Chương 4 ĐIỆN THOẠI ĐƯỜNG DÀI
Đây là cách mà bà ấy nói với tôi điều đó.
Sau bữa tối với con cá nọ, Henry trở lại phòng khách xem ti vi và ngủ thiếp đi trên ghế bành. Helen vẫn ở trong bếp nấu nước pha trà. Còn tôi ngồi ở phòng ăn. Thực ra nó cũng chẳng phải là phòng ăn nữa, chỉ là một phần của cái bếp được ngăn ra bởi một bức sáo bằng nhựa. Nhưng mà Helen không thể nhìn thấy tôi, bà ta nói oang oang cũng cứ như thể chúng tôi ở cách xa nhau lắm, khoe khoang về việc Bảo Bảo sẽ lấy vợ trong ba tuần lễ.
Bảo Bảo thế này, Bảo Bảo thế kia, đó là tất cả những điều mà bà ta nói say sưa. Giọng của bà như trong một màn quảng cáo trên tivi, thắng cái này, thắng cái kia, tuần nào cũng như tuần nào.
Bảo Bảo đã 31 tuổi mà bà ta vẫn gọi nó là bé cưng. Nhưng có lẽ Helen đúng. Bảo Bảo của bà vẫn là một đứa trẻ quá được cưng chiều đến nỗi nó không có đủ kiên nhẫn để đợi một chuyến xe buýt. Một lần xe nó bị hỏng nó gọi cho tôi mới dễ thương và lịch sự làm sao, “Dì yêu quý, bao lâu rồi con chưa gặp dì. Dì có khỏe không ạ? Tốt quá, tốt quá. À mà dì có thể cho con mượn chiếc xe của dì không? Con có một cuộc phỏng vấn rất quan trọng.” Khi nó trả lại xe cho tôi, 3 ngày sau đó, thì ôi thôi tôi nhìn thấy những dấu vết vương vãi trong và ngoài xe - một cú va chạm vào thanh cản xe, lon coca vứt lung tung trên sàn xe, không một giọt xăng. Nó thậm chí vẫn hoàn toàn thất nghiệp.
Vì thế tôi chẳng hơi đâu nghe Helen khoe khoang về cậu quý tử. Tôi vẫn còn nhớ là tôi phát điên lên vì cái xe. Bởi vì tôi chẳng xổ ra vào lúc ấy nên nhớ lại bây giờ tôi vẫn còn giận lắm. Tôi nghĩ con trai tôi không như vậy. Samuel không bao giờ nói những lời ngọt ngào để rồi ngay sau đó lại hỏi mượn một cái gì đấy. Nó cũng chẳng bao giờ mượn xe Helen để đi phỏng vấn tìm việc làm cả. Nó có việc làm hẳn hoi ở New Jersey, một chuyên viên quản lí phúc lợi chuyên phân tích những kỳ nghỉ ốm, tiền trả cho người bệnh, người nào thực sự ốm đau, người nào lại cố tình lừa dối.
Helen mang trà vào phòng, vẫn nói ông ổng như thể tôi ngồi ở xa lắm. Bây giờ thì bà nói về Mary, “Tôi nói cho chị nghe chưa nhỉ? Mary vừa gọi về cách đây mấy ngày, vợ chồng nó lại sắp đi Hawaii nữa. Lần này là lần thứ tư đó. Tôi nói: “Các con đã đến đấy rồi mà. Ðâu có cần đi lần nữa.” Nó đáp, “Không mấy ai đến Hawaii bởi vì họ cần. Mẹ đến đấy bởi vì mẹ không cần đến.” Helen đưa tách trà cho tôi. “Tôi bảo nó rằng, “Suy nghĩ kiểu gì thế. Mẹ không cần đến Hawaii và mẹ không đi. Mẹ muốn về Trung Quốc và mẹ cũng không đi.” Helen cười một mình, “Con gái của tôi thế đấy! Ồ tôi đã nói chị nghe chưa nhỉ? Nó gọi tôi lần nữa sau 10 giờ đêm hôm qua.” Helen vẫy tay, bất mãn, “làm tôi sợ muốn chết!” Tôi hỏi nó, “Chuyện gì vậy? Ai bị ốm? Đụng xe hả? Doug mất việc?” Nhưng nó lại cười “Không, không, không. Con chỉ gọi nói chuyện thôi.” Helen mỉm cười, “Chị nghĩ sao? Tại sao nó lại gọi? Nói tôi nghe nào.”
“Nó là một đứa con gái ngoan,” tôi đáp. Helen lắc đầu, “Lần này nó nói nó gọi chẳng vì một lí do nào cả. Không có lí do! Chỉ là không có lí do gì hết.”
Helen rót thêm trà cho tôi. “Tất nhiên, đó không phải là ý của nó, hoàn toàn không phải. Nó xem một đoạn hàng quảng cáo trên tivi về một công ty điện thoại, một cô con gái gọi cho mẹ chẳng có lí do gì cả. Tôi mới hỏi nó, “Vậy con nói chuyện đường dài mà không có nguyên cớ gì cả ư? Đừng nói lâu quá, tốn tiền lắm.” Nó nói, “Không sao đâu mẹ, sau 8 giờ điện thoại giảm giá cước.”
