← Quay lại trang sách

Chương 16 VỀ NHÀ

Khi chuẩn bị xuất ngũ thì quân Nhật đánh bom Trân Châu Cảng, và chú lại cùng với trai tráng Mỹ lành lặn khác trường kỳ chiến đấu.

Chú bước sang tuổi hai mươi lăm khi trở lại Mỹ.

Chú muốn nói rằng mình đã chiến đấu và trở về như một anh hùng, chiến tranh tôi luyện chú thành một người đàn ông như cảnh sát trưởng từng nói. Nhưng chiến tranh là một nơi tàn bạo để rèn con người ta trưởng thành. Chú từng tham gia quân đoàn hậu cần ở châu Âu. Chú làm việc với người chết. Bọn chú là người trở vô khi chiến trận đã tàn, gom xác và đào huyệt. Người quân đội nói chú “có khiếu”, nhưng chú vẫn không hiểu như vậy nghĩa là gì. Điều chú biết là cái khiếu bất chợt ấy xuất hiện khi chú nói chuyện với sai người, với một ông sĩ quan, là chú thấy chết chóc như rươi, và ông ta đáp, “chết chóc như rươi, hử?” Đột nhiên chú có khiếu và không lâu sau thì có nhiều thứ hơn cả chết chóc như rươi. Chẳng vinh quang chi, phận sự phải làm thôi. Và nó khiến chú ước chi mắt mình bị bụi vùng Cán Xoong lấp lần nữa, cho đến khi chú học được cách không thấy, không cảm nhận cũng như cách không nghĩ gì khi thực hiện nhiệm vụ, tù ngày kinh hoàng này sang ngày chết chóc khác.

Những thứ như thế sẽ lấn át kí ức đời con trước Thề Chiến trừ khi con bám víu lấy thứ gì đó và bám thật chặt. Hầu hết lính chiến bám víu vào người thương và gia đình, viết thư cho những người chịu viết thư hồi đáp. Vậy còn đứa mồ cối biết bám víu vào đâu? Vậy nên, khi những ngày tháng sống với người chết gộp thành hàng năm, chú để bản thân trượt dài.

Khi chiến tranh chấm dứt, chú vượt đại dương về nhà, hướng về cảng Nữu Ước, lòng vẫn mang nặng chiến tranh. Nhưng khi bọn chú vượt bão trên biển, chú lại bắt đầu cảm nhận được thứ gì đó. Là những con hươu cao cổ. Khi thuyền oằn rồi vỡ, chú nhận ra mình cũng lênh đênh trên cùng một đại dương như Chàng Trai và Cô Gái đã từng. Chú nhắm mắt, và thay vì bị kẹt trong một con tàu chiến vào năm 1945, chú bị kẹt trong một cái chuồng ở khoang vận chuyển hươu cao cổ giữa cơn Siêu Bão năm 1938, hướng về Mỹ. Những người lính khác không ngủ được vì nhớ nhà và gia đình. Còn chú, chú không ngủ được vì nghĩ về những con hươu cao cổ vượt bão. Chú đã từng bám víu vào thứ gì đó. Khi bọn chú cưỡi cơn sóng dữ, chú lại một lần nữa chở “hai sinh vật khổng lồ từ vườn Địa đàng thuần khiết của Chúa” xuyên quốc gia. Chú đang nhìn thấy một chiếc Packard trong kiếng hậu và nghe tiếng Cô Gái đá Ông Già. Chú đang chúi người bên vách núi, gặp đại gia đình Moses, dòm ngó con mèo mập trọc phú và bắn thằng tay sai chôm chỉa. Chú đang nhảy dựng vì một cơn lũ quét, đánh vật với một thằng điên miền sa mạc, nhìn Chàng Trai cứu bọn chú, và cảm nhận vị ngọt nơi đôi môi Tóc Đỏ đặt lên môi chú. Chú lại nghe Ông Già nói về gã ốm trơ xương với con voi và con chó - thế giới này làm sao mà lý giải được, mở mắt ra đã thấy mình ở đó, thấy bạn bè mình là như thế. Và chú bắt đầu nhớ ra bạn bè mình là ai.

Trong lúc trầy trật trong khoang vận chuyển, cưỡi sóng cồn, chú đã lên kế hoạch làm gì vào thời điểm cập bến.

Chú sẽ tìm họ.

Chú sẽ tìm nàng.

Và chú sẽ tìm con.

Chú lần ra được Ký Giả Vĩ Đại, Lionel Abraham Lowe, đến một ngôi nhà nhỏ ở New Jersey có sân cỏ xanh. Khi hắn ta mở cửa, nhìn cách hắn tia bộ đồng phục của chú, chú dám lấy hết lương lính của mình mà cá rằng hắn là cái thứ 4-P*, chắc là vì bàn chân bẹt hoặc đầu dẹt.

Chú nhanh chóng nói những gì cần nói: “Tôi muốn nói chuyện với Tóc Đỏ.”

Hắn ta làm căng. “Ai?”

“Augusta, vợ… ông.”

Nhẹ đóng cánh cửa sau lưng mình, hắn nhìn thẳng vào mắt chú. “Augusta mất cách đây mấy năm rồi. Mà anh là ai?”

Chú giật ngược, loạng choạng như bị ai đấm. Hẳn chú lại nhìn giống hồi mười bảy, bao nhiêu năm tháng và chết chóc từ trên mặt rớt xuống, nên hắn nhận ra chú. Mắt hắn mở to và nhìn quyết liệt, mặt ửng đỏ, và hắn vung nắm đấm lên.

Và chú hứng.

