← Quay lại trang sách

Chương 3 KHI CÁ CHẾT ĐÃ BA NGÀY

Helen nghĩ rằng tất cả những quyết định của bà đều đúng nhưng thật ra bà ta gặp may mắn thôi. Suốt trong 50 năm qua tôi đã chứng kiến những ý nghĩ ngớ ngẩn của bà lại trở thành một điều may mắn như thế nào. Cũng giống như bữa ăn trưa hôm qua.

“Winnie à,” bà ta nói, “đi chợ mua gà đi.” Tôi bảo Helen tôi không muốn ăn bất cứ một món ăn nào còn thừa trong đám ma, năm ngày là quá đủ. Vì thế chúng tôi đi Happy Supper quyết định mua một cái gì mới để ăn trong bữa tối.

Helen chọn một con cá dẹp, cá pom-pom, bà ta gọi như vậy. Chỉ có một đô la 69 xen một pao, sau khi mặc cả.

Tôi nói, “Của rẻ là của ôi. Của đầy nồi là của bỏ đi. Nhìn mắt cá mà xem, trương sình, trắng nhách. Con cá này chết cũng phải ba ngày rồi.”

Nhưng Helen nhìn vào mắt cá nói: “Tôi chẳng thấy có gì là không ổn cả.” Thế là tôi nhặt con cá lên, cảm thấy thân hình của nó trượt khỏi tay tôi. Một con cá đã trượt khỏi cuộc đời rất lâu rồi. Helen thì nói rằng đó là dấu hiệu tốt - thịt nó chắc là rất mềm, bỏ vào môi trôi vào miệng. Thế là tôi ngửi con cá. Tôi bảo với bà ta là tất cả sự ngọt ngào đã bốc hơi ra khỏi da thịt của nó và tỏa mùi trong không trung. Bà ta nhấc con cá lên dí vào mũi ngửi và nói mùi cá pom-pom này mới dễ chịu làm sao.

Helen mua một con cá pom-pom chết ba ngày. Trong bữa ăn tối, bà đã mời chồng, ông này gắp một bên má cá bỏ tọt vào miệng nhai tóp tép rồi khen ngon sau đó cậu con trai Frank xơi nốt má kia. Còn Helen thì gắp một miếng ở gần đuôi, chỗ mỏng nhất, sau khi liếm môi bà ta nói rằng cá đã nấu vừa đủ độ, không quá lửa, bà nhìn bát tôi chẳng có gì ngoài cơm, bà hạ đũa lần nữa, gần này thì gần cái bụng, chỗ mập nhất của con cá, gắp một miếng bỏ vào bát tôi.

“Winnie à, đừng có giữ ý quá,” bà ta trách. Thế là tôi phải tỏ ra lịch sự rồi ngồi ăn hết miếng cá. Tôi phải công nhận rằng con cá làm tôi phát tức điên lên. Thịt nó mềm và ngọt. Chỉ có một đô la 69 xen một pao. Tôi bắt đầu nghĩ, có thể Helen đã quay lại chợ đổi con cá khác. Nhưng sau đó tôi lại nghĩ Helen chẳng khôn đến thế. Dù Helen xuất thân từ một gia đình nghèo rớt mồng tơi, dù rằng bà chua bao giờ xinh đẹp thì may mắn cũng luôn đổ vào đĩa bà, thậm chí từ miệng con cá chết ba ngày.

Tôi không được như thế. Tôi sinh ra với may mắn. Nhưng năm tháng trôi qua, vận may của tôi - cũng như sắc đẹp của tôi - đã chết dần, sau đó thì khắc những nếp nhăn lên mặt tôi để tôi không bao giờ có thể quên được.

Tôi không thể giải thích chính xác điều này xảy ra như thế nào - những đổi thay trong đời tôi. Nếu tôi có lí giải và xâu chuỗi lại những sự kiện thì đời tôi cũng không giống như câu chuyện một dòng sông, từ thượng nguồn đến hạ nguồn, mọi cái đều được kết nối với nhau, suối tạo thành sông, sông lại đổ ra biển. Nếu đời tôi trôi đi như vậy, cái này dẫn đến cái kia thì tôi có thể có một cái nhìn khác và tôi sẽ biết những bài học của đời mình, cái số phận đã dành cho tôi những lựa chọn, những nhầm lẫn. Và có lẽ tôi còn có thời gian để thay đổi đời mình.

Helen thường nói với tôi, “Tại sao chị sứ nghĩ về những chuyện xửa xưa như vậy? Tiếc nuối làm gì vô ích. Chị không thể thay đổi được quá khứ.” Bà ấy chẳng nhớ gì cả. Hai chúng tôi đã nhiều lần thay đổi quá khứ, vì nhiều lí do. Và đôi khi bà ấy cũng thay đổi cả số phận của tôi mà không ý thức được việc mình đã làm.