“Tôi lại bảo nó, “Đừng có ngốc thế. Người ta toàn nói xạo trên tivi thôi. Có thể là rẻ hơn nếu con nói nhanh hơn. Ai mà biết được điều đó có nghĩa gì cơ chứ.” Nó nói, “Mẹ ơi, đắt rẻ không thành vấn đề.” Tôi hỏi lại, “Không thành vấn đề á? Sao con lại có thể nói nhẹ như không như vậy được nhỉ? Con muốn quẳng đi 10 đô ư? Đừng có làm giàu cho công ty điện thoại. Gửi cho mẹ đi.”
Tôi có thể nghe thấy Helen tranh luận với con gái; phí tiền để tranh luận về việc đừng có xài hoang phí. Helen là như vậy đấy.
Helen thở dài, “Cuối cùng tôi thuyết phục được nó rồi cúp máy.” Bà nhìn tôi cười thật sự sung sướng, quay lại nói bằng tiếng Hoa. “Chị thấy đấy, nó vẫn nghe lời tôi. Nó biết rằng mẹ nó bao giờ cũng đúng.” Bà húp trà đến soạt một cái, “Vậy, chị có nghe được gì từ Pearl tuần này không? Nó có gọi, phí tiền vì những cuộc điện thoại liên tỉnh không?”
Khi Helen hỏi tôi điều đó, tôi biết rằng bà ấy không cần nghe câu trả lời. Bà biết tôi và con gái không nói chuyện vu vơ. Tất nhiên nó gọi cho tôi kể rằng nó đưa Tessa và Cleo đến chỗ gửi trẻ. Nó gọi để dặn dò tôi. Tuần trước, nó gọi tôi nói gia đình nó không thể ngủ qua đêm ở nhà tôi. Thực ra nó không gọi mà chồng nó gọi. Nhưng tôi biết là nó bảo chồng nó gọi và nó nghe ở một máy khác.
“Pearl không ở quá xa,” tôi nhắc Helen.
“San Jose cũng vẫn là xa,” Bà cãi lại. “50 dặm cơ mà. Mã số vùng khác.”
“Nhưng nó không ở xa,” tôi lại nói.
Helen không chịu thua, “Cũng vẫn là điện thoại đường dài. Chị vẫn phải trả thêm tiền cho mỗi một phút. Chị vẫn không nên nói quá lâu.”
“Có lẽ chúng ta không nên nói nhiều nữa,” tôi nói. “Henry đang ngủ,” tôi chỉ vào đức lang quân mệt mỏi của bà ta đang nằm ngủ trên ghế miệng há hốc. “Có lẽ tôi nên về nhà thôi.”
“Henry, dậy đi!” bà ta hét lên, đẩy vào vai ông cho đến khi ông chồng cau mày dụi mắt, thả hai chân xuống sàn, chậm chạp đi về phòng ngủ.
Sau khi Henry đi khuất, Helen bảo tôi “Nào, bây giờ thì tôi có tin tức tốt lành cho chị đây.” Bà mỉm cười.
“Tin tốt lành gì vậy?”
Lại mỉm cười. Nhắp một ngụm trà. Bà lấy một chiếc khăn giấy ra lau mũi. Lại một tuần trà nữa, lại mỉm cười. Tại sao bà ta cứ làm như trong một buổi lễ của người theo đạo Phật vậy? “Bây giờ thì chị không cần phải trốn tránh nữa,” cuối cùng bà ta nói.
“Tôi chẳng trốn tránh gì hết. Tôi đang ở đây này.”
“Không, không, cả đời chị đã phải ẩn náu rồi. Bây giờ thì chị có thể bước ra ngoài ánh sáng được rồi đấy.” Bà ta nhổm lên tìm cái bóp, một cái xách tay bự và thọc tay vào bên trong. Tôi có thể nói là bà đang vội vã tìm cái gì đó. Bà lấy ra một quả cam đặt lên bàn, sau đó là hai bịch đậu phộng của hãng hàng không, tăm của nhà hàng, một cái ví nữa để lừa bọn trộm rồi bà quay cái túi về phía khác, đổ tất cả những đồ linh tinh dự phòng chiến tranh xảy ra mọi người lại phải bỏ chạy như ngày nào. Hai cây đèn cầy ngắn, giấy tờ căn cước được ép plastic, hộ chiếu Trung Quốc làm cách đây 40 năm, một cục xà bông, một cái khăn nhỏ, một cặp vớ dài, đồ lót bằng vải ni lông vẫn còn nguyên mác. Sau đó bà lôi tiếp ra những thứ khác: thuốc đau bao tử, kẹo ngậm ho, cao hổ cốt để xoa bóp, bùa may mắn trong trường hợp những phương pháp khác không có hiệu quả.
“Nó đâu rồi nhỉ?” bà nói, kiểm tra đi kiểm tra lại lần nữa cho đến khi cuối cùng bà lôi từ bên cạnh túi cái vật mà bà tìm kiếm nãy giờ. Ðó là một lá thư, một loại vừa là thư vừa là phong bì. Bà vẫy nó trong tay.
“Ðây này”, bà nói với một vẻ tự hào trên khuôn mặt. “Người này này!”