Chú giật ngược thêm một bước nữa sau cú đấm rồi cứ đứng đó, máu tuôn ra từ mũi. Hắn ta trân trối nhìn chú máu me đầm đìa trước hiên cho đến khi chú đổ gục trước bậc thềm nhà, lúc đó mới lấy cho chú một cái khăn, rồi ngồi xuống cạnh chú.

Chốc lát trôi qua, hai người bọn chú ngồi thụp ở đó, chờ khăn thấm hết máu.

“Làm sao mà cổ mất vậy?” Chú lầm bầm.

“Tim của cô ấy, hiển nhiên rồi,” hắn ta đáp. “Trong lúc ngủ. Khoảng một năm sau khi con gái của chúng tôi ra đời… Chúng tôi gặp nhau như thế đấy.”

“Cái gì?”

“Tim của cô ấy,” hắn nói, mắt nhìn xa xăm. “Tôi phát hiện cô ấy oằn mình, tay bấu vào vị trí trái tim, không thở được. Tôi đề nghị đưa cô ấy đến bệnh viện. Cô ấy không có tiền, nhưng khi tôi đời trả, cô lại từ chối. Nên tôi đưa cô ấy đến chỗ nhà thương tế bần và ngồi đợi cùng cô, cô thở dốc không ngừng cho đến khi người ta tiêm cho cô ấy một mũi gì đó.” Hắn ngưng lại. “Cô ấy xuất thân khuê các, anh biết đấy. Cha của cô ấy là một trong những gã nhảy khỏi cửa sổ Phố Wall hồi khủng hoảng năm 1929, lúc cô ấy mới mười hai. Suốt hàng năm trời, cô và mẹ mình phải lê lết sang nhờ vả họ hàng, tự bươn chải để lo cho thân mình, cho đến khi mẹ cô hóa điên rồi tha thẩn mất dạng. Augusta đi tìm bà. Tôi cũng bỏ hàng ngày liền giúp cô ấy tìm mẹ, lòng nghĩ có thể từ đó mà có được chuyện để viết, xét từ góc độ của người nhảy lầu ở Phố Wall, dù cho chúng tôi có tìm được mẹ cô ấy hay không. Chuyện như thế diễn ra suốt trong thời Đại Khủng hoảng, dân tình mất tích, không bao giờ nghe tung tích gì nữa. Nhưng chúng tôi đã tìm thấy bà. Quá trễ. Đến lúc đó tôi đã quên mình phải viết bài và Augie thì không còn nơi…”

Cánh cửa trước mở ra cọt kẹt.

Con đứng đó. Với gương mặt của cha mình. Và mái tóc xoăn của mẹ.

“Trở vào nhà đi bé con,” hắn ra lệnh, “đi đi.” Hắn nhìn chú với vẻ lo lắng hơn là hung hãn. “Hãy để con gái tôi ngoài chuyện này. Con bé mới sáu tuổi thôi,” hắn thì thầm. “Con bé chẳng biết chút gì về quá khứ hoang dại của mẹ nó… một mình… đuổi theo bầy hươu cao cổ đủ kiểu. Chính anh và tên quản thú đó đã làm cô ấy buông thả! Trời đất ơi, cô ấy là phụ nữ! Bị bệnh tim! Cô ầy có thể chết bất đắc kỳ tử đơn độc ngoài đó. Cô ấy đời hỏi quá đáng… Cô ầy luôn đời hỏi quá đáng!”

Hắn châm thuốc và đứng dậy. Nhưng chú còn muốn biết nhiều hơn. Tóc Đỏ có được vô làm ở tạp chí đó không? Nàng có nhìn thấy châu Phi chưa? Nàng đã sải rộng đôi cánh của mình chưa?

Nhưng trước khi tôi kịp hỏi, cánh cửa lại mở.

“Lionel? Ai đấy?” Đứng đó là một người phụ nữ tóc nâu trong bộ đầm hồng, ngào ngạt mùi oải hương, bên hông đang bồng một đứa nhỏ.

Chú đứng dậy.

“Em yêu, chỉ là một người lính tìm người không còn sống ở đây nữa thôi,” ông ta đáp lại.

“Anh bị chảy máu,” cô nói.

“Ừ, em,” hắn ta trả lời thay chú. “Anh ấy tự dưng chảy máu mũi, nhưng tụi anh đã tự lo được, phải không anh lính? Anh đã mang cho anh ấy cái khăn. Không phải lo. Giờ anh ấy phải lên đường rồi.”

“Ừm, Chúa phù hộ anh. Augie Ann này, anh ta đã đánh thắng trận vì mình đấy!”

Augie.

Con đến gần, và chú được nhìn thấy con cười.

Dồn gia đình mình vào trong, hắn nói lớn về phía chú, “Xin lỗi không giúp được anh rồi anh lính ạ.” Rồi Lionel Abraham Lower đóng sầm cửa trước mặt chú, đôi mắt hắn ta tự kể hết mọi chuyện. Hắn yêu Tóc Đỏ. Chú đã không chắc mãi tới tận thời điểm đó, và nhờ vậy mà chú thấy an tâm về con hơn.

Chú tìm thấy một thư viện và lục tung những số tạp chí Life cũ. Chú hi vọng bằng cách nào đó, nàng đã được nhận vô tạp chí, ngay cả khi không có hình của tụi chú. Tất nhiên, nàng không làm được. Kí giả ảnh Margaret Bourke-White mà nàng mến mộ đã đi khắp nơi, chụp lại cuộc chiến trên khắp thế giới. Không có Augusta Tóc Đỏ.

Nhưng khi ngồi lại trong thư viện đó, chú nghe những lời cuối cùng Tóc Đỏ nói với mình như thể nàng vẫn đang đứng trước mặt chú: Tụi mình đã có một chuyến phiêu lưu hẳn hoi mà, phải không, Woođy Nickel?