Cũng giống như con cá pom-pom mà bà ấy đã mua. Bây giờ nó lại bơi trở lại trong kí ức của tôi. Bởi vì, một lần rất nhiều năm về trước, tôi đã mua một con cá đặc biệt cho chồng của tôi, cho Jimmy Louie. Ôi tôi mới yêu ông ấy làm sao! Con cá bơi lội tung tăng trong chậu khi tôi trông thấy nó, chắc nó vừa mới bị bắt ra khỏi biển khơi nên nó mới giận dữ như thế. Toàn thân nó ánh lên rực rỡ bởi những chiếc vây màu cam đỏ lộng lẫy, và khi nó vẫy cái đuôi tìm lối thoát ra khỏi cái chậu nhỏ, những cái vây quẫy trong nước trông giống như vàng ròng. Tôi bảo người bán hàng gói con cá sống không phải vào tờ giấy báo cũ mà vào một tờ giấy trắng sạch sẽ. Trong khi ngồi trên xe buýt mang cá về nhà tôi cảm thấy hết sức tự hào, này nó trườn đầu, quẫy cái đuôi nhọn vào người tôi. Tôi tưởng tượng nó sẽ ngọt ngào như thế nào trong miệng Jimmy, chồng tôi sẽ nhận thấy con cá đặc biệt ra làm sao, một con cá may mắn và tôi thật sung sướng khi báo tin vui cho ông ấy.

Vậy mà, con cá này không ngừng vùng vẫy chống lại tôi. Trước khi tôi làm thịt nó, nó phồng mang lên phun bao nhiêu bong bóng ra khỏi miệng làm tôi nghĩ rằng nó rất độc. Thậm chí sau khi tôi đã moi ruột nó ra, nó vẫn còn nhảy lên nhảy xuống trong cái chảo rồi rơi xuống sàn, trườn quanh bếp buộc tôi buộc tôi cầm một cái búa đuổi theo nó. Khi tôi đã nấu chín rồi, nó vẫn còn tìm cách chống lại tôi. Jimmy mới chỉ ăn một miếng thì một cái xương đã cắm vào cổ họng ông, nằm lại trong cổ, vì thế mỗi lần nuốt nước bọt ông lại nghĩ rằng con cá tìm cách cắn ông suốt đêm ấy.

Sau đó ở bệnh viện, các bác sĩ phải mổ để lấy cái xương ra. Ngay cả lúc ông chưa mở miệng nói được, cứ nhìn vào vẻ mặt lo lắng của ông, tôi cũng biết ông đang nghĩ đến phí tổn cho cuộc giải phẫu, tiền phòng, tiền thuốc giảm đau, thuốc ngủ. Đó là lúc tôi nhớ đến tin vui của mình vì cái lí do cớ làm sao tôi lại mua con cá đắt tiền như vậy. Tôi đã kiếm được việc, tôi nói với ông, một công việc làm mì sợi cho tiệm bánh Hằng Anh. Tiền lương của tôi sẽ đủ, quá đủ cho tiền viện phí trong một năm. Nghe tôi nói, Jimmy dụi mắt và nước mắt của ông ứa ra. Ông mấp máy môi định nói, nhưng không lời nào thốt ra từ cái cổ bị đau của ông. Nhưng tôi có thể thấy điều ông muốn nói, điều mà ông muốn la lên, “May quá! Chúng ta gặp may rồi!”

Thế đấy, vận may của tôi đâu có giống như Helen. Cũng không giống như những người khác, những người khoác lác là họ chuyển từ vận xui sang vận hên nhẹ như không. Không, tôi sẽ nói điều đó xảy ra với người khác như thế nào, với tôi ra sao. Ví như cái cô gái mà tôi từng biết ở Thượng Hải, một người bạn cùng lớp với tôi ở trường truyền giáo. Cô cũng xuất thân từ một gia đình gia thế giàu có như gia đình tôi. Vào cái lúc mà tôi cưới người chồng đầu tiên thì cô đính hôn với con trai của một gia đình giàu có thuộc giới tài phiệt. Nhưng mùa hè năm sau khuôn mặt xinh đẹp của cô bị tàn phá bởi những dấu vết để lại của bệnh đậu mùa, thế là hôn ước bị hủy bỏ. Tôi thương cô ấy lắm vì cô ta bị “mất mặt” đến hai lần.

Nhiều năm sau tôi gặp lại cô ấy, khi Jimmy và tôi chuyển đến Fresno. Cô ấy cưới một người Mỹ gốc Hoa, chủ một tiệm chạp phô bán soda, khoai tây chiên, thuốc lá, nói tóm lại mọi mặt hàng giá cao. Tôi đã gặp lại cô ta tại một quầy tính tiền. Tôi mua một cây kem que. Cô ta kêu lên “Chị, chị nhớ em không?” Nhưng cô ta chẳng bớt cho tôi đồng nào. Sau khi nhận tiền của tôi, cô ta kể chồng cô ta trung hậu, tốt bụng và dễ thương như thế nào. Trong khi cô ta nói thế thì cô ta vung tay lên lên xuống xuống khiến cho bao nhiêu là những vòng tay bằng bích ngọc va vào nhau làm thành một điệu nhạc vui tai. Khi cười hết cỡ thì tất cả những vết rỗ trên mặt cô ta trông như những lúm đồng tiền duyên dáng.