Lúc ấy tôi bắt đầu cảnh giác. Dạo này bà ta trở nên lẩn thẩn. Lúc sau này bà nhớ nhớ quên quên. Lúc sau này đầu óc bà trở nên lộn xộn, có lẽ là bởi vì bà bị té bậc thang hai tháng trước mà vì thế bà nghĩ mình sắp chết.
“Làm sao chị có thể đặt một người đàn ông trong phong bì này?” Tôi cẩn thận hỏi. “Cái gì?” “Chị nói chị cho một người đàn ông vào trong phong bì?” “À, tôi không nói thế. Tôi nói tin tức ấy trong này này, mà là tin tức tốt lành. Người đàn ông này đã chết, Vân ở Hồng Kông nói với tôi như thế trong cái lá thư này. Bà ta mới đến Thượng Hải. Chị có nhớ bà ta đấy, người đẹp Vân đấy, người ta vẫn gọi bà như vậy suốt trong thời gian chiến tranh, mặc dù bây giờ bà không còn đẹp nữa.” Helen cười thành tiếng. “Chị có nhớ cái máy khâu tôi cho bà ấy không? Bà ấy kiếm được khối tiền sau này, bây giờ thì làm chủ một cửa hàng thời trang ở Cửu Long.”
Sau này đầu óc Helen lãng đãng ở đâu đấy, như con bò đi tìm cỏ ở bất cứ đâu mà cái mõm dẫn nó đi tới.
“Bà ấy bắt đầu bằng một cửa hàng nữ trang.” Tôi nhắc Helen, một cửa hàng ở Cửu Long, trong gian hàng của khách sạn Ambasador.
Helen lắc đầu, “Một cửa hàng thời trang,” bà ta nói, “dành cho phụ nữ, toàn hàng giảm giá.” Tôi chẳng muốn cãi cọ. Tôi chẳng thèm nói cho bà biết bà luôn ghi nhớ những điều xấu hơn là những điều tốt đã xảy ra. Bà đã không nhớ rằng tôi mới là người cho người đẹp Betty cái máy khâu.
“Ông nào chết?” Cuối cùng tôi hỏi bà, chỉ vào lá thư.
“Ồ, phải, người đàn ông này,” bà thở dài, giả vờ rằng bà đã phóng đại với tôi. “Người đàn ông này, người đàn ông này chị biết rõ mà, sao chị lại không đoán được?” Sau đó bà rướn người về phía trước thì thầm, “Người đàn ông xấu xa ấy.”
Tôi nín thở. Tôi có thể nhìn thấy hắn ta, cái người đàn ông xấu xa ấy. Văn Phú - người chồng quỷ ám - người mà tôi bảo Helen đừng bao giờ nhắc tới. “Chớ nhắc đến tên hắn ta, đừng bao giờ nói với ai cả.”
Tôi có thể nhìn thấy mái tóc dầy, đôi lông mày giảo hoạt, bộ mặt đẹp trai giả dối, cái miệng khôn ngoan của hắn. Tôi đã không gặp hắn trong suốt 40 năm qua. Bây giờ mới chỉ nghe Helen nhắc đến tên hẳn tôi cũng có thể cảm thấy hơi thở của hắn trên gáy tôi, nhớ lại tiếng người của hắn khi hắn nói rằng cuối cũng hắn đã tìm thấy tôi, lôi tôi trở về, không có sự lựa chọn nào hết.
“Đừng sợ, hắn đã chết rồi,” Helen nói, “Chị tự đọc đi.”
Tôi cầm lá thư từ tay bà, đọc. Tôi biết được là: suốt 40 năm qua Văn Phú vẫn tiếp tục cười vào mặt tôi, bởi vì lá thư đã không nói là hắn chết 30, 40, 50 năm trước mà hắn chết tháng vừa rồi vào ngày Giáng Sinh.
Tôi đập vào lá thư, “Chị tưởng tượng được không?” Tôi nói với Helen, “Ngay đến lúc chết cũng tìm ra cách làm cho tôi đau khổ suốt đời! Chết đúng vào ngày Giáng sinh”.
“Chuyện hắn chết vào lúc nào thì có ý nghĩa gì,” Helen nói. Bà ta xỉa răng bằng một cái tăm, cắm nó ở góc miệng vì thế trông bà như là đang cười. “Hắn đã chết, không thể theo đuổi chị nữa, vấn đề là như vậy.”
“Hắn đã có tôi,” tôi kêu lên. “Ngay trong đầu tôi này! Bây giờ thì tôi luôn nghĩ tới hắn và sau này lễ Giáng sinh làm sao tôi có thể hát bài “Ðêm thánh vô cùng”, “Niềm vui trên đời” khi tôi chỉ muốn gào lên rằng tôi rất sung sướng vì hắn đã chết. Một ý nghĩ tồi tệ, một ngày tồi tệ.”
“Vậy thì chị phải quét nhà chị thôi, quét hắn ra khỏi đời mình.” Bà ta nói, vung tay ra như là điều đó dễ dàng lắm ấy. Tôi biết là bà định nói về năm Âm lịch sắp tới, về câu tục ngữ, “Quét rác của năm cũ, cùng với tất cả những cảm xúc tồi tệ.”
