← Quay lại trang sách

Chương 5 MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN

Đầu tiên tôi bảo con gái là tôi không còn cảm thấy đau ở ngực nữa, đó chỉ là lý do tôi đưa ra để bảo nó nên đến ngay lập tức. Nó vẫn có vẻ mặt lo lắng ghê gớm, “Có thể chúng con sẽ đưa mẹ đi bác sĩ ngay. Ðể kiểm tra cho chắc.”

“Mẹ chắc chắn mà,” tôi nói. “Bây giờ mẹ thấy đỡ nhiều lắm rồi. Không cần phải trả tiền khám bệnh cho bác sĩ đâu. Cởi áo choàng của con ra.”

“Con vẫn nghĩ là chúng ta nên đi bác sĩ.” “Thì hãy ăn một ít mì trước đã. Xem mẹ nấu như thế nào, cũng giống như hồi con còn bé với rất nhiều củ cải chua và một ít thịt heo ướp gia vị. Vào những ngày mùa đông, con rất sung sướng được ăn món này!” Tôi hi vọng là nhớ lại cái mùi vị của món mì tôi nấu sẽ làm cho nó cảm thấy dễ chịu, nó cởi áo khoác ra và ngồi xuống ăn.

“Nhưng mẹ cảm thấy đau như thế nào hả?” Nó hỏi, một muỗng đầy chuẩn bị đưa vào miệng.

“Nóng quá hả?” tôi hỏi.

“Không nóng đâu,” nó nói.

“Có đủ nóng không?”

“Không, vừa ăn lắm, thật thế ạ.”

Tôi múc thêm cho nó, nhìn nó ăn món mỳ tôi nấu và bắt đầu kể cho nó nghe tất cả.

Ðó cũng là cái cảm giác đau đớn mà mẹ đã cảm thấy từ rất nhiều năm trước, do việc ém kín mọi chuyện bên trong đợi cho đến lúc đã quá trễ.

Ta nghĩ mẹ ta đã để lại cho ta lỗi lầm này cũng như cái nỗi đau này. Bà để lại cho ta trước khi bà có thể giải thích tại sao bà ra đi. Ta nghĩ rằng bà cũng muốn giải thích nhưng vào phút chót bà lại đổi ý. Thế là cho đến tận hôm nay ta vẫn cứ có cái cảm giác là ta đang đợi bà quay trở lại, nói cho ta nghe tại sao mọi việc lại xảy ra như vậy.

Ta chưa bao giờ nói cho con nghe về mẹ ta phải không? Rằng bà đã bỏ ta mà đi? Ô, đó là bởi vì chính ta cũng chẳng bao giờ tin vào điều đó. Vì thế có thể đó là lí do ta không kể cho con nghe.

Tất nhiên điều đó tuyệt không có nghĩa là ta không nghĩ đến bà. Ta yêu bà lắm. Thực tế là từ khi ta còn bé tí, và trong bao nhiều năm qua ta vẫn giữ mái tóc của bà, dài cả thước cuộn trong một cái hộp thiếc nhỏ. Ta đã giữ gìn cho bà ngần ấy năm qua, nghĩ rằng một ngày kia bà sẽ quay trở lại, ta sẽ đưa lại cho bà như một món quà. Sau này khi ta tin là bà đã chết, ta vẫn giữ mái tóc ấy. Ta nghĩ ta có thể tìm thấy xác của bà, khi ấy cơ thể và mái tóc bà lại tìm thấy nhau, nhập lại làm một, như thế sang thế giới bên kia bà sẽ không mất đi mái tóc của mình. Lại một lần nữa bà có thể để cho những ý nghĩ của bà lang thang hoang dại.

Ðây là những điều mà ta nhớ về mẹ, ngồi trong phòng bà, chải mái tóc dài óng ả và để nó đổ xuống lưng. Mẹ cũng để cho ta chạm vào suối tóc ấy.