“Phải,” chú đáp, to rõ, dõng dạc. “Phải, mình đã làm được.”

Chú muốn quay trở lại để kể cho con. Mẹ con đã có một chuyến phiêu lưu - một chuyến phiêu lưu đúng nghĩa để con tim nàng hát lên một lúc cho dù chẳng thể làm nó khỏe hơn. Dọc đường, nàng đã thấy chầu Phi -nằm phía sau một chiếc xe tải, trong đôi mắt của những con hươu cao cổ, xuôi con đường về phía Tầy - và nàng đã bản lĩnh và dũng cảm hết mức có thể. Chú nôn nao muốn kể con nghe. Nhưng Thế Chiến đã rèn chú thành một người đàn ông cao quý, nếu nó không làm ra thứ gì khác. Chú được yêu cẩu để con yên, nên chú làm vậy. Con là con gái họ, chú không có quyền gì trong chuyện này, dẫu chú vẫn nặng lòng với Tóc Đỏ. Thực tình, ngay lúc này, chú cũng không chắc mẹ con là gì với chú nữa. Không có điều gì chú nghĩ ra mà đúng cả. Chú chưa biết nàng đủ lâu để nói rằng nàng là tình yêu của đời chú, dù cảm nhận đó vẫn sâu sắc như thể nó ở ngay nơi đây, vào lúc này, khi chú đang viết. Nhưng một người đàn ông sống hàng chục cuộc đời bên trong một cuộc đời dài như chú sẽ dám nói rằng nàng là tình yêu đầu đời của chú. Chú có thể dám chắc điều đó.

Vậy nên, từ thư viện đó, vác theo không chỉ cái mũi bị gãy, chú băng ngang tới bờ kia, tới San Diego để tìm tụi hươu cao cổ. Chú bước qua cửa sở thú, vốn không thay đổi gì từ ngày chú nhìn nó từ xa. Chú đi bộ một lát, rẽ ở một góc đường, và chúng đã ở đó. Một bảng hiệu ghi tên tụi nó là “Cao cẳng” và “Lốm Đốm”. Nhưng, chẳng thể lầm được, tụi nó là Chàng Trai và Cô Gái, cao lớn, khỏe mạnh, cao hết tầm vóc - Chàng Trai nay đã cao hơn Cô Gái, lại còn quyên uy như một vị hoàng tử. Chú vui sướng ngồi xuống một băng ghế để mắt mình có thể uổng trọn dáng hình tụi nó, và từ phía sau, một con hươu con đang tung tăng. Bảng tên trên hàng rào ghi tên nó là “D-Day,” bởi nó ra đời vào cái ngày trong vạn ngày ấy, ngày 6 tháng Sáu năm 1944, khi các lực lượng vũ trang Đồng Minh đổ vào chầu Âu - con nghĩ sao về chuyện đó? Mà nó còn cao hơn chú nữa.

Chú dành một tuần tới lui chỗ băng ghế đó. Chú chẳng mong tụi nó nhớ chú, nhưng chú cũng muốn cho tụi nó cơ hội. Suốt hai ngày, tụi nó chẳng nhận ra chú giữa đám đông. Vào ngày thứ ba, khi quản thú không có mặt, chú đưa vài củ hành qua hàng rào - để xem tụi nó sẽ làm gì. Cô Gái phi nước kiệu tiến tới trước. Chần sau nó còn sẹo nhưng vẫn ngon nghẻ lắm. Nó cúi đầu ngửi chú từ đầu đến chần, hệt như đêm đầu ở khu cách ly, rồi quấn lưỡi quanh củ hành trong tay chú và hất vào họng. Khi Chàng Trai nhập bọn, nó rửa tội cho chú bằng một cú phun nước bọt, chẳng ai có thể thuyết phục chú rằng họ chưa thấy chàng trai mà họ từng biết.

Tất nhiên, chú cũng lên kế hoạch tìm Riley Jones. Chú muốn gặp ông cùng những con hươu cao cổ và nghe một chút âm thanh rủ ri tiếng hươu cao cổ của ông. Chú sẽ bước đến gần và nói, “Chào, Ông Già,” Nhưng cứ mỗi ngày qua, lại một quản thú mới, trẻ hơn Ông Già nhưng trông cũng xù xì không kém, bước ra chăm tụi hươu cao cổ. Mỗi ngày, ông ta gật đầu chào và chú gật đầu chào lại. Cho đến một ngày, ông ta bắt quả tang chú cho hươu ăn củ hành.

“Này, anh lính kia!”

Phản xạ vốn đã biến mất từ lâu làm chú muốn chạy đi. Nhưng thay vì vậy chú vẫn đáp lại. “Vâng anh.”

Ông ta nhìn chú từ trên xuống dưới, mắt khựng lại một chút chỗ vết bớt trên cổ chú. “Tên anh là gì?”

Chú im lặng một chốc. “Ai hỏi đấy?”

“Có phải là Woody Nickel không?”

“Làm sao…?”

Ông ta mỉm cười thật tươi. “Riley bảo sớm muộn anh sẽ xuất hiện. Đi theo tôi nào.” Ông ta nói tên mình là Cyrus, Cyrus Badger. Khi bọn chú đang đi, ông ấy đặt tay lên vai chú và báo tin buồn. Ông Già đã mất, cùng năm. Sớm hơn một tháng là chú còn gặp được ông.

“Mabel, đây là anh chàng của Riley,” ông ta dõng dạc khi bọn chú bước vào một chỗ trông như phòng

trả lương. “Đây chính là Woodrow Wilson Nickel trứ danh.”

Chú còn chưa hay biết gì thì đã được dúi vào một tấm séc thanh toán dịch vụ lái xe trả sau.