Sau đó cô ta thôi cười, hạ giọng thì thầm “Chị có nhớ con trai gia đình nhà băng Thượng Hải không?” Rồi cô ta kể lại cho tôi với một nỗi buồn thành thực không pha một chút hí hửng nào rằng cuộc đời đã ưu đãi cô bằng cách nào – cái gia đình chồng hụt của cô mất tất cả các cơ sở tín dụng của nó khi Cách mạng giành được chính quyền. Sau đó, con trai họ, người đã từ hôn với cô đã nhảy lầu tự tử từ một tòa nhà mà gia đình này sở hữu bên bờ sông Hoàng Phố. Thậm chí cô vợ xinh đẹp của anh ta, người mà anh ta thực sự cưới làm vợ quá sợ không dám đi nhận xác chồng “Thật may mắn là anh ta không cưới em.” – chị bạn của tôi kết luận.

Tôi không bao giờ có một may mắn loại ấy. Tôi đã từ chối không chịu lấy một người tốt, một người tên là Lĩnh, trong lần lấy chồng đầu tiên, ngược lại tôi lấy một người chẳng ra gì họ Văn. Cả hai cùng ở một hòn đảo mà tôi đã đến sống từ lúc 6 tuổi. Đó là một vùng đất cổ hủ, một hòn đảo bé tẹo vây quanh bởi nước, bởi sông và biển, vì thế mà những tư tưởng mới lạ chẳng dễ dàng trôi tới đây được. Người đàn ông mà tôi nên ăn đời ở kiếp xuất thân từ một gia đình không nhiều tiền lắm của nhưng có học và có cốt cách. Khi tôi 16 tuổi ta, tôi đã từ chối lời cầu hôn của gia đình này mà không thèm biết đến mặt mũi người con trai. Đó là bởi vì tôi nghe lời thím Lớn, nghe cái cách bà thông báo lời cầu hôn của gia đình này ở bàn ăn trước mặt thím Nhỏ, chú tôi, các em họ tôi cùng bạn bè gia đình. “Nhà này, cái thằng Lĩnh á,” bà bắt đầu khịt mũi, “hừm, muốn chui vào dòng họ nhà ta qua váy cưới con Vi Vi.” Với những lời này tôi có thể hình dung cậu con trai, cái người mà tôi chưa bao giờ gặp, trông giống như một con thằn lằn xấu xí to bự bò lên chân tôi mỗi tối. Sau đó thím Lớn quay về phía tôi bên bàn ăn hỏi, “Vi Vi con có muốn làm dâu gia đình này không?”

Bà nói điều này bằng một giọng vang lên như thể bà đang hỏi, “Mày có muốn nhảy xuống sông không?”, điều mà thím Lớn luôn hăm dọa khi bà có chuyện không vui vẻ với chồng.

“Tôi sẽ nhảy hai chân xuống sông tự vẫn.” Thím Lớn thét lên. “Tôi sẽ tự tay treo cổ lên.” Sau đó bà quay sang chú tôi, giọng bà thậm chí còn rít lên cao hơn bao giờ hết, “Ông muốn tôi làm gì? Nói đi, tùy ông quyết định đấy.” Chú tôi là người sau này đã dùng hai chân và hai tay tự tiêu diệt mình khi cách mạng nổ ra năm 1949, ông quá sợ hãi để bỏ chạy, quá sợ hãi để ở lại. Ông mất tin thần, cứ đi tới đi lui quanh cái cảng ở bờ bắc hòn đảo và ở đây ông ngồi xuống suy nghĩ về sự lựa chọn của mình. Hai người đánh cá sau này nói rằng khi một xe tải chở đầy những con cua nhỏ đi vào một con đường tối tăm đến cảng, họ nhìn thấy chú tôi đứng lên chạy về phía trước chiếc xe vẫy hai tay hét to: Quay lại quay lại. Những người đánh cá nói rằng thật là kì cục cứ như thể ông ra lệnh cho cả thế giới, cứ như thể ông sẵn sàng dừng chiếc xe lại trước khi nó nghiến nát người ông. Sau khi ông chết, thím Lớn bắt đầu tin rằng cái cây lớn sau nhà chúng tôi chính là hiện thân của đức lang quân của bà, quá lười xê dịch và giúp đỡ bà trong việc giải quyết hết khó khăn này đến khó khăn khác.

Đấy là cái gia đình của tôi, những lời khuyên họ có thể cho tôi. Nếu tôi không mất mẹ từ lúc còn bé thì tôi chẳng phải nghe thím Lớn. Có thể tôi đã cưới cậu con trai tên là Lĩnh khi tôi còn trẻ. Có thể tôi sẽ học cách yêu chàng sau đám cưới. Có thể chúng tôi cũng có những khó khăn trong cuộc đời như bao nhiêu người khác nhưng không phải cái loại khó khăn khiến tôi căm ghét bản thân mình, nghĩ rằng trái tim mình là kẻ thù tệ hại nhất.

Tôi gặp người đàn ông tên Lĩnh ngày lần đầu tiên sau đó 20 năm, khi tôi đã sống ở Mỹ được 5 năm. Lúc đó tôi là một thiếu phụ đã trưởng thành. Winnie Louie, vợ của Jimmy Louie, Pearl hơn 4 tuổi và Samuel gần 3 tuổi. Dù rằng chúng tôi rất nghèo, tôi tin rằng đời tôi thế là mãn nguyện cũng giống như một phụ nữ Công giáo có lần giải thích cho tôi. “Một bát cơm đầy là tất cả những gì mà chị có thể đòi hỏi.”