Còn gì nữa? Rất nhiều, ta không nhớ hết mọi chuyện về mẹ ta. Ta chỉ mới 6 tuổi khi bà biến mất. Nhưng có một số điều ta nhớ rất rõ; mái tóc dài, nặng trĩu của bà, bàn tay rắn rỏi của bà khi bà nắm tay ta, cái cách bà gọt một trái táo làm sao cho vỏ không bị đứt và làm sao cho nó cuộn tròn trong lòng bàn tay ta như một con rắn vàng dẹt lét. Con còn nhớ không? Ta đã học được điều này từ bà để làm cho con vui.

Có những điều khác nữa trong kí ức của ta nhưng nó rất lộn xộn. Ta thấy bức chân dung của bà. Bức họa này được thực hiện sau khi bà ra đi. Ta nhớ cái miệng của bà không giống trong bức chân dung, trong bức họa nó cứng và nghiêm nghị quá. Ta nhớ rõ đôi mắt buồn, chứa đựng bao nhiêu mất mát. Ta không nhận ra mẹ ta trong bức chân dung họa lại này. Tuy vậy, ta cần phải tin rằng người đàn bà trong tranh là mẹ ta bởi vì đó là tất cả những gì còn lại về bà.

Ta thường đặt bức tranh vào lòng, nhìn vào khuôn mặt bà từ phía này sang phía kia. Nhưng khuôn mặt của bà luôn nhìn về một hướng, không bao giờ gặp ánh mắt ta cả. Khuôn mặt của bà chẳng nói lên điều gì. Ta không thể nói là bà nghĩ gì trước và sau khi bức họa được thực hiện, ta không thể hỏi bà tất cả những điều muốn hỏi trước khi bà ra đi: tại sao bà đang giận dữ với cha ta mà vẫn giữ một nụ cười tươi tắn trên môi. Tại sao bà nói chuyện với mình trong gương suốt đêm như thể khuôn mặt bà trong gương đang nhìn lại là thuộc về một người nào khác. Tại sao bà bảo ta rằng bà sẽ không bế ta nữa, rằng ta phải học đi lại một mình.

Một hôm, lúc đó ta khoảng 10 tuổi - sau khi bà đã bỏ đi được vài năm - ta lại nhìn vào bức họa của bà một lần nữa. Ta thấy một vết lem in lên một bên má xanh xao của bà. Ta lấy một miếng vải mềm nhúng nước, rửa mặt cho bà. Nhưng má bà càng trở nên đen hơn. Ta kì thật mạnh, mạnh hơn nữa. Chẳng bao lâu ta thấy kết quả việc mình làm. Ta đã hoàn toàn làm mất một nửa gương mặt bà. Ta khóc dữ lắm, cứ như chính ta đã giết bà. Sau đó không bao giờ nhìn lại bức họa mà ta lại không cảm thấy một nỗi đau khủng khiếp. Vì thế con biết đấy, ta cũng chẳng có lấy một bức ảnh của mẹ ta.

Nhiều năm qua, ta cố nhớ lại khuôn mặt của bà, những lời bà nói với ta, những chuyện mẹ con ta đã làm với nhau. Ta nhớ về bà bằng hàng ngàn cách khác nhau, như người Hoa vẫn thường nói – thiên ức vạn tải chuyện. Đó làm một con số lớn, một con số cường điệu. Nhưng mà ta đã nghĩ về mẹ ta trong gần 70 năm trời vì thế có thể là có đến mười ngàn cách nghĩ khác nhau về bà, như thế chắc là bà đã được thay đổi hàng ngàn cách, với mỗi một lần ta nghĩ đến bà. Có lẽ vì thế mà kí ức của ta về bà không còn chính xác nữa.