“Ơ, khoan,” cô nói trong lúc lục lọi khắp bàn. “Riley có gửi lại anh vài thứ.” Vừa cười, người phụ nữ vừa trao cho chú một giỏ xu gỗ. “Lẽ ra tôi phải đưa anh số xu gỗ này trước và bảo đây là tiền công của anh, nhưng tôi không có gan cọp như vậy đâu.” Cô đưa giỏ xu ra cho tới khi chú thèm thuồng nhận lấy. “Nhìn kỹ vô, anh Nickel. Quà của ổng đó,” cô nói, tay đưa cho chú một xu. Mỗi xu này là một lượt ghé thăm sở thú. Phải đến hàng trăm xu đấy.

Cyrus tiễn chú, khoái trá với vẻ mặt của chú chắc cũng không thua kém gì Ông Già.

Khi chú đã cất lời được rồi, chú mới nói, “Sao mà ông ấy mất? Cơn lao tái phát à?”

“Lao?” Cyrus nhăn nhó. “Ông ấy đâu có mắc lao. Chính cái tật hút thuốc mới khiến ông ấy như vậy, bị ung thư cổ họng. Anh nghe ở đâu mà ra bệnh lao thế?”

“Ông ấy bảo từng bị lao hồi bằng tuổi tôi sau khi xém chuồn khỏi gánh xiếc lúc nhỏ. Ông ấy đến miền Viễn Tây để làm cao bồi, tìm phương thuốc chăn bò và ăn thịt heo muối.”

Đến đây, anh bạn của Ông Già đập tay xuống đầu gối rồi cười ha hả. Ông ta cười lớn và lâu đến mức chú thấy phật ý. Đưa tay quệt nước mắt, ông ta nói, “Woody, đó không phải là câu chuyện của Riley, mà là của Tiến sĩ Harry, người sáng lập sở thú này. Tiến sĩ Harry cố gắng chạy thoát một gánh xiếc khi còn nhỏ. Sau đó ông ấy mắc lao, và được chữa trị bằng cách đi về miền Viễn Tây và chăn bò - tất cả chuyện đó diễn ra trước khi ông ấy trở thành bác sĩ, rồi chuyển về đây, đột ngột mở sở thú này. Cả đời Riley Jones chưa hề chăn con bò nào cả!”

Ông Già nói xạo? Chú không thể tin vào tai mình. “Nhưng ông ấy không bao giờ nhân nhượng kẻ dối trá!”

Cyrus cười, “Ừm, giờ thì tôi không quá đáng đến mức gọi ông ấy là kẻ dối trá. Chẳng ai nhân nhượng kẻ dối trá cả. Nhưng chắc hẳn ai cũng sẽ thích một người kể chuyện hay, phải không? Đôi khi liều thuốc tốt nhất là một câu chuyện hay. Tôi cá là anh đã tìm ra nó rồi.”

Chú thả lỏng hai tay. “Vậy thì câu chuyện thật của ông ấy thề nào?”

Ông ta nhún vai. “Theo tôi biết thì ông là đứa trẻ bị bỏ rơi. Chưa bao giờ ông nhắc đến cô nhi viện, nhưng ông ấy từng kể cho tôi rằng lúc mười tuổi ông chỉ có một mình. Chuyện lúc này lu bu hơn những gì anh muốn nghe. Chuyện ở với gánh xiếc thì đúng.”

Chú bối rối đến mức nói không nên lời, và khi nói được, cùng lắm cũng chỉ lắp bắp thôi. “Rồi… bàn tay ông ấy thì sao? Một con sư tử trong gánh xiếc đã ngoạm lấy nó phải không?”

Cyrus lại rú lên. Chú lại làm cho ông ta cười phá lên. “Mong chúa phù hộ ổng, tôi cá là ông già Riley đó kể một ngàn lẻ một câu chuyện khác nhau để giải thích về bàn tay đó rồi,” ông ta vừa cười vừa lắc đầu. “Đừng buồn lòng, con trai. Ai thì ông ấy cũng làm vậy hết. Tôi từng bắt gặp ông ta kể hai câu chuyện khác nhau về bàn tay ấy trong cùng một ngày. Bẩm sinh ông đã vậy rồi, chắc kèo luôn. Hoặc có khi cái tay nằm lại trong miệng con mèo lớn cũng nên. Nếu không thì phải là chuyện gì đó tệ hại lắm ông mới không bao giờ kể sự thật. Quyền của ổng mà. Có những thứ riêng tư quá, anh chỉ có thể giữ cho mình thôi. Nhưng tôi đảm bảo nếu ổng có thể lựa chọn để mình thành bữa trưa của sư tử thay vì ung thư, thì ông già đó chắc ăn chơi tới bến luôn,” ông ta nói rồi đi mất, còn chú đứng đó há hốc miệng. Đi xa được vài bước, ông ngừng để ngoảnh lại. “Này, đi thôi. Anh cần gặp Bà Sếp đó.”

Một phút sau, chú đã đứng trước mặt bà Belle Benchley, Bà Sếp nổi tiếng. Bà trông vẫn y như bà giáo ở cổng sở thú vào một ngày tháng Mười năm 1938 đang rộng tay chào đón bầy hươu cao cổ, cảm xúc trào dâng như muốn đánh gục chú. Bà đang bước khỏi phòng làm việc nhỏ của mình phía sau phòng nồi hơi khi tụi chú đang tiến tới.

“Đoán xem ai đây!” Cyrus tươi cười. “Đây là anh chàng mà Riley kể suốt. Anh Woody Nickel.”