Helen biết gì về việc quét dọn chứ? Nếu bạn nhìn vào sàn bếp của nhà bà bạn sẽ thấy - những đám bụi to như lũ chuột, những viết dơ đã đen bóng như đánh xi ở các góc bếp chắc cũng phải được 20 năm rồi, tất cả những điều này Helen nghĩ tôi không thể nhìn ra được.
“Tôi nghĩ thế,” Helen nói. “Chúng ta nên quét tất cả những điều dối trá ra khỏi cuộc sống của chúng ta. Nói với mọi người sự thật chúng ta đã gặp nhau như thế nào.”
“Chị đang nói gì vậy?”
“Tại sao tôi lại phải đi xuống mộ với tất cả những điều dối trá này? Rằng tôi là chị dâu của chị, lấy ông anh cùng cha khác mẹ của chị, một người mà tôi chưa hề gặp. Ngay cả năm sinh tháng đẻ của tôi cũng sai nốt. Chị đã làm tôi trẻ hơn một tuổi. Bây giờ khi tôi chết tuổi thọ của tôi mất đi một năm.”
“Chị nói vớ vẩn cái gì vậy?”
“Tôi nói rằng giờ đây khi Văn Phú đã chết, tôi muốn sửa sai trước khi quá trễ. Không còn bí mật gì hết, không còn những lời dối trá.” Một cảm giác kinh khủng cuộn trong lòng tôi, tại sao bà ta lại nói thế? Bà ta muốn cho nổ tung mọi thứ lên ư? - quá khứ của tôi, cuộc hôn nhân của tôi với Văn Phú. Tất cả những cái mà tôi đã làm hết sức mình để chôn vào quên lãng.
“Sao mà chị có thể làm thế được?” tôi đay nghiến “Chị muốn nói ra những bí mật của tôi phải vậy không? Chúng ta đã hứa - không bao giờ nói ra.”
“Đó là từ thời xửa thời xưa,” Helen cãi lại. “Tất nhiên lúc đó chúng ta không thể nói được. Chị quá sợ hãi. Chị nghĩ Văn Phú vẫn theo đuổi chị. Cả hai chúng ta cần phải tìm đường đến đất nước này. Lúc ấy cần phải như vậy. Nhưng bây giờ…”
“Đó là một bí mật.”
“Thì có ý nghĩa gì nào? Văn Phú đã chết.” Helen nói. “Hắn ta không thể đến đây tìm chị. Chúng ta không thể bị trục xuất. Vấn đề là cần phải nói ra sự thật, không thể đi sang thế giới bên kia với quá nhiều chuyện lừa dối. Làm sao tôi có thể gặp gỡ người chồng đầu tiên của tôi trên thiên đàng, khi trong bao nhiêu năm qua tôi nói là tôi đã lấy một người khác? Làm sao tôi có thể để cho người ta khắc trên bia mộ mình là tôi sinh năm 1919? Mọi người sẽ cười vào cái xác chết của tôi, nói rằng tôi già đến mức lú lẫn không biết mình bao nhiêu tuổi nữa.”
“Vậy thì cứ việc nói về những chuyện liên quan đến chị ấy, chỉ có điều đừng nói gì đến tôi hết.”
Helen cau mày, “Làm sao tôi có thể làm như thế? Vậy thì tôi lại phải nói dối tiếp, chúng ta gặp nhau như thế nào, tại sao tôi biết chị. Chị đang buộc tôi đến những điều tệ hại hơn. Nếu chị không nói ra, tôi sẽ nói trước Tết.”
“Chị đang ép tôi phải rước họa vào thân thì có. Nếu chị nói với con chị thì con tôi cũng sẽ biết.”
“Vậy thì chị hãy tự mình nói ra đi.” Helen nói. “Chúng đã lớn cả rồi; không còn trẻ nít gì nữa. Chúng sẽ hiểu. Có thể chúng sẽ vui vẻ khi biết một cái gì đó về nguồn gốc của mẹ chúng. Cuộc sống khốn khổ ở Lục địa trước kia bây giờ người ta nói đầy ra đấy, chẳng có gì phải xấu hổ cả.”
“Chị không biết xấu hổ là gì cả đâu,” tôi nói.
Chúng tôi cãi nhau qua lại hồi lâu. Cuối cũng tôi nhận thấy cãi cọ như vậy thật là vô ích. Cũng giống như con cá pom-pom và cước phí điện thoại đường dài của bà ta. Helen nghĩ bà ta lúc nào cũng đúng. Làm sao tôi có thể cãi nhau với một người chẳng biết phải trái gì cả? Tôi giận run cả người.
Khi bà ta đứng dậy châm thêm nước vào bình trà, tôi nói rằng quá trễ rồi tôi phải về. Tôi mặc áo khoác, cầm những món đồ tôi mua ở siêu thị hồi chiều và chuẩn bị ra về.
“Chờ một chút,” Helen nói. “Để Henry đánh xe đưa chị về. Như vậy an toàn hơn.”