Thật đáng buồn! Có lẽ điều đáng buồn nhất trên đời là khi con mất đi một người nào đó mà con yêu, mà người ấy lại luôn luôn thay đổi. Sau đó con sẽ tự hỏi phải chăng đó chính là người mà con mất? Có thể là con mất nhiều hơn hoặc ít hơn mười ngàn lần trong kí ức hay là trong trí tưởng tượng của con - con không còn biết cái gì thật cái gì giả nữa.

Nhưng có một số điều ta chắc chắn là biết rất rõ như đôi chân ta, tại sao nó lại như thế này. Hãy nhìn chân ta coi, chúng rất gầy, không có một thớ thịt nào ở bắp chân. Mẹ thường bế ta đi khắp nơi, ngay cả khi ta đã 6 tuổi, mẹ rất chiều ta, ta không bao giờ chịu bước đi một mình dù chỉ là 10 bước chân. Đấy không phải do ta ốm yếu, bệnh hoạn gì đâu. Ta bao giờ cũng muốn nhìn thấy thế giới này ở cùng với chiều cao của bà, cũng một cách nhìn của bà.

Ðó là lí do tại sao ta không nhớ nhiều về những ngày đầu ta sống trong một ngôi nhà sang trọng ở Thượng Hải. Ta không biết về ngôi nhà này, những người ở đó theo cái cách mà con sẽ biết nếu con là một đứa trẻ tự đi lại một mình khám phá hết góc này đến góc khác. Mỗi khi ta nhớ về những ngày thơ bé này ta chỉ nhớ căn phòng của mẹ con ta và một cái cầu thang dài đưa chúng ta xuống lối đi có những họa tiết nước trên sàn.

Trong kí ức của mình, ta vẫn có thể nhìn thấy cầu thang dốc đổ xuống hết tầng lầu này đến tầng lầu khác, mẹ ôm ta trong khi bà cúi người nhìn xuống các tầng dưới nơi có những người vợ khác của cha ta sống, mặc dù đó chỉ là ước đoán của ta thôi. Mẹ bảo ta phải tuyệt đối giữ yên lặng, không được cười hoặc hỏi han này nọ. Ta nín thở, cố gắng vâng lời mặc dù ta chỉ chực khóc òa lên, bảo với bà rằng ta sợ nhìn xuống cầu thang phía dưới lắm. Khi nghe thấy giọng những kẻ hầu người hạ mẹ lại đứng thẳng lên. Chúng ta cùng hít một hơi thật sâu, ta ôm bà thật chặt, thật may là ta đã không lộn nhào xuống. Mỗi khi ta nghĩ về cái cầu thang này ta lại nhớ căn phòng, sau đó nhớ về những cái khác nữa, nhiều, nhiều nữa cho đến ngày bà bỏ đi. Hoặc là cũng có thể tất cả kí ức của ta và trí tưởng tượng của ta về bà giờ đây tập trung vào một ngày.

*

Sau khi nhìn xuống cầu thang, chúng ta quay về phòng. Ðó là lúc sáng sớm, những thành viên trong gia đình vẫn còn ngon giấc. Ta không nhớ được tại sao chúng ta lại thức dậy, cũng không thể đoán được nữa. Nhìn vào màu mây trên trời có thể đoán là lúc đó vào khoảng một tiếng đồng hồ trước khi người đầy tớ gái phục vụ bữa điểm tâm cho mọi người.