“Đúng rồi đây!” Bà chìa tay ra định bắt. “Chào cậu. Chào cậu!” Bà và chú đã có cuộc nói chuyện tuyệt vời nhất, cho đến khi điện thoại reo lên sau lưng bà và bà đi mất vào phía sau.

Cyrus đi cùng chú vòng ngược lại sở thú để tiễn chú. Dù vậy, trước khi đi, chú muốn hỏi thêm một chuyện về Ông Già nếu được.

“Đừng hiểu lầm ý tôi…,” chú bắt đầu, lóng ngóng lựa lời. “Nhưng hôi còn ở gánh xiếc, ông Jones có bao giờ ẩu đả với ai vi đối xử tồi tệ với động vật tới mức khiến người ta… mất mạng chưa?” Suýt nữa là chú đã lỡ miệng kêu tên gã mèo mập trọc phú rồi.

Đến đây, mặt Cyrus tỉnh hẳn. Theo chú nhớ thì ông nói thế này: “Không, chưa từng nghe. Động đến động vật thì ông làm vậy cũng không bất ngờ, nhưng anh có thể yên tâm là hầu như ai ở đây cũng vậy nếu không còn cách nào khác.” Ông ngầng đầu về phía chú. “Cơ mà, ai cũng xứng đáng có cơ hội thứ hai. Ông đã từng làm thế với một thằng nhóc miền Bão Cát phải không?” Ông ta vỗ vai chú. “Ông có kể cho anh nghe vì sao ông làm vậy chưa?”

Chú lắc đầu.

“Ổng nói ‘hai cục cưng’ kêu ổng làm vậy.” Với nụ cười quỷ quyệt có vẻ dành cho Ông Già hơn là dành cho chú, Cyrus ngoảnh lại đi tiếp. “Đừng quên tôi nhé,” ông ta gọi với lại. “ổng thích kể chuyện về chuyến xe đi cùng anh, mà Cao cẳng và Lốm Đốm cũng vui mừng được gặp anh.”

Cao Cẳng và Lốm Đốm. Chú vừa định sửa cho ông ta thì dừng lại kịp, vì dù sao cũng chẳng quan trọng nữa, chẳng còn gì quan trọng bằng hai đứa vẫn còn sống và chú cũng vậy. Tóc Đỏ đã ra đi và Ông Già cũng vậy, nhưng chú vẫn còn bầy hươu cao cổ - và bởi vì còn tụi nó, chú cũng còn Tóc Đỏ và Ông Già. Thật kỳ lạ khi con dành bao năm ở bên cạnh một người nhưng không bao giờ hiểu hết họ, nhưng với những người khác, con chỉ cần vài ngày là hiểu họ còn hơn đã quen hàng năm trời. Khi chú quay đầu về chỗ bầy hươu cao cổ, chú biết mình sẽ không bao giờ để hai cục cưng của Ông Già rời khỏi tầm mắt mình lần nữa. Nơi đó cũng như một Miền Đất Hứa - hay quê hương - mà chú ngẫm ra mình sẽ cần.

Vậy là chú đến làm ở nghĩa trang thành phố. Suy cho cùng, chú có khiếu. Trên đường về miền Tây, chú cứ nghĩ mình sẽ xin Ông Già một chân quản thú, có lẽ để chăm Chàng Trai và Cô Gái. Nhưng bà Benchley đã để dành chỗ cho những quản thú từng tham gia lực lượng vũ trang hồi chiến tranh, khi nào về thì sẽ có việc cho họ. Hơn nữa, trong vòng một tháng, cái đĩa đệm ở lưng chú lại kiếm chuyện. Chú đoán là vì mình đào nhiều huyệt quá. Nên rốt cuộc, chú làm công việc của người gác nghĩa trang về đêm, một vị trí có thể làm con bất ngờ, nếu xét đến việc người chết không cần canh gác. Nhưng việc này hợp với chú, ngủ vẫn không phải thứ chú thật sự giỏi, chiến tranh còn làm nó tệ hơn. Để qua đêm dài, chú đọc những cuốn sách mà Ông Già yêu thích, những cuốn của “ông Penimore Cooper”, và trong khi những từ ngữ cổ lỗ của chúng thậm chí gần như đưa chú vào giấc ngủ, những phần về Mắt Diều Hâu xuất sắc nhất vẫn chói lọi hào hùng. Chẳng bao lâu thì chú có thói quen, ban đêm đi làm còn ban ngày thì đến sở thú. Sáng nào khi sở thú mở cửa thì chú cũng tan làm. Chú lấy một phần xúc xích salami, một ít bánh mì và một gói đầy củ hành. Sau đó dùng một xu gỗ của Ông Già, chú có thể đến ăn sáng cùng hai người bạn hươu cao cổ của mình, nghĩ về Ông Già, và mong cái lão khốn nạn tuyệt vời ấy có thể cùng tham gia. Đôi khi chính bà Benchley cũng đi ngang qua và ngồi cạnh chú để ngắm bầy hươu. Chẳng bao lâu thì các quản thú khác cũng bắt đầu gọi chú là Anh Hươu Cao Cổ. Như thế với chú cũng hay. Hay, thật đấy.

Nhiều năm trôi qua, cuộc sống dần trở thành một thứ bình thường như nó vốn như thế. Chú cố gắng trở thành người tử tế, hẳn sẽ làm chính chú hồi ở bến tàu của Cuz phải ngạc nhiên đến vãi ra quần. Chú chưa từng bỏ qua cơ hội nào để cho lũ chó hoang, mèo hoang, hay bất kỳ con gì hoang đi ngang qua chú ăn, và chú chưa từng tin vào những linh hồn không biết yêu động vật. Chú từng yêu những người phụ nữ đáng kính và một số không quá sâu đậm. Chú kết hôn với ba người, tất cả đều có tóc đỏ, chắc nghe qua con cũng không bất ngờ, và chú sống thọ hơn cả ba. Trải nghiệm gần với việc có con nhất là với con gái riêng đã lớn của vợ, giờ cũng đã mất, con bé từng tặng chú một thẻ bài ghi: “Thời gian dành cho động vật đã được cộng vào tuổi đời của cha,” ý chúc cho chú sống lâu trăm tuổi, nếu không có ý móc mỉa.