Mỗi lần tôi đến chơi bà ta lại nói như vậy. Mỗi lần nghe Helen nói thế tôi đều hiểu thực ra bà ta muốn nói điều gì. Ba mươi năm trước Jimmy và tôi rời Chinatown mua một căn hộ ở trên đại lộ số 8 giữa đường Geary và Anza. Trong vòng hai năm Helen không ngừng nói với tôi rằng cái khu vực ấy không an ninh, rằng cái chốn ấy chẳng bao giờ gia đình bà dám dọn tới. Sau đó Jimmy chết - thử đoán coi chuyện gì xảy ra? Bà ta và Henry mua một ngôi nhà lớn cách nhà chúng tôi một khối nhà, trên đại lộ số 9, con đường lớn hơn đường chúng tôi một số. “Bây giờ thì chúng tôi có thể chăm nom cho chị” bà ta nói. “Như vậy an toàn hơn.” Nhưng tôi biết bà ta chỉ dùng tôi làm cớ. Tối hôm qua tôi nói như mọi lần tôi vẫn nói, “Không phiền chị đâu, tôi có thể đi bộ về nhà, tập thể dục mà.”
“Nguy hiểm lắm,” bà ta khăng khăng. Song tôi biết điều đó chẳng có nghĩa gì cả. Bà ta thì thào, để đánh thức ông chồng dậy, “Chị phải cẩn thận đấy,” bà ta nói.
“Úi dào, chị nghĩ là có kẻ muốn trấn lột tôi vì mấy trái quýt và hộp măng tươi này sao?” Bà ta chộp lấy cái giỏ nhựa trong tay tôi. “Vậy thì tôi sẽ giúp chị mang cái này”, bà ta nói. “Nó quá nặng so với chị đấy.”
Tôi giật lại cái giỏ, “Đừng có lịch sự vờ với tôi.”
“Chị quá già để xách túi này,” bà ta nói, lại đôi co, giằng lấy cái giỏ của tôi.
“Chị quên à. Chị cũng già như tôi thôi. Còn lớn hơn tôi một tuổi.”
Cuối cũng thì bà ta cũng để cho tôi và giỏ rau quả ra về.
Tôi kì cọ nhà cửa suốt đêm cho quên mọi sự. Tôi rũ bụi khỏi những tấm màn cửa, đập bụi khỏi ghế sofa, lau rửa những cái bàn và tay vịn cầu thang. Tôi lau chùi những khung ảnh ở trên cao, lau kiếng và nhìn bức ảnh phía dưới: Jimmy của tôi lúc nào cũng trẻ.
Tôi đi vào phòng ngủ thay ra trên cái giường tôi vẫn nằm chung với Jimmy, hình dáng của thân hình ông vẫn còn vương trên giường. Tôi đi vào phòng của Samuel lau bụi cái máy bay bằng plastic mà nó tự chế, những chiếc máy bay ném bom của Nhật và Mỹ, những người lính nhỏ bé đang chạy trên bàn nó. Tôi mở ngăn kéo của nó, trông thấy tạp chí Playboy. Ôi tôi gần như bị một cái tát vào mặt. Một lần tôi bảo Samuel quẳng cuốn sách ấy đi. Cuốn sách in năm 1964, cũng cái năm Jimmy mất, cái lúc mà mọi người không nghe lời tôi nữa. Tôi đi vào phòng Pearl. Bao nhiêu tổn thương và tranh cãi đã diễn ra trong căn phòng này. Tôi cho phép nó chơi búp bê Barbie nhưng không phải Ken. Tôi không cho nó dùng nước hoa bởi vì nó làm cho con tôi bốc một mùi rẻ tiền. Cái bàn trang điểm chạm trổ với cái gương tròn và tay nắm bằng bạc, một cái tủ tôi rất thích nhưng tôi lại cho con gái tôi. Nhưng khi nó nhìn thấy cái bàn, nó nói nó rất ghét cái bàn ấy, “Mẹ để nó ở đây chỉ để hành hạ con thôi.” Nó hét lên.
Tôi nhớ lại những điều này khi tôi lau chùi cái bàn. Ðúng lúc ấy tôi nhìn thấy một trong chữ nhỏ khắc trên mặt bàn trang điểm, “Tôi yêu RD.”
Ai là RD? Ai là kẻ mà con gái tôi yêu đến độ phá hỏng cả cái bàn mà nó ghét đến vậy? Hắn là người Hoa hay người Mỹ? Tôi bừng bừng giận dữ. Xem này, nó đã làm gì với cái bàn gỗ quí của tôi?
Tất nhiên sau đó thì tôi dịu lại, tôi nhận ra là Pearl không hề làm điều này mới đây. Chuyện này xảy ra khoảng 26 năm về trước. Bởi vì bây giờ Pearl đã ngoài 40 tuổi. Nó không còn yêu RD nữa. Nó đã lấy Phil Brandt, không phải người Hoa, nhưng vẫn là một người tốt, một bác sĩ mặc dù không phải loại bác sĩ mà người ta cần.
Khi Pearl giới thiệu anh ta với tôi lần đầu tiên, tôi cố tỏ ra thân thiện. Tôi nói, “Bác sĩ à? Bác sẽ giới thiệu tất cả bạn bè của bác tới chỗ cháu khám.” Nhưng sau đó nó bảo tôi nó là một bác sĩ về bệnh lí học - một bác sĩ khám xét bệnh nhân chỉ khi tất cả đã quá trễ, sau khi người ta chết. Làm sao mà tôi có thể giới thiệu mọi người đến chỗ một bác sĩ như anh ta chứ?