Mẹ ta đang chơi một trò gì đó với những quân bài nhỏ màu đỏ và đen đang dàn ra trên một cái bảng. Mẹ nói đó là trò chơi ngoại quốc gọi là chếc cơ, “tù nhân và khóa tay”. Chỉ đến bây giờ khi nghĩ đến trò chơi chếc cơ ta mới nhận ra là bà chắc là đang chơi cờ đam. Bà di chuyển những quân cờ dọc ngang trên tấm bảng, giải thích rằng những màu khác nhau là những người đang đánh nhau dưới sự chỉ huy của các vị tướng khác nhau, cố gắng bắt sống kẻ khác. Nhưng khi bà bắt đầu giải thích nữa thì cái đầu non nót của ta trở nên đần độn. Tất nhiên, ta không nói rằng ta bối rối như thế nào, ngược lại ta than vãn rằng ta đang đói. Ta có thể làm điều đó với mẹ ta, mè nheo, đòi hỏi này nọ. Bà không bao giờ cứng rắn đối với ta, không như một số bà mẹ có thể quá nghiêm khắc với con cái. Bà có lẽ là tỏ ra khoan dung với ta hơn là ta đối với con. Đúng thế, con có thể hình dung được không? Nếu ta đòi một cái gì đó thì ta chắc chắn là sẽ có được nó, không hề nghĩ rằng mình phải làm một cái gì đó để đáp lại. Con thấy đấy, dù ta chỉ có mẹ trong một thời gian ngắn ngủi, ta đã học được điều đó ở bà, một sự tin tưởng thuần túy. Cái ngày đó, khi mà ta nói là ta đói bụng, ta đã biết là mẹ ta có một hộp bánh bích quy của Anh giấu ở trên nóc cái tủ áo cao cao của bà. Bà lấy cái hộp thiếc đó xuống. Loại bánh này mẹ ta rất thích, ta cũng thích như mẹ - nó không quá ngọt và không quá mềm. Mẹ ta có nhiều vật ưa thích, sản phẩm của nhiều nước khác nhau. Tất nhiên là bà thích bánh bích quy của Anh, cũng thích đồ trang trí nội thất nhẹ nhàng của họ nữa, thích xe hơi của Ý, găng tay, giày của Pháp, nhạc Ja của người Mỹ, đồng hồ Hamilton. Trái cây thì nhập khẩu từ nước nào cũng được.

Cha của ta sở hữu vài nhà máy dệt và một lần một người khách ngoại quốc tặng mẹ ta một lọ nước hoa Pháp. Bà mỉm cười, bảo rằng bà thật là hân hạnh được nhận một món quà từ một người khách hàng lớn và quan trọng như thế. Nếu con biết bà ngoại con, con sẽ biết ngay là bà không thích ông này theo cái cách bà gọi ông ta là “một khách hàng lớn và quan trọng.”

Lát sau bà cho ta ngửi mùi trong cái lọ. Bà nói nó có mùi nước đái và đó lí do ta cũng ngửi thấy như vậy. “Tại sao người ngoại quốc lại bỏ ra hàng bao nhiêu tiền để đổ thứ này lên người nhỉ?”, mẹ ta hỏi. “Tại sao không tắm rửa thường xuyên? Đúng là ngớ ngẩn.” Mẹ ta đổ hết nước hoa vào bô, đưa cho ta cái lọ pha lê tròn. Nó có một màu xanh thẳm. Khi ta giơ nó về phía cửa sổ, lắc lắc thì có không biết bao nhiêu là sắc màu nhảy múa trong phòng ta. Buổi sáng hôm ấy ta ăn bánh bích quy của Anh, chơi đùa với cái lọ pha lê của Pháp. Ta có thể nghe thấy những âm thanh của ban mai. Mẹ chính là người đã dạy ta cách lắng nghe. Mẹ bao giờ cũng nhỏng tai về phía có tiếng động, chỉ cho ta nhận biết tầm quan trọng của nó. Nếu nó là quan trọng bà tiếp tục lắng nghe, nếu không bà lại quay lại việc mình đang làm. Ta bắt chước bà điều đó.

Chúng ta cùng nghe thấy tiếng những người hầu gái đi lại ngoài hành lang mang những chiếc bô đi đổ, nhấc chúng lên với những tiếng càu nhàu nho nhỏ. Chúng ta nghe có ai đó kéo một cái thùng xuống cầu thang, tiếng một ai đó thì thầm nghe rõ mồn một. “Chuyện gì thế, đầu óc mày để đi đâu vậy?” Bên ngoài một xô nước lớn hắt ra ngoài cửa sổ cao, tất cả nước đổ ào xuống sân sau - ái chà - âm thanh của nó nghe như là dầu sôi vậy. Một lúc sau chúng ta cũng nghe thấy tiếng ting ting nho nhỏ của những đôi đũa ngà va vào những chiếc bát sứ, một thông báo rằng những người ở gái đang mang bữa điểm tâm đến các phòng.