Nhưng thực tình chú duy trì mối quan hệ với Chàng Trai và Cô Gái tốt hơn bất kỳ con người nào, gia đình đã trở thành một từ không còn biên giới với chú. Chú đảm bảo tụi nó không thiếu hành để ăn, tự mình nhận lấy cái chào đầy dãi nhớt của Chàng Trai, và vỗ vào đốm hình trái tim lệch của Cô Gái. Chú nhìn tụi nó lớn nhanh trong tất cả tình thương dành cho tụi nó, cảm nhận trọn vẹn như thể tụi nó dành cho mình. Chú nhìn cách cuộc đời tụi nó ảnh hưởng tới mình hệt như những gì Ông Già đã nói, khiến cho bất cứ ai đã gặp tụi nó cũng cảm thấy bản thân tràn đẩy sức sống hơn trước những kỳ quan tự nhiên của thế giới mà hầu hết mọi người không biết đến hoặc dù biết cũng chẳng quan tâm. Trước khi tụi nó ra đi, chú còn kịp nhìn tụi nó chạy nhảy tự do trong một công viên tựa như nông trại mà sở thú xây ngoài sa mạc cùng một bầy con do chính tụi nó tạo ra, với vài con từ các sở thú khác - một “ngọn tháp” hươu cao cổ, người ta gọi thế, con có cách gọi nào hay hơn không.

Vậy còn những gì Ông Già đã nói, rằng động vật biết rõ bí mật đời mình thì sao? Dù có những lúc chú nghĩ tụi nó sắp nói chuyện, hai cục cưng của ông không bao giờ nhiều lời chia sẻ bí mật gì với chú. Nhưng cũng chẳng mất bao lâu để chú thấu hiểu điều đó sau tất cả thời gian chú gặp tụi nó - dành nhiều thời gian cho tụi nó như Ông Già đã làm, nhìn thế giới qua đôi mắt phản chiếu trời cao yên ả như Tóc Đỏ đã làm, và cảm nhận tạo hóa qua hai “hai sinh vật đáng ngưỡng vọng nơi vườn Địa đàng Thuần khiết của Chúa” như Bố Già từng làm - chú đã tìm thấy một bí mật của cuộc đời, và đó là bí mật để có một cuộc đời đẹp. Có lẽ đây là điều mà trước giờ Ông Già luôn muốn dành cho chú.

Năm tháng cứ qua đi, quản thú cứ thay đổi. Những người khác ở sở thú cũng vậy, thậm chí là cả Quý Bà Sở thú, Belle Benchley. Chú cá là tới khi tất cả những người biết Ông Già đã qua đời hết thì chú đã kể câu chuyện của mình được một ngàn lần rồi. Sau đó, chú hẳn đã kể lại một ngàn lần nữa cho những người mới luôn. Nhưng chú chưa từng làm vậy, thấy chắc chắn là câu chuyện giờ đây chỉ có ý nghĩa với chú thôi, chỉ là những cầu chuyện nhàm của một lão già như chú đây. Giờ chú không còn là một tên nhiều chuyên nữa. Sự im lặng của nghĩa trang dần dần làm mọi thứ bên trong lẫn bên ngoài chú yên lặng. Nhưng sau một lúc, chú nghĩ chuyện còn hơn thế, cũng như những gì Cyrus Badger nói về cái tay xương xẩu của Ông Già. Có những thứ riêng tư quá, con chỉ có thể giữ cho mình thôi. Suốt ba mươi năm, chú đã làm vậy, chú chia sẻ đời mình với bầy hươu cao cổ và tụi nó cũng làm vậy với chú, cả ba đểu giữ câu chuyện cho riêng mình, đến một ngày Chàng Trai và Cô Gái đểu ra đi.

Rồi tháng năm hóa thành hàng thập kỷ.

Và chú cố sống tiếp.

Người ta nói thời gian chữa lành mọi vết thương. Chú đây muốn nhắc con thời gian cũng có thể cứa thêm vết thương lên con. Suốt một đời dài, có một khoảnh khắc khi con biết con có nhiều kí ức hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong tương lai. Đó là khoảnh khắc những câu chuyện chân thực nhất của con -những câu chuyện biến con thành con người như con đã trở thành - luôn hiển hiện trước tiên trong đầu khi con bắt đâu tìm về con người mình mà con cho là tốt nhất.

Thế là sau khi mọi thể sống chú từng yêu quý ra đi - mang theo những phần to lớn trong tâm hón chú - chú tình cờ gặp một cuốn tạp chí Life cũ. Khi chú lật qua từng trang, chú nghĩ về Tóc Đỏ, Ông Già và bầy hươu cao cổ nhiều hơn hàng chục năm, tâm trí chú quay ngược, ngược, ngược vê thằng nhóc chở hươu cao cổ vượt bão đó. Chú rùng mình trước gã tả tơi mà lẽ ra mình đã trở thành nếu không có cơn bão đẩy chú đến chỗ bầy hươu cao cổ, và chú kinh ngạc trước quyền năng trong câu chuyện chân thực nhất của một tâm hồn có thể làm nguôi ngoai những cầu chuyện tàn bạo nhất trong đời. Chú đã có thể sống cả đời trong cái bóng khổ sở của trận bão cát và những kinh hoàng thời Hitler. Nhưng những thời kỳ đó bớt đớn đau hơn nhờ có hai con vật mà chú từng quen biết.

