!”

“Đúng.”

“Nhưng sao cô lại lấy anh ta?”

Nàng lại thở dài. “Anh không hiểu đâu.” Nàng đấu tranh nội tâm, gương mặt đỏ lên hệt như mái tóc.

Nàng không quan tâm. “Cô đã nói sẽ trả lời mọi câu hỏi…”

Nàng cắt ngang chú. “Anh nghĩ anh là người duy nhất có câu chuyện không muốn kể à?” Hai tay vuốt ngực, nàng bắt đầu nói thật nhanh. “Tôi đang gặp tình cảnh ngặt nghèo và cần giúp đỡ.” Nàng thả tay xuống. “Nên tôi đã làm theo cách mà phụ nữ hay làm. Tôi lấy chồng.”

“Nhưng sao lại là anh ta? Tại sao là anh Kí giả Vĩ Đại?”

“Bởi vì anh ta chính là anh Kí giả Vĩ Đại,” nàng trả lời. “Có công việc tốt và một chiếc xe tốt. Tôi mới mười bảy. Anh ta cho tôi cảm giác an toàn. Đó là tất cả những gì tôi nghĩ là mình cần, và trong một lúc nào đó thì đúng vậy. Thật sự là vậy.” Nàng ngừng lại. “Nhưng rồi, mỗi tuần, anh ta lại đem về nhà một tờ tạp chí Life . Tôi bắt đầu nhìn thấy thế giới từ những bức ảnh đó. Và tôi đã bắt đầu muốn… và cẩn… hơn thế.” Nàng ngưng lại để ho, rồi cơn ho trở thành hơi thở hổn hển, hết đợt này tới đợt khác, hệt như lần ở chỗ Bố Già - hơi thở ngắn, nông và dữ dội - và kiểu thở đó lại khiến chú sốc một lần nữa, vì nó nghe như cơn giãy chết của mẹ chú. Nàng mím chặt môi qua từng cơn hổn hển như thể nàng tức giận khi phải làm vậy và dùng hết ý chí để ngưng nó lại.

Một lúc lâu sau thì cơn hổn hển cũng ngưng.

Nàng ngồi xuống, tay nắm chặt áo và thở nhẹ, không gây tiếng động, được một lát. Rồi nàng lẩm bẩm, giọng lạc đi, “Tôi biết tôi đã hứa, Woody, tôi tưởng mình có thể… Nhưng tôi không thể… Làm ơn đi.” Nàng lại chật vật nuốt một hơi xuống, như thể sự thật vẫn còn kẹt trong cuống họng nàng. “Anh không cần phải kể tối cái gì hết, thật đấy, anh không cần.”

Khi chú nhìn nàng vén những làn sóng tóc ra khỏi gương mặt, chú lại quên mất mọi sự mâu thuẫn của mình. Chú không thể phân biệt được liệu nàng đang nói thật hay nói dối, bởi những lời này không hoàn toàn là sự thật. Nhưng ngay lúc đó, chú cóc cẩn biết toàn bộ sự thật là gì. Chú đã có sự thật của mình đang mắc kẹt trong cuống họng rồi, chứ gì? Ngay cả khi nàng nói những lời này chỉ để nghe câu chuyện miền Bão Cát thê lương của chú, chú cũng không quan tâm. Chú muốn kể cho nàng nghe. Nhưng như vậy cũng không khiến việc dùng lời lẽ kể lại nỗi khổ dễ dàng hơn chút nào.

Chú thậm chí còn không biết bắt đầu từ đâu…

Cô đã từng thức dậy cả người toàn là cát, không khí đặc quện tới mức cô phải rít nó vô phổi để thở hoặc chịu chết chưa? Cô đã từng thức dậy cùng với nỗi sợ rằng thêm một con vật cô nuôi, hít cùng thứ cát đó, sẽ không thể sống sót qua đêm? Cô đã từng sống nhiều năm trời với những ngày như vậy, sống trong sợ hãi và cát bụi, từ ngày cô chôn em gái tới ngày chôn má mình? Và cái điều mà cô không biết, cái điều cô không thể biết, là cũng ngày này - chính ngày hôm đó - sẽ kết thúc trong cái cảnh chỉ có mỗi cô là sinh vật còn sống sót trên một mảnh đất Cán Xoong vô giá trị, mặt mũi và giày bốt của cô dính máu tung tóe?