Nhưng Pearl thì lại có một công việc tốt, một bác sĩ chuyên khoa, điều trị cho những đứa trẻ “đần độn” mất khả năng nói bình thường, mặc dù nó bảo tôi đừng gọi những đứa trẻ kém may mắn ấy như vậy. Một vài năm trước nó bảo, “Chúng con không gọi những đứa trẻ đó là trì độn hay tật nguyền nữa. Chúng con gọi chúng là “những trẻ khuyết tật”. Chúng con đặt chữ trẻ em lên trước, khuyết tật ra sau. Con cũng không phải là bác sĩ chuyên khoa điều trị cho những đứa trẻ mất khả năng nói, mà con là chuyên viên y tế về ngôn ngữ và giao tiếp. Mẹ đừng bao giờ gọi chúng là những đứa trẻ đần độn”.
Tôi đề nghị nó nói lại nghề nghiệp của nó một lần nữa rồi viết thật rõ ràng trên giấy cho tôi. Tôi thực tập nói đi nói lại rất nhiều lần. Tôi bỏ cả tờ giấy ấy vào trong sắc. Nhưng tôi vẫn không nói lại cho chính xác được. Vì thế có thể bây giờ Pearl cũng nghĩ tôi là một kẻ đần độn có vấn đề với ngôn ngữ đấy.
Tất nhiên hai đứa con của Pearl không có vấn đề gì với chuyện nói tiếng Anh. Đứa con lớn của nó mới được hai tuổi đã biết chạy đến cửa, chào to, “Ha-bu! Ha-bu! Ha-bu ở đây!” Nó mới thông minh sáng láng làm sao, tôi nghĩ. Nó biết cách gọi bà ngoại nó bằng tiếng Thượng Hải. Rồi nó nói với bà ngoại nó bằng tiếng Anh. “Bà có quà gì cho con nào? Cái gì? Bao nhiêu cái? Chúng ở đâu?”
“Tuyệt chưa mẹ?” Pearl nói, “Nó bao giờ cũng nói cả một câu hoàn chỉnh. Hầu hết những đứa trẻ ở tuổi nó chỉ nói vài từ. Nó thông minh lắm.”
Tôi đáp, “Hay hớm gì cái chuyện có một đứa con lanh lợi kiểu ấy chứ? Con phải dạy cho nó cốt cách, đừng có hỏi một lúc quá nhiều, theo như cái cách mẹ đã dạy con ấy.”
Con gái tôi ném cho tôi nụ cười nửa vui nửa giận. Nó nói, “Ôi mẹ!” Chỉ có thế, không một lời tranh cãi nào.
Tôi nhớ lại điều này trong khi tôi quét dọn phòng của nó. Nó là như vậy đấy, bao giờ cũng lịch sự một cách thận trọng, bao giờ cũng cố gắng tránh những cuộc đụng độ như những người xa lạ.
Chợt tôi chạm phải một vật gì dưới gầm giường của con gái. Những đứa cháu ngoại - thật quậy phá khi chúng chơi đùa với nhau. Tôi lôi ra một cái hộp nhựa màu hồng. Hộp khóa chặt không thể mở nếu không có khóa. Trên nắp hộp có dòng chữ “Kho tàng bí mật của tôi.”
Tôi đã nhớ ra. Tôi đã tặng con gái cái hộp này vào sinh nhật lần thứ 10 của nó. Khi ấy nó mở ra, nhìn vào trong.
“Chả có gì,” nó nói, nhìn tôi làm như tôi có thể thay đổi được điều đó. “Tất nhiên. Bây giờ thì nó không có gì. Nhưng sau này con có thể cho đồ của con vào.” tôi bảo nó. Có thể nó nghĩ cái hộp cũng đáng vứt đi như cái bàn trang điểm. Nhưng với tôi cái hộp này rất hiện đại, một cái gì mà tôi cho là nó thích “Những cái gì ạ?” Nó hỏi lại tôi.
“Những món đồ của Mỹ, thật bí mật, thật riêng tư ấy”
Nó chẳng nói gì, chỉ chằm chằm nhìn cái nắp có vẽ một cô gái với một bím tóc đuôi gà màu vàng, đang nằm trên giường, chân cong lên chạm vào tường và đang gọi điện thoại. Chúng tôi đã có nhiều tranh luận về chuyện này, những cuộc nói chuyện điện thoại quá lâu.
Nhưng bây giờ tôi có thể thấy cái mái tóc màu vàng của cô gái đã chuyển thành màu đen. Cái hộp trước kia trống rỗng và chỉ chứa đựng nỗi thất vọng của con gái tôi bây giờ thì nặng trĩu, đầy những món đồ bên trong.
Ôi tôi thật sự bị kích động. Tôi muốn mở kho tàng trong trái tim đứa con gái bé nhỏ của tôi, tất cả những thứ này đã được giấu kín bao nhiêu năm qua. Tôi tìm trong các ngăn kéo khác chìa khóa để mở. Không có. Tôi cúi tìm dưới gầm giường. Tôi chỉ thấy một đôi dép lê cũ của Tàu có hai cái lỗ xỏ vào ngón chân cái.