Nhưng thời gian cứ trôi đi và chú cố sống tiếp.

Cho đến khi đã gần một trăm tuổi, thời gian rời xa chú.

Chú đã ngừng đến sở thú, lực bất tòng tâm. Điều chú không để ý là đầu óc chú cũng mụ mị dần. Thời gian giở trò bỉ ổi nhất khi con không hề hay biết. Ngay cả những kí ức mà cơ thể nắm giữ chặt nhất cũng trở thành chiếc đĩa than cũ trầy trụa do đã hát quá nhiều lãn, lúc to lúc nhỏ, âm không còn mà thanh cũng không xong. Cho đến khi con chỉ là một ông già nào đó ngồi xe lăn trong căn phòng chăm sóc thương binh đông đúc với những lão già khác nhìn chằm chằm vào một loạt hình ảnh trên ti vi và những câu chuyện không phải của con.

Đấy là cách lẽ ra câu chuyện của chú kết thúc, lời giã biệt của những cựu binh ĩhế Chiến II già hơn trái đất như chú, những ông lão thân xác dai dẳng hơn tâm trí mụ mẫm.

Nhưng mọi chuyện không xảy ra như thế.

Hôm qua, đã lâu sau khi có người nói với chú rằng mình đã sống hơn một thế kỉ, chắc con cũng đoán được chuyện đấy nghe rất lạ lùng, chú thấy một con hươu cao cổ choán hết màn hình ti vi trong một căn phòng chật ních. Chú khuấy động tâm trí mù mờ của mình để nghe phát thanh viên giọng trầm kia nói. Hươu cao cổ đã gần như tuyệt chủng trên trái đất, anh ta nói, cũng như voi và cọp và khỉ gorilla và tê giác. Chiến tranh, nạn săn trộm, xầm lấn đất rừng, anh ta nói, đang làm rừng rậm trống trải, câm lặng, biến các sở thú trở thành những con thuyên đủ để Noah phát khóc. Hàng ngàn con thú, chim muông và thậm chí cây cối đang trên bờ vực tuyệt chủng, anh ta nói vậy, theo chân bầy bồ câu viễn khách phủ kín vùng trời.

Chết ngắc.

Ti vi cứ nói? và hình ảnh những loài chim thú cây cỏ tận số nối đuôi nhau hiện ra - như thể họ sắp liệt kê hết mọi thứ hoang dã trên đời nếu không ai ngăn cản - nên chú vội vàng lăn xe sang rồi tự đấm vô ti vi để nó tắt.

Khi điều dưỡng chạy đến, chú lại thụp xuống xe lăn của mình, nhận ra dù có đấm tầt cả ti vi trên thế giới thì cũng không cứu được bầy hươu cao cổ. Đó là chuyện một ông già không thể làm được. Làm sao chuyện này lại xảy ra? Một thế giới không có niềm vui của những con hươu cao cổ chạy lộc cộc, những làn sóng chim viễn xứ hay những cánh rừng vươn cao huy hoàng sẽ giống như một nơi xấu xí, điêu tàn và vô hồn, chỉ phù hợp cho những cơn bão cát, lũ gián và những thứ như mình. Nếu tụi nó có nguy cơ tuyệt chủng, lạy Chúa Lòng lành, xin cho con cũng được tuyệt chủng! Chú khẩn thiết được ra đi - ra đi trong nghĩa trang - sợ lỡ, như mọi khi, chú lại phải cố sống tiếp.

Vậy là, lần đầu tiên sau tám mươi năm, chú nằm mơ.

Những cơn ác mộng của chú hầu như đã chấm dứt sau chuyến đi với bầy hươu cao cổ. Dù là thứ gì khơi gợi chúng thì có vẻ cũng đã ra đi cùng chàng trai hoang tàn chú bỏ lại phía sau. Chú quay về không mộng mị gì cả. Nhưng sau khi Thế Chiến kết thúc, chú đi tìm Tóc Đỏ và gặp con. Đêm đó, sau khi thiếp đi trên chuyến tàu tới San Diego, chú mơ thấy Augusta Tóc Đỏ khi về già. Nàng đang đứng trong một căn nhà nhỏ màu đỏ, mở một kiện hàng, và bên trong là một con hươu cao cổ. Chú kể con nghe, cảnh tượng này làm chú bối rối lắm. Chú sợ là cú đấm của Ký Giả Vĩ Đại đã khơi lại những cơn ác mộng của chú, và thế thì thật tàn bạo. Đừng để ý con hươu cao cổ được chuyển phát. Tóc Đỏ sẽ không bao giờ, không bao giờ trở thành bà lão. Nhưng chú không mơ nữa. Hết thập kỷ này sang thập kỷ nọ rồi thập kỷ kia, chú quay về cuộc sống không mộng mị, hợp với chú lắm.

Nhưng tối qua, sau khi trở về đây và được một nhóm điều dưỡng đưa đi ngủ, chú nhắm mắt và nghe một âm thanh mà mình chưa từng nghe lại từ hồi mười tám tuổi… Tiếng ừmmmmm rên rỉ, nhẹ nhàng, êm ái của những con hươu cao cổ đang rủ rỉ… Và chú biết mình đang mơ. Vì ở đó, trong phòng chú, Cô Gái đang thò cái cổ dài của mình vào cửa sổ phòng chú ở tầng năm, khụt khịt gọi chú ra khỏi giường và tới khung cửa sổ. Trong giấc mơ, chú đã làm vậy. Chú trở lại nóc xe ở đâu đó nơi Virginia, vật lộn với cái đầu của Cô Gái trong khi Tóc Đỏ kể những câu chuyện về hươu cao cổ trên bầu trời, trong tranh, ở Ba Lê và chú cảm thấy mình như bị đánh dạt đi bởi những câu chuyện nàng kể từ lâu như thể chúng vẫn còn sống động, như thể bọn chú có thể sống mãi trong những lời kể đó.