Tôi tin rằng điều đó đúng, tôi còn muốn gì nữa chứ? Jimmy là mục sư ở một nhà thờ ở Fresno, họ trả cho ông 50 đô la một tuần và cấp cho chúng tôi một ngôi nhà nhỏ, thế là tôi tin rằng tôi chẳng ao ước gì hơn nữa. Tôi tin vào điều này cho đến ngày người đàn ông tên Lĩnh xuất hiện trong nhà thờ của chúng tôi, và cứu sống tôi. Tất nhiên có rất nhiều người tên Lĩnh ở Trung Hoa, thậm chí có nhiều ông Lĩnh ở giáo phận, vì thế mà đầu tiên tôi chẳng nghĩ rằng ông ta có thể là cái chàng trai mà tôi chê không chịu cưới. Ông ta mới chuyển đến vùng này, mọi người xì xào “Ông ấy là bác sĩ, sống ở Talure có một hồ bơi thật lớn, cưới con gái của một vị cựu tướng quân,một người nói tiếng Hoa tuyệt hảo, giọng Bắc Kinh, giống như một ngôi sao nhạc kịch.”

Chủ nhật ấy khi vợ chồng ông đến nhà thờ của chúng tôi, mọi người đang đứng ngoài sân, dưới ánh mặt trời chói chang. Tất cả mọi người đều tò mò nhìn về phía ông bác sĩ và người vợ quý phái của ông ta. Jimmy nói tiếng Anh, thứ ngôn ngữ thông thường giữa những người Hoa nói nhiều thứ tiếng địa phương trong giáo phận của chúng tôi, “Rất vui được gặp ông, rất vui được gặp bà, xin vui lòng trở lại lần nữa.” Jimmy nhắc đi nhắc lại những đều này, những từ mà tôi thực tập suốt đêm mà cũng không mở mồm nói trơn tru được, thế là tôi chỉ gật đầu mỉm cười giả vờ là tôi quá nhút nhát. Ngày Chủ nhật nào cũng như thế. Chỉ có điều ngày Chủ nhật hôm ấy trời nóng chảy mỡ ra mà tôi thì không thể cởi cái áo khoác bởi vì có một con nhậy đã cắn một cái lỗ to ở ngay lên vai phải cái áo mặc trong của tôi.

Tôi gật đầu chào vợ chồng ông bác sĩ. Tôi nhìn theo dám đông ùa về phía họ tự giới thiệu. “Tôi là Gladys Vọng”, “Mavis Châu”, “George Bộ”, “Marray Dương”, “Iren Vĩnh”. Tôi nghĩ tất cả mọi người đều ngượng ngập khi nói cái tên ngắn ngủn của họ với ông bác sĩ quan trọng đường bệ nọ.

Cũng không nhắc là tôi nghĩ về những điều này, chỉ là để những điều này bập bềnh trôi vào óc tôi, bởi vì tôi buồn ngủ quá: miệng trễ ra, mặt nóng bừng và ngứa. Khi tôi gãi gãi má, ông bác sĩ trông thấy. Cũng gãi vào cổ ông, gật đầu cười sau đó thì nói với tôi, “Ding-ngin”.

Khi ông thốt ra từ này, ding-ngin, tôi có cảm tưởng tôi đang mơ. Lạ lùng làm sao, ông ta biết được cái từ địa phương ở hòn đảo của tôi từ khi tôi còn bé. Tôi nhớ cái lúc tôi nghe cái từ này lần đầu tiên. Tôi 6 tuổi, đó là mùa hè đầu tiên, cha tôi gửi tôi đến sống ở hòn đảo này. Ngày cũng như đêm những con bọ chét nhỏ li ti không thể nhìn thấy cắm vào khắp bắp chân của tôi và chẳng bao lâu tôi rơi vào một nỗi khổ sở cực kì kinh khủng: gãi và gãi, không thể dừng lại dù một giây, “Yangsele,” tôi kêu lên. Đó là một tiếng Quan thoại thông thường có nghĩa là ngứa muốn chết”.

Mọi người cười rộ lên, thím Lớn đập vào tay tôi bắt tôi im mồm. “Sao con lại nói vậy?” Ngày hôm sau một người chị họ lớn hơn tôi bảo với tôi rằng ding-ngin là từ người dân ở đây nói khi người ta muốn nói về sự ngứa ngáy còn yangsele có nghĩa hoàn toàn khác.

Tôi không biết sự khác nhau đó mãi cho đến 10 năm sau, vào trước cái đêm tân hôn của tôi với người chồng chẳng ra gì. Lúc ấy tôi nghe hai thằng em họ thì thầm với nhau, “Yangsele, cái ấy của chị ấy ngứa toáy lên làm cho chị ấy không thể chờ đến lúc có một người đàn ông nhảy lên.”