Tôi quyết định xuống dưới nhà tìm dao để phá cái chốt. Nhưng khi chân tôi bước đi, đầu óc tôi đã lao vụt về phía trước. Cái gì ở bên trong? Có phải là những cái làm thất vọng, tổn thương? Và nếu tôi mở ra và nhìn thấy một cái gì kì cục? Nếu những thứ bên trong đó lại chẳng có gì giống như tôi hình dung?
Tôi cố gắng quyết định phải làm gì. Phá cái chốt hay không? Đặt trả lại cái hộp vào chỗ cũ, sau này hãy mở nó ư? Trong lúc tự hỏi mình như vậy, tôi đưa tay vuốt tóc, tay kia chạm phải cái ghim cài tóc và đó là câu trả lời ngay tức thì. Tôi lấy cái ghim cài tóc, nạy vào ổ khóa.
Tôi nhìn thấy hai cây son nhỏ, một cây màu hồng, một cây màu trắng. Tôi tìm thấy mấy món đồ trang sức, một cái dây chuyền bằng bạc với cây thánh giá, một cái nhẫn có một viên đá giả ruby ở một bên, một cục bong bóng ở bên kia. Ở bên dưới còn nhiều món lặt vặt khác, kể cả những vật kinh khủng - những mút bông gòn mà tôi đã cấm nó không được dùng trong những ngày có kinh, phấn mắt mầu xanh, tôi cũng cấm không được bôi, dưới nữa là những món còn ngớ ngẩn hơn, một thông báo cho một cái gọi là ngày khiêu vũ của tuổi chanh cốm và những lá thư của Jeanette bạn nó. Tôi nhớ đứa con gái này, một đứa có bà mẹ bao giờ cũng cho phép nó đàn đúm với bọn con trai.
Pearl cự nự tôi “Tại sao con không được mời một đứa bạn trai đi nhảy đầm? Jeanette cũng đi kìa. Mẹ nó cho phép nó đi.” “Con muốn theo đuôi một đứa con gái chẳng biết phải quấy gì sao? Con muốn nghe lời mẹ nó à? Một người mẹ thậm chí chả thèm quan tâm đến con gái nữa.”
Tôi có thể nhìn thấy tất cả những điều đó trước mắt, tôi mở một trong những lá thư của Jeanette. Cái gì thế này. “Ê nhớ quậy tóe khói nghe. Cho hắn đi tong.”
Tôi hoàn toàn đúng. Một đứa con gái điên rồ hư hỏng.
Chợt tôi nhìn thấy một món khác. Tôi nín thở. Đó là một cái cạc nhỏ có một bức ảnh chúa Jesus ở một mặt. Ở mặt kia có dòng chữ. “Để tưởng nhớ James.Y.Louie.” Một hàng chữ nhỏ nữa ghi ngày sinh của chồng tôi, 14 tháng 4 năm 1914, có cả ngày ông tạ thế. Nó được tô bằng bút đen với rất nhiều nét vạch giận dữ. Tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn, cũng giống như điều mà bạn cảm thấy khi bạn nghe lại những bài hát ngày xưa mà bạn đã quên. Bạn chỉ có thể gạt đi mỗi một nốt nhạc vừa mới vang lên vào lúc tai nghe thấy và trước khi bạn có thể nói, “Ðúng làm sao. Đúng làm sao!”
Bởi vì tôi nhận ngay ra rằng tôi đã sai. Vào lúc này tôi muốn gọi cho Pearl để bảo nó, “Bây giờ thì mẹ đã biết. Con đã buồn phiền. Con đã khóc không phải ở bên ngoài mà ở trong phòng con! Con yêu cha con lắm!”
Sau đó tôi nghĩ đến Helen, cái điều mà bà ta nói tối qua, rằng bà ta sẽ nói với Pearl tất cả những bí mật của tôi, những điều dối trá của tôi. Sau đó, con gái tôi liệu còn tin tôi nữa không?
Tôi dùng máy hút bụi để dọn sạch bụi bẩn, tôi giận dữ ném làn bụi vào không khí để quẳng đi nỗi âu lo của mình. Tôi đi ra ngoài hành lang, hút bụi dưới những tấm thảm, thanh trượt bằng nhựa, những chỗ mà tấm thảm lộ ra. Tôi nhấc thanh trượt lên, chỗ bị che đi vẫn mới, một tấm thảm thêu kim tuyến màu vàng, nhưng ở hai đầu tấm thảm lộ ra ngoài thì đã tua cả, trông rất bẩn thỉu. Mặc cho mọi cố gắng làm sạch của tôi, trông nó vẫn vậy. Cũng giống như những vết dơ trong đời tôi, không có cách gì gột sạch được.
Tôi đã xuống cầu thang, ngồi vào ghế bành. Trời bắt đầu hửng sáng mà tôi vẫn ngồi, hoàn toàn tỉnh táo, tay cầm chặt lá thơ của người đẹp Betty. Tôi nghĩ về tất cả những thời điểm mà Văn Phú có thể chết và phải chết. Trong chiến tranh khi mà bao nhiều phi công ưu tú đã chết cùng một lúc, trong khi hắn chồm khỏi xe Jeep, giết chết một người nào đó, khi quân Cách mạng quay trở lại tiến hành thanh trừng Quốc dân Ðảng, trong Cách mạng Văn hóa. Trong những thời điểm này có bao nhiêu người khác đã chết lẽ ra hắn phải chết nhưng hắn đã không chết.