Rồi chiếc xe biến mất. Chú lại trở về giường, một lân nữa mơ thấy Tóc Đỏ về già trong một căn nhà nhỏ màu đỏ, mở một kiện hàng và tìm thấy một con hươu cao cổ.

Và chú nhìn thấy đó không phải Tóc Đỏ.

Mà là con.

Đến đó, chú rùng mình thẳng đừ trên giường, tỉnh như sáo, và nhìn vào tâm thức của mình, giấc mơ tự khép lại như một viễn cảnh - chú lại lên đường cùng bầy hươu cao cổ, Ông Già và mẹ của con. Nhưng lần này có cả con nữa. Con ở đó trong chiếc Packard khi Tóc Đỏ chụp hình. Con ở đó trong cơn lũ khi nàng hi sinh những giấc mơ của mình để cứu bầy hươu cao cổ. Con ở đó khi Chàng Trai cứu nàng và con khỏi viên đạn găm vào bụng của thằng điên kia. Con ở đó trên nóc xe khi Tóc Đỏ kể lại những câu chuyện hươu cao cổ trong bao tuyệt tác và truyền thuyết. Và nàng kể thêm một câu chuyện khác - câu chuyện của mình.

Cho con nghe.

Đó là khi chú biết mình là một gã ngu xuẩn và ích kỷ.

Chỉ có thằng ngu mới nghĩ rằng những câu chuyện không quan trọng - khi rốt cuộc, chúng mới là thứ quan trọng và là tất cả thứ vĩnh hằng mà mình từng biết. Vậy nên, con không nên nghe câu chuyện của mình hay sao? Con không nên biết hai con hươu cao cổ mến yêu đã cứu chú, con và mẹ con, người phụ nữ chú yêu, hay sao? Và một gã ích kỷ mới mang những câu chuyện không phải của hắn và chỉ mình hắn xuống mổ. Vậy con không nên biết trái tim quả cảm và những giấc mơ táo bạo của mẹ con hay sao? Và con không nên biết những người bạn của mình, dù tụi nó đã ra đi, hay sao?

Nên chú biết có những thứ một lão già có thể làm. Chú tìm một cây viết chì và bắt đầu viết.

Chú chỉ có vài người bạn thực sự thôi và hai trong số đó là hươu cao cổ, một con đã không đá chết chú còn con kia thì cứu lấy cảnh đời mồ côi vô giá trị của chú và cả cuộc đời quý giá, xứng đáng của con nữa.

Giờ tụi nó đã ra đi. Chú chắc mình cũng vậy. Nếu ti vi nói đúng, trên thế giới chẳng còn hươu cao cổ để cứu nữa, thì tụi nó đã ra đi cùng đám voi và cọp và bầy bồ câu viễn khách phủ kín vùng trời của Ông Già.

Nhưng, bằng cách nào đó, chú biết vẫn còn có con ở đó. vẫn còn câu chuyện này của con cũng như của chú. Nếu nó cũng tuyệt chủng như những sinh vật nơi Vườn Địa đàng Thuần khiết của Chúa, đó sẽ là nỗi hổ thẹn khôn xiết - nỗi hổ thẹn của chú. Vì nếu chú có thể khẳng định mình từng hưởng nhan Chúa, đó phải là những khuôn mặt khổng lồ của bầy hươu cao cổ. Nếu có một câu chuyện chú nên để lại, đó phải là câu chuyện này, vì họ, tất cả bọn họ và vì con.

Vậy nên, ngay tại đây, ngay lúc này, trước khi quá muộn, chú đã viết ra. Nếu còn có phép màu sót lại trong một thế giới không còn bầy hươu ngoan hiền, nếu một ít phép Chúa chú thấy trong những kỳ quan cao vút kia vẫn còn tổn tại đâu đó thiêng liêng và chân thật, một linh hồn thiện lành sẽ đọc những dòng nguệch ngoạc bằng viết chì này của chú và làm điều sau cuối mà chú không làm được.

Và một buổi sáng sáng sủa và tốt lành, bầy hươu, Ông Già, chú - và mẹ của con - sẽ tìm thấy con đường quanh co vô tận dẫn về phía con.

… Khi chú buông viết chì xuống, chú nghe tiếng động ngoài cửa sỗ.

Là Cô Gái.

Cái cổ hươu dài lộng lẫy của nó lại duỗi dến gần chỗ chú, và chú cảm thấy tim mình thắt lại hệt như lúc đầu tiên chú nhìn thấy nó và Chàng Trai trên bến cảng vào một ngày xa lắc.

“Mình thành công rồi, Cô Gái ơi,” chú nói, chỉ tay vô những chữ này. “Mày vui không? Tao vui lắm.”

Nó khụt khít, rồi thổi đạn giấy một cách hài lòng về phía chú.

Chú bắt đầu hỏi cục cưng lý do nó trở về. Nhưng mà, khi trái tim chú lỗi một nhịp… rồi một nhịp nữa… rồi… nữa… chú biết. Chú lưu luyến nhìn cô bạn thực thụ của mình lần cuối, nhìn nó phai mờ dần.

Vĩnh biệt.

Tay run rẩy dặt trên trái tim già nua, chú mỉm cười nhìn những nét chữ nguệch ngoạc này lần cuối.

Tới lúc phải dừng lại rồi.

Tới lúc phải đi rồi…

… Và chú với tay đóng cửa sổ lại.