Đó là những âm thanh thường nhật, chúng vang lên vào mỗi buổi sáng. Nhưng buổi sáng hôm ấy mẹ ta dường như để ý đến tất cả những điều nhỏ nhặt bình thường này. Tai mẹ dỏng lên, tai ta cũng vậy. Cho đến nay điều này vẫn là một thắc mắc trong đầu ta - có phải bà nghe những điều bà muốn nghe, bà có thất vọng không hay là cảm thấy nhẹ nhõm khi lắng nghe những điều này.

Trước khi ta ăn sáng xong, mẹ ta đã nhanh chóng rời khỏi phòng. Bà ra ngoài một lúc lâu hoặc giả chỉ một vài phút thôi. Con cũng biết bọn trẻ con như thế nào rồi đấy, dù là một tiếng hay một giây thì chúng cũng trở nên mất kiên nhẫn. Con cũng thế mà.

Khi ta không thể chờ lâu hơn được nữa, ta mở cửa nhìn ra ngoài, sau đó nhìn về cuối phòng lớn. Ta thấy mẹ và cha ta đang đứng ở đấy to tiếng với nhau. “Chuyện này không liên quan gì đến cô,” cha ta nói một cách nghiêm khắc. “Đừng có nhắc đến nữa.”

“Một khi miệng tôi đã mở ra,” mẹ ta hấp tấp nói, “thì lời lẽ cứ việc tuôn ra thôi.” Ðó là lần đầu tiên ta thấy họ cãi lộn. Mẹ không giống như những người vợ khác của cha ta, những người có chung một cung cách giả tạo làm như họ bao giờ cũng sung sướng mãn nguyện hơn những người kia, như thể họ ở trong một cuộc thi đua giành một cái gì to tát lắm.

Bản chất của mẹ ta rất trung thực. Bà có thể rất dịu dàng, tất nhiên thế rồi, nhưng bà cũng rất bộc trực, thẳng thắn. Ai cũng nói đó là thiếu sót của bà. Khi bà nổi nóng lên thì bà sẽ để cơn giận nổ tung ra, sau đó là những rắc rối sẽ kéo đến.

Vì thế buổi sáng hôm ấy khi ta nghe thấy cha mẹ ta lời qua tiếng lại ta sợ lắm, cả hai người không ai la hét cả nhưng cả hai đều rất nóng nảy, ta có thể nói như thế. Giọng gay gắt của cha ta làm ta muốn chạy trốn vào trong phòng, đóng cửa lại. Trong khi đó thì giọng mẹ ta – thật khó mà miêu tả được một âm thanh mà một đứa bé gái có thể cảm nhận được - ta chỉ có thể nói là nó vang lên rất dữ dội, nghe như tiếng vải tốt bị xé toạc thật mạnh tay, không bao giờ có thể vá lại được.

Cha ta quay lưng đi. Lúc đó ta nghe thấy mẹ ta nói, “Bà Hai Phẩy” như thể cái tiếng đó là một câu chửi. Cha ta không quay lại, “Cô sẽ không bao giờ thay đổi được điều này.” Đó là tất cả những gì mà ông nói. “Ông nghĩ tôi không thể thay đổi được điều đó ư?” mẹ ta nói với theo, khi cha ta đã bỏ đi.

Lúc đó ta cũng không hiểu nghĩa của những từ này, “Bà Hai Phẩy”, ta chỉ biết nó rất xấu, cái tên tồi tệ nhất mà người ta gọi mẹ ta, cái tên bao giờ cũng buộc mẹ ta bỏ ra hàng giờ ngồi trước gương buộc tội cái bóng đang nhìn chăm chăm vào bà.