Cái ngày nóng nực hôm ấy tại nhà thờ Fresno khi tôi nghe từ này lần nữa, tôi nhớ lại kí ức thơ ngây của mình. Khi gợi lại kí ức này, tôi cảm thấy mặt tôi nóng bừng lên vì giận dữ và xấu hổ mà chẳng biết làm gì. Tôi càng cố nhớ về kỉ niệm này bao nhiêu thì đầu óc và thân thể tôi càng phát sốt bấy nhiêu. Lúc này ông bác sĩ Lĩnh chạm vào khuỷu tay tôi, ân cần hỏi, “Bà có bệnh không?”

Tôi không trả lời ông, chỉ ngắm khuôn mặt ấy. Cái cách ông nhướn lông mày lên rồi cái cằm giật giật hai lần cho tôi biết rằng ông ấy muốn nghe câu trả lời của tôi. Khuôn mặt của ông – cách nhướn lông mày và giật giật cái cằm chính là vẻ mặt của ông trưởng tộc họ Lĩnh và ai trong dòng họ này cũng có điệu bộ này, là cái mà thím Lớn đã từng miêu tả là “cái mặt dài thòng của nhà họ Lĩnh giống như một con ngựa dụi vào người con tìm kẹo trong túi con.” Nhìn cái biểu hiện trên khuôn mặt của ông bác sĩ, tôi nghĩ rằng mọi thứ đều hòa quyện vào nhau – quá khứ, hiện tại của tôi, người chồng thứ nhất, người chồng thứ hai và Lĩnh. Tôi choáng váng, vì thế tôi thực sự không biết ai là người đã hét lên, “Say nắng! Cảm nắng rồi.” Tôi không biết tại sao người ta cởi áo khoác của tôi, bế tôi lên mang vào trong nhà thờ. Chồng tôi sau đó nói khi tôi nằm ướt đẫm trong tay ông là ông đã một lần nữa rửa tội cho tôi, cứu rỗi linh hồn cho tôi. Lúc này ông dở cười dở mếu nói rằng ông bác sĩ cũng đã rửa tội cho tôi và cứu sống tôi. Tôi vẫn còn quá bối rối vì thế tôi chỉ làu bàu đưa ra một cái cớ rất vớ vẩn. “Ôi, tôi nghĩ tôi trông thấy ma.” Lúc ấy tôi mới nhận ra là không chỉ có vợ chồng tôi, những người đi dự lễ và vợ chồng ông Lĩnh vây quanh chúng tôi. Tất cả mọi người đều quan sát tôi. Tôi ngượng chín cả người khi bắt gặp ánh mắt mọi người nhìn vào vết rách trên vai áo tôi.

Tôi không bao giờ nói với Jimmy rằng người đàn ông tên Lĩnh này là người lẽ ra tôi phải cưới trong lần lấy chồng đầu tiên chứ không phải người khác, rồi mới tới ông. Tôi chỉ nói với ông rằng vì từ “ngứa” mà ông này dùng, tôi biết rằng tôi là người cùng quê với ông bác sĩ, hòn đảo Tống Minh còn có tên gọi là làng Cửa Sông. Tôi muốn kêu lên, phủ nhận những lời nói của chồng tôi, giải thích rằng có lẽ tôi đã nhầm, tôi đến từ một hòn đảo khác. Tôi nghĩ Lĩnh có thể nói trước mặt mọi người, “Này, có phải cô là người từ chối gia đình tôi không?”

Nhưng mà Lĩnh chỉ mỉm cười nói, “Chúng ta đã ở đấy lâu lắm rồi phải không bà chị?”

Có thể ông ấy rất lịch sự. Ông có một phong cách rất mực tao nhã. Hoặc cũng có thể ông cũng chẳng muốn cưới tôi nữa. Vợ của ông rất đẹp. Hoặc cũng có thể ông không phải là chàng trai Lĩnh đã hỏi cưới tôi. Sau cùng, tôi nghe rằng còn có những người con trai khác trong gia đình này. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết rõ được. Tôi quá sợ tìm ra sự thật. Tôi có lợi gì khi biết được điều đó.

Vì thế tôi chẳng hỏi thêm câu nào nữa. Cũng từ ngày hôm đó tôi nhìn mọi thứ trong cuộc đời tôi theo hai lối, một lối đã thực sự xảy ra, lối kia có khả năng xảy ra.

Đêm hôm đó, khi chồng con đã ngủ cả, tôi nghĩ về bản thân, tất nhiên tôi chẳng nuối tiếc gì về việc đã lấy Jimmy Louie. Tôi yêu Jimmy. Tôi đã đợi năm năm mới lấy được ông. Tôi đã đến đất nước này để sống với ông. Tôi rất mãn nguyện, còn trên cả mãn nguyện nữa. Đó là tình yêu đích thực, chứ không phải là sự tận tụy dành cho một người chồng đã nuôi sống mình, dậy dỗ đàn con của mình. Tôi không nghĩ gì về Lĩnh hết, về những bộ quần áo đẹp hay là bể bơi của họ. Ai mà cần những thứ này? Tôi tự nhủ.