Nhưng toàn bộ sự thật của chú - cái sự thật mà chú vẫn chưa đủ can đảm để viết xuống tập ghi chép này - chính là sự thật mà chú sẽ không kể.

Thay vì vậy, chú kể cho nàng nghe chuyện của tất cả những thằng mô côi miền Cán Xoong… rằng những người phụ nữ như má chết vì viêm phổi xuất phát từ việc thờ phụng và vâng lời, phớt lờ mọi dấu hiệu của một lời nguyền trong Kinh Thánh, vì những người đàn ông như cha con lại nói là phải làm bằng được. Rằng nếu con mà thật sự tận số, có ba có má như vậy, bản thân con cũng đã đi nửa đường tới chỗ thần chết rồi. Rằng mấy con vật đang nuôi sống con cũng sắp chết luôn, vì tụi nó đói khát từ bên trong, rồi mấy ông nông dân mổ xác mấy con bò ra cũng chỉ thấy toàn cát là cát. Con đã phải chịu đựng như thế nào vào mỗi buổi sáng, biết rằng bản thân có thể thức dậy rồi nhìn thấy một người khác nằm dài ra đất, và có một nỗi đau cần phải được chấm dứt. Bằng cách nào đó, sau một thời gian, con muốn hóa điên, nhận ra rằng tất cả đều cần được giải thoát khỏi nỗi đau. Mảnh đất này đang trả thù, bằng tro tàn, bằng cát bụi, và đã tới lúc phải từ bỏ rồi, dù con không biết từ bỏ để rồi làm gì đi chăng nữa. Vài người không làm được, không thể từ bỏ, những người như cha chú, không biết cách từ bỏ để khỏi kết thúc bằng cái chết… và đó cũng là kết cục của cha chú… một cây súng trường vẫn còn nắm chặt trong tay… được nhấc lên và nhắm ngay vào ông.

Đó là những gì chú kể với nàng. Tất cả mọi thứ trừ đoạn súng trường. Chú nói chuyện như vậy chỉ là một trong một ngàn cách khác nhau để cuối cùng con trở thành thằng mồ côi ở cái chốn này, một ngàn cách như một. “Chỉ còn duy nhẩt một cách là tìm nơi chốn khác, trở thành một ai đó khác,” chú dứt lời, quai hàm đã nằm yên.

“Nhưng mà Woody à… Anh lại trở lại ngay đầy rồi,” nàng lẩm bẩm. “Sao anh lại làm vậy?”

Chú trả lời nàng bằng cái câu chú đã nói từ ngày xảy ra trận bão. “Tôi muốn đi Cali.” Rồi chú quay lại nhìn Cô Gái và Chàng Trai đang nhai lại. Khi chú quay sang Tóc Đỏ, hai mắt nàng đã ngấn nước. Nàng đặt tay nàng lên tay chú để an ủi. Chú rụt tay lại, vẫn còn quá đắm chìm trong hồi ức. Nên nàng ngả người ôm chầm lấy chú như hồi ở Little Rock, và chú để nàng làm vậy. Rồi, cũng như cách những cái ôm hay làm, sau đó là một nụ hôn nhẹ để vỗ về hơn là mơn trớn, dù là ở trên môi. Nhưng chú làm gì biết những thứ như vậy, dù có biết đi chăng nữa thì cũng chẳng quan trọng. Vì chú cuối cùng cũng được hôn Augusta Tóc Đỏ và chú muốn thời khắc đó kéo dài - để nó là nụ hôn đầu tiên chấm dứt mọi nụ hôn diễn ra trong tưởng tượng kể từ những đêm lê thê ở bến tàu. Nên khi nàng bắt đầu ngả về sau, chú luồn tay qua những lọn tóc của nàng để giữ nàng lại, để nụ hôn đó có ý nghĩa gấp bội lần ý nghĩa mà nàng muốn dành cho nó, để nó có ý nghĩa như cái cách mà chú muốn.

Nàng lùi lại cùng với vẻ mặt kì lạ nhất mà chú từng thấy.

Rồi nàng ói mửa.