Cuối cùng mẹ ta quay lại, khoác lên mặt một nụ cười lạ lùng mà ta chưa nhìn thấy bao giờ. Mẹ nhìn ta. “Vẫn đói lắm”, ta lập túc than vãn với một giọng nhõng nhẽo.

“Vào đi, vào đi,” bà nói giọng nhẹ nhàng. Lúc ấy nụ cười của mẹ trở lại đúng là nụ cười quen thuộc đối với ta mặc dù ta thắc mắc, làm sao bà vẫn cười được khi bà đang giận dữ như vậy?

Quay vào phòng, bà bảo ta mặc quần áo vào. “Bộ nào đẹp nhất ấy,” bà nói. “Chúng ta sẽ đi chơi”.

“Ai nữa ạ?”

“Chỉ hai mẹ con ta thôi,” bà nói. Điều này cũng bất thường nữa. Nhưng ta không hỏi han chi cả. Ta lấy làm vui sướng cho cái dịp hiếm hoi này. Bà mất một lúc lâu - chuẩn bị. Ta chỉ quan sát. Ta thích ngắm nhìn mẹ ta mặc quần áo. Bà mặc vào người chiếc áo đầm, ngắm nghía trong gương, rồi lại cởi ra, mặc một tấm áo dài Trung Hoa, rồi cau mày, cuối cùng sau khi đã thử nhiều chiếc áo khác nhau, bà lại mặc chiếc áo đầm đầu tiên, một chiếc áo màu xanh ngọc có ống tay áo ngắn, chân váy dài với những nếp gấp mềm mại rủ đến tận mắt cá.

Ta đợi cho đến khi mẹ bồng ta lên, cuối cùng chúng ta sẽ lên đường.

Nhưng trái lại, bà vỗ vào đầu ta. “Tâm can,” bà nói “Con đã lớn rồi.” Bà luôn gọi ta là Tâm can, từ này có nghĩa là “ruột gan”, một bộ phận của cơ thể trông giống một trái tim nhỏ. Trong tiếng Anh, con gọi nó là mề nghe chẳng có gì là hay ho. Nhưng trong tiếng Hoa Tâm can nghe rất hay, là từ mà các bà mẹ thường gọi những đứa con bé bỏng mà họ yêu hết lòng, yêu nhiều lắm lắm ấy. Ta cũng thường gọi con như vậy. Con có biết không?

“Tâm can”, mẹ ta nói, “hôm nay mẹ sẽ dạy con những bí mật quan trọng. Nhưng trước hết con phải học bước đi một mình.” Trước khi ta có thể kêu khóc hoặc than vãn bà đã bước đi trước ta, miệng nói “đi nào, đi nào” như thể có nhiều niềm vui đang chờ đợi ở phía trước. Ta chạy theo sau, rồi chúng ta ra khỏi cổng trước, ngồi vào một chiếc xe lôi kiểu mới lao vùn vụt trên khắp phố phường nhanh hơn xe tay cũ nhiều.

Mới là đầu mùa hè, vì thế không khí buổi sáng vẫn còn vương chút hơi lạnh mặc dù vào buổi chiều thì nóng đổ mồ hôi hột ra. Trong khi chúng ta đi xa ra khỏi nhà ta nghe thấy những âm thanh khác nhau: tiếng rao của những người bán hàng rong, tiếng động cơ xe, tiếng còi ôtô và nhiều những âm thanh ồn ào khác – tiếng đổ ầm ầm của những ngôi nhà cũ đang bị phá đi, âm thanh của những ngôi nhà đang mọc lên. Nghe những âm thanh này ta vui sướng xiết bao! Mẹ ta dường như cũng rất vui. Bà trở thành con người khác, cười nói, trêu chọc, chỉ trỏ, kêu lên với giọng hân hoan như một người bình thường.