Nhưng rồi đêm càng về khuya tôi càng nung nấu về điều này. Tôi nghĩ như thế này, ta đã hối tiếc bao nhiêu vì đã không cưới Lĩnh. Bởi vì nếu ta lấy chàng thì ta đã chẳng lấy người đàn ông kia. Ta đã chẳng bao giờ trở thành cái hạng đàn bà cầu cho quân Nhật giết béng chồng đi. Ta cũng chẳng phải là cái loại làm mẹ gì mà chẳng hề đau buồn khi con cái lần lượt bị chết. Ta cũng chẳng bao giờ phải đầu độc thần kinh của ta tìm mọi cách thoát khỏi cuộc hôn nhân ấy, cuộc hôn nhân chỉ hút rỗng thể xác của ta. Ta cũng sẽ không phải chìm đắm trong nuối tiếc là ta đã chẳng còn lại được bao nhiêu để dành cho người chồng thứ hai, mà với chàng ta cũng chỉ có cảm giác dễ chịu chứ chưa bao giờ hoàn toàn sung sướng. Sau khi Jimmy qua đời, tôi không thể dẹp bỏ cái ý nghĩ rằng nếu tôi lấy Lĩnh thì tôi sẽ chẳng bao giờ gặp Jimmy Louie, cưới ông và luôn luôn dõi tìm ông, cuộc tìm kiếm chẳng vì cái gì cả, thịt da tôi sẽ không phải chờ đợi được vuốt ve bởi chẳng ai cả, như vậy tôi sẽ không biết đến cái cảm giác của một nỗi đau không sao làm dịu được. Nếu tôi lấy Lĩnh, tôi sẽ không bao giờ biết được có Jimmy trên đời này. Và như vậy tôi sẽ không phải luôn nhớ về một người mà đến cái tên tôi cũng không biết được.

Mới gần đây tôi lại nghĩ về điều này lần nữa. Nếu tôi lấy Lĩnh, tôi sẽ sống đến đầu bạc răng long với chàng, Helen sẽ không bao giờ biết đến những bí mật tồi tệ của tôi. Tôi chẳng có lí do gì để cho bà ta lấn át mình hết. Tôi biết rõ như thế, bởi vì Helen nói với tôi đêm qua, trong bữa ăn tối là người đàn ông tên Lĩnh góa vợ đã từng sống ở Fresno, nay lại chung giáo phận với bọn tôi ở San Francisco này.

“Ông ta là bác sĩ,” bà nói, “nhưng ông ta chỉ bỏ vào thùng phước thiện có 5 đô.” Helen, chứng kiến vẻ ngạc nhiên trên mặt tôi, đã nghĩ rằng bà biết hết mọi chuyện. “Thế đấy, chị có tưởng tượng được không? Có loại người như vậy đấy.”

Tôi đã không nói cho Helen rằng tôi lẽ ra phải lấy người này, một người tốt làm sao. Tôi đã không nói rằng đó chính là số phận và tôi thật mù quáng. Hoặc là bởi vì tôi không biết nên tôi đã có một lựa chọn tai hại. Tôi đã không thừa nhận với Helen điều này. Có thể tôi đã phạm sai lầm, một sai lầm thật đơn giản – nói không với người này nói có với người kia, giống như chọn cá trong một cái chậu. Làm sao mà bạn biết được cái gì tốt cái gì xấu, khi bạn còn chưa nếm trải.

Thậm chí nếu tôi nói thì bà ấy cũng không hiểu. Cách nghĩ của chúng tôi khác nhau nhiều lắm. Đầu óc của chúng tôi khác nhau nhiều lắm. Đầu óc của bà vẫn còn ở đâu bên Trung Hoa. Như kiểu thế này này, khi bà mua cá cho bữa tối, tôi hỏi rằng: “Này chị biết chuyện gì xảy ra với nó ba ngày trước không?”

Bà sẽ trả lời ngay tắp lự, “Nó còn bơi ở ngoài biển.”

Suốt 40 năm qua tôi giới thiệu với mọi người rằng Helen là chị dâu, là vợ của anh trai Cung của tôi đã bị chết trong chiến tranh. Điều đó không đúng.

Nhưng tôi không nói thế để lừa dối ai. Chẳng qua là sự thật quá rắc rối. chẳng ai có thể hiểu được cho dù tôi có hết lòng giải thích đi chăng nữa.

Anh tôi bị chết chăng? Trong thực tế anh chỉ là anh em cùng cha khác mẹ với tôi. Anh là con trai người vợ thứ hai của cha tôi, người đã chết, mẹ tôi mới là người thay thế vị trí của bà. Vì thế mà chúng tôi không hề gần gũi với nhau.

Người anh em cùng cha khác mẹ này không chết trong chiến tranh mà là trước khi chiến tranh nổ ra. Đầu của anh ấy lìa khỏi cổ ở Trường Sa vì bán vải cho quân khởi nghĩa.

Đó là năm 4638 theo lịch Trung Quốc, năm Ngọ, cái năm mà người ta dậm dật chân tay trên khắp các nẻo đường, trở nên bấn loạn. Tôi không nhớ về năm dương lịch. Có thể là năm 1929, 1930 hay 1931 nhưng dù sao thì cũng là trước khi tôi gặp Helen.