Đây là lá thư của người đẹp Betty gửi cho Helen viết rằng hắn đã chết ở trên giường bệnh trong sự quây quần của gia đình: vợ hắn, những đứa con của hắn với một người vợ khác, vợ chồng người em trai, những đồng đội phi công cũ của hắn.
Tôi có thể hình dung ra tất cả bọn họ, những giọt nước mắt nhỏ xuống mặt Văn Phú, những bàn tay vuốt tóc hắn, những hòn gạch ủ ấm cái chân hắn, những giọng nói dịu dàng làm hắn bình tĩnh lại, vuốt ve hắn, gọi tên hắn. “Đừng ra đi! Ðừng ra đi.”
Hắn chết một cách an lành, lá thư nói như vậy. Chết vì một cơn đau tim ở tuổi 78. Tôi gập lá thư lại làm đôi. Sao cái bệnh teo tim lại cho hắn sống lâu thế! Bây giờ để lại tôi với một con tim đau nhức. Tôi ngồi trên ghế sofa khóc than, la hét, ước gì tôi được ngồi lên giường bệnh của hắn, ước gì hắn vẫn còn sống. Bởi vì nếu hắn vẫn còn sống tôi có thể cúi xuống giường của hắn, gọi tên hắn, tôi có thể cạy cho mắt hắn mở ra để nói với hắn rằng: “Văn Phú, giờ thì tao đã trở về.” Khi hắn có thể nhìn thấy ruột gan của tôi qua đôi mắt của tôi, tôi sẽ chụm miệng lại nhổ toẹt vào mặt hắn.
Hãy xem hắn đã chết như thế nào! Chết rồi, mà hắn vẫn còn quay trở lại. Suốt buổi tối hôm qua Helen cứ nói, “Chuyện đó có nghĩa gì.” Bà ta sẽ nói với con cái bà ta như thế nào? Bà ta sẽ nói với chúng bao nhiêu chuyện?
Chắc chắn là tôi có thể nói với con tôi trước: Mẹ có một cuộc hôn nhân khác với một người khác. Đó là một cuộc hôn nhân tồi tệ. Mẹ đã mắc sai lầm. Giờ người đàn ông đó đã chết.
Tôi có thể nói với chúng: Tôi có những đứa con khác trong cuộc hôn nhân thứ nhất, nhưng tôi đã để mất chúng, thật đáng buồn, nhưng đó là trong thời chiến, đã lâu lắm rồi. Tôi giả vờ nói là tôi đã cưới cha chúng để tôi có thể được nhập cư vào đất nước này. Helen đã che giấu cho tôi, để sau này tôi cũng phải che giấu cho bà. Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt của Pearl thể hiện sự nghi ngờ. “Không, không” tôi muốn nói, “nó không kinh khủng như là con nghĩ đâu. Mẹ đã lấy cha con, ngay sau khi mẹ tới đây. Chúng ta đã sống thật là hạnh phúc kể từ dạo đó, cũng giống như những câu chuyện khác nếu ba con không ra đi.”
Nhưng thậm chí nếu tôi nói với chúng như vậy, Pearl cũng sẽ biết rằng không phải tất cả sự thật đã xảy ra như vậy. Nó thấy điều đó qua đôi mắt đen tối, đôi tay cứng đơ, cái giọng run rẩy của tôi. Nó sẽ không nói gì hết, nhưng nó sẽ biết cái điều mà tôi muốn giấu.
Lúc đó Pearl sẽ biết những điều tối tệ nhất - điều mà Jimmy cũng không biết, điều mà tôi đã cố quên đi trong suốt 40 năm qua. Văn Phú, người ông xấu xa ấy là cha của Pearl.
Tôi cố nghĩ xem tôi phải nói thế nào với con gái tôi. Mỗi lần bắt đầu tôi lại có thể nghe giọng nói của nó với bao đau khổ, “Con biết đúng thế mà. Mẹ bao giờ cũng yêu Samuel hơn.” Thế là nó sẽ không bao giờ tin tôi. Nhưng có thể tôi sẽ bảo nó, điều đó không đúng, mẹ yêu con nhất trên đời, hơn cả Samuel, hơn tất cả những đứa con khác mà mẹ đã có trước con. Tôi có thể nói với nó. Mẹ yêu con bằng những cách mà con không bao giờ biết được. Có thể con không tin điều đó, nhưng với cả trái tim mình mẹ biết đó là sự thật. Bởi vì con đã làm cho trái tim mẹ đau đớn nhất, có thể mẹ cũng đã làm chính điều đó với con. Tôi sẽ gọi điện thoại cho nó, điện thoại đường dài. Tiền bạc không thành vấn đề, tôi sẽ nói mẹ không thể đợi được nữa, mẹ phải cho con biết một điều. Sau đó tôi sẽ bắt đầu cho nó biết không phải chuyện gì đã xảy ra mà là tại sao chuyện đó lại xảy ra và làm sao nó không thể xảy ra theo bất cứ một cách nào khác.