“Tâm Can, nhìn này!” qua cửa sổ của một cửa hàng chúng ta nhìn thấy tràn ngập những đôi bao tay bằng da dê thuộc dành cho phụ nữ. Chúng ta bước ra khỏi xe, dán mũi vào cửa sổ. “Có bao nhiêu là cánh tay khẳng khiu giơ lên cho khách hàng,” mẹ ta nói. Ta vẫy tay lên như những con rắn, cả hai mẹ con ta cười vang. Rồi chúng ta quay lại xe.

“Mẹ nhìn kìa!” Ta kêu lên một phút sau đó. Ta chỉ vào một người đàn ông đang thổi một đống bột đậu đặc sệt dài thòng vào một cái nồi nước sôi. Ta rất tự hào vì đã phát hiện ra một điều thú vị chỉ cho mẹ ta coi. “Ông ta giống như một con cá,” ta reo lên. “Con cá trong một vòi phun!” ta đứng hẳn lên trên xe. Bột cuộn lại thành những sợi mềm nhão. “Ông ta dùng mồm như một dụng cụ nấu nướng,” mẹ ta giải thích.

Trong ngày ấy chúng ta chứng kiến rất nhiều cảnh thú vị. Dường như mẹ muốn ta mở to mắt, dỏng tai lên, ghi nhớ tất cả mọi thứ. Hoặc có thể là trí tưởng tượng của ta đã khiến ta nghĩ như vậy. Có thể là bà cũng chẳng có ý định ấy. Có thể là chúng ta chẳng hề chứng kiến những cái cảnh mà ta đã miêu tả. Có thể chúng ta cũng chẳng đi đến những chỗ mà ta vẫn còn nhớ ấy. Làm sao chúng ta có thể làm ngần ấy việc trong vòng một ngày. Nhưng đó là điều mà ta nhớ, thậm chí còn nhiều hơn nữa.

Cũng ngày hôm ấy, chúng ta cũng đi đến tất cả những nơi có những thứ tuyệt nhất có thể tìm được trên đời. Đến đường Chiết Giang nơi mẹ nói là người ta đóng những đôi giày da đẹp nhất theo kiểu Pháp, nhưng bà chẳng mua đôi nào. Đến Thành Hoàng Miếu bà nói là người ta bán loại phấn đẹp nhất làm từ ngọc trai nghiền, bà bôi một ít lên mặt ta, nhưng bà cũng chẳng mua gì hết. Đến đường Bubbling Well nơi bà mua cho ta loại kem ngon nhất của Mỹ nhưng bà chẳng ăn gì, bảo ta rằng nó hổ lốn và ngọt quá. Đến Phúc Châu nơi bà bảo ta có thể mua bất cứ loại sách báo nào của Trung Quốc cũng như của các nước khác. Ở đây bà mua một cái gì đó, một tờ báo, mặc dù lúc ấy ta cũng chẳng biết nó là cái gì, bởi vì ta đã biết đọc đâu.

Sau đó chúng ta đến Little East Gate, nơi có những tiệm ăn hải sản ngon nhất. Bà nói rằng bà đang tìm một món cao lương mĩ vị mà bà đã không được nếm trong nhiều năm qua. Ðó là một loại cá nhỏ rất hiếm gọi là Wah-wah-yu vì nó kêu như một đứa trẻ khóc oa - oa, nó có thể quẫy vây và đuôi của nó. Khi chúng ta tìm ra con cá này ta nghe nó kêu rõ to, ta nhìn thấy nó vẫy đuôi và vây y hệt như mẹ ta nói.

“Ngày xưa ta thích ăn thịt con cá này lắm,” bà nói. “Thịt nó mới ngon, ngọt làm sao. Đến cả cái vây của nó cũng ngọt, mềm như lá non vậy. Nhưng bây giờ thật là buồn khi ăn một sinh vật như vậy. Mẹ chẳng có lòng nào muốn ăn thịt nó nữa.” Ta chú