Nhưng khi tôi nói điều này, tôi lại phải giải thích rằng người anh này không phải là người làm cách mạng. Sự thật, anh ấy đã phản đối – đầu tiên là giận dữ với những người khởi nghĩa sau đó thì lại quỳ gối tuyệt vọng van xin bảo với họ rằng anh đã không biết những khách đêm qua của anh là những người làm cách mạng nên mới khoe khoang rằng đã lừa họ bán với giá thật cao, cười nhạo rằng những thước vải đó rất xấu. Dù sao thì Quốc dân Đảng cũng đã giết anh ấy, một bài học có ích cho những người khác nữa.

Nhưng giờ đây, làm sao tôi có thể mở miệng nói về điều đó, rằng một thành viên trong gia đình tôi đã lừa dối khách hàng. Không, tôi chỉ có thể nói là thời ấy rất nhiều người bị giết chỉ vì những chuyện vớ vẩn. Không nên biết về những điều nguy hiểm này, rằng anh trai tôi tham lam một cách cực kì ngu xuẩn.

Chính người vợ chính thức của anh ấy cũng nghĩ vậy. Chị ấy đã không thích dọn đến Trường Sa thời gian đầu. Nhưng nếu có ai hỏi chị ấy ở đâu thì tôi cũng không biết. Sau khi chồng chết, chị viết thư, kể cho chúng tôi mọi chuyện. Sau đó chúng tôi chẳng có tin tức gì về chị hết, chỉ nghe đâu vùng chị ở bị lụt, có rất nhiều những cái xác trôi lềnh bềnh trong dòng nước đến nỗi nhân dân hai bên bờ phải bỏ xứ mà đi để thoát khỏi mùi xú uế, vì thế có thể chị dâu tôi cũng chết đuối, xác trôi dật dờ ra sông rồi ra biển. Hoặc có thể là chị ấy đã thay đổi và trở thành chiến sĩ Cách mạng, hoặc giờ đây đang sống ở một nơi nào đó ở Trung Hoa mai danh ẩn tích.

Nếu tôi nói tất cả những điều này, mọi người sẽ nghĩ rằng đó là kết cục câu chuyện về người anh cùng cha khác mẹ của tôi. Tôi cũng sẽ nói láo khi đồng ý: Anh ấy đã chết. Người vợ trên thực tế của anh cũng đã qua đời. Thế là chẳng còn gì để nói, chẳng có kết thúc có hậu một cách đáng ngạc nhiên.

Đôi khi trong gia đình, chúng tôi nói với nhau một câu chuyện về một con bò hú gọi vầng trăng khuyết, nghĩ rằng đó chính là cái sừng của nó. Mọi người đều biết là chúng tôi đang nói về ai. Một thằng ngốc tìm đường lên trời nghĩ rằng nó có thể hái được ngôi sao trên bầu trời, cuối cùng chỉ té nhào mất xác. Chúng tôi không bao giờ đả động đến cái tên ấy. Thật là nguy hiểm khi quen biết bất cứ ai có chuyện với những người làm cách mạng. Cũng chẳng thành vấn đề cái việc anh Cung đã chết, vì việc này không dính dáng gì đến chính trị cả.

Nhưng rồi sau đó ông anh lại hóa kiếp thành nhiều cuộc đời khác. Khi quân Nhật chiếm đóng Thượng Hải năm 1937, chú tôi chào đón chúng trong cửa hàng vải sợi của ông: “Cháu trai tôi học ở Nhật, giờ sống ở Trường Sa, cưới một cô gái Nhật.”

Khi quân Nhật thất trận năm 1945 và Tưởng Giới Thạch quay trở lại, ông chú tôi lại nói, “Thằng cháu tội nghiệp của tôi, thằng Cung là anh hùng của quân đội Quốc dân Đảng, cháu chết ở Trường Sa.”

Khi Hồng quân Trung Quốc chiếm chính quyền năm 1949, truyền thuyết đầu tiên lại trở lại, chỉ có điều lúc đó chú tôi đã chết. lúc này thì thím Lớn là người nói rằng anh Cung là một chiến sĩ cách mạng vĩ đại, anh đã hiến vải đẹp cho những sinh viên công nông – không lấy một xu – tất nhiên, và hi sinh cả cuộc đời.

Lúc đến đất nước xa lạ này, tôi nghĩ cuối cùng tôi cũng có thể quên được ông anh cùng cha khác mẹ này, người đã chết rất nhiều lần bằng nhiều cách khác nhau. Thật là rối rắm khi cứ phải giải thích đi giải thích lại: ai có họ với ai, mối liên hệ ra làm sao, năm nào xảy ra sự kiện đó theo Âm lịch, theo năm Dương lịch nào, chuyện gì xảy ra cho bà chị dâu của tôi, tại sao chúng tôi cứ quay như chong chóng từ quân Nhật sang quân Tưởng rồi đến những người Cách mạng.

Làm sao tôi có thể giải thích những chuyện như vậy cho bộ phận làm thủ tục nhập cư chứ. Họ không hiểu đâu. Họ chỉ biết có một kiểu chính quyền. Họ bao giờ cũng hỏi tôi tất cả những câu hỏi rối rắm như là, “Sao bà sinh năm 1918 ở tờ giấy này, lại sinh năm 1919 ở tờ giấy khác?” “Tại sao bà không có giấy chứng nhận kết hôn, cũng chẳng có giấy phép cho li hôn?” “Bà nhiễm giun sán ở Trung Hoa hay ở nước khác? Khi tôi đến đất nước này, tôi tự nhủ mình sẽ có một lối nghĩ mới. Bây giờ tôi có thể quên bi kịch của đời mình, đóng tất cả những bí mật của mình lại sau một cánh cửa và sẽ không bao giờ mở ra nữa, sẽ không có một cặp mắt của người Mỹ nào nhìn thấy được. Tôi đã nghĩ là quá khứ của tôi khép lại mãi mãi cùng tất cả những gì mà tôi hình dung được về Trung Hoa bao la đã được nhồi nhét vào một hòn đảo bé nhỏ mà tôi chưa từng thấy trước đó.

Tôi đã nghĩ không có ai đuổi theo tôi tới đây. Tôi có thể cất giấu những lỗi lầm, những tiếc nuối và những tâm sự đau buồn của mình. Tôi có thể thay đổi số phận của mình.

Ôi, tôi đâu có phải là người duy nhất bỏ lại phía sau tất cả để phù hợp với môi trường mới. những người đi chung nhà thờ với tôi, người bạn học với khuôn mặt bị bệnh đậu mùa, Lĩnh và người vợ của ông ta, kể cả Helen – tất cả đều đã bỏ lại một cái gì đó phía sau. Những món nợ cũ, những khởi đầu tồi tệ. Những bậc sinh thành già nua ốm yếu, chế độ đa thê và những dòng con, sự mê tín dị đoan và số mệnh của người Hoa.

Thậm chí tôi đã sợ rằng quá khứ cũ sẽ ập lên đầu tôi. Nhưng rồi nước Trung Hoa tắt ánh đèn sân khấu, đóng cửa lại bảo mọi người im lặng. Tất cả những người này biến thành những bóng ma. Chúng tôi không thể nhìn thấy họ. Chúng tôi không thể nghe họ. Vì thế tôi nghĩ rằng giờ thì tôi có thể quên đi mọi chuyện. Chẳng có ai để nhắc tôi nhớ lại.

Nhưng rồi Helen lại muốn ra khỏi nước Trung Hoa Dân chủ. Tôi phải đứng ra bảo lãnh cho chị ấy, người nói rằng tôi nợ chị một món từ nhiều năm trước và bây giờ đã đến lúc tôi phải trả. Thế là tôi trả lời với tổ chức nhập cư của Mỹ năm 1953 rằng Helen là chị dâu của tôi, lấy con của một trong năm bà vợ của cha tôi. Nhưng một khi Helen đã ở đây rồi làm sao tôi có thể nói với những người trong xứ đạo rằng cha tôi có tới năm bà vợ? Tôi là vợ của một mục sư mà.

Vì thế tôi bảo rằng Helen là chị dâu tôi từ thời xửa thời xưa, đã từng lấy anh trai tôi, một trong những anh hùng quân đội Tưởng Giới Thạch đã hi sinh trong chiến tranh. Thật quá tệ.

Tôi không thể nói lí do tại sao Helen lại sang đây, tại sao lại phải giúp đỡ chị ấy. Điều đó thậm chí còn phức tạp hơn nữa.

Tôi đã kể câu chuyện Helen cưới anh trai quá nhiều lần đến nỗi cả Helen cũng tin vào điều đó. Bà ta nói với tôi những ai hỏi về những ngày này. “Ồ đám cưới của tôi tổ chức theo lối mới lớn lắm. Winnie là phù dâu của tôi. Đáng tiếc là chồng tôi chết trẻ quá.” Bà ta nói điều này ngay cả khi bà đã trở thành công dân Mỹ và không ai có thể đuổi bà về nước.

Helen cũng kể những câu chuyện về tôi rất nhiều lần đến nỗi đôi khi tôi cũng tin là thật. Jimmy là người chồng đầu tiên và duy nhất của tôi. Chính bà đã giới thiệu chúng tôi với nhau ở Thượng Hải. Bà đã dự tiệc cưới của tôi, một đám cưới linh đình theo lối truyền thống.

Sẽ không có ai tin tôi nếu bây giờ tôi nói rằng Helen không phải là chị dâu của tôi. Bà ta chẳng có dây mơ rễ má gì với tôi cả về mặt huyết thống cũng như quan hệ hôn nhân. Bà ta không phải là người mà tôi chọn là bạn. Đôi khi tôi chẳng thích thú gì với cái tình bạn này. Tôi không đồng ý với bà ta về nhiều điểm. Tôi cũng chẳng ngưỡng mộ tính cách của Helen nữa, mặc dù chúng tôi có lẽ còn gắn bó hơn cả chị em ruột thịt, bởi sự ràng buộc của số phận, sự nối kết nợ nần. Bà giữ bí mật cho tôi, tôi giữ bí mật cho bà. Chúng tôi có một lời thề trung thành không hé một lời nào về quá khứ trên cái đất nước này.

Vì thế bạn có thể tưởng tượng được sự giận dữ của tôi khi Helen bảo tôi ở trong bếp ngay sau bữa ăn tối rằng bà quyết định nói ra hết những bí mật của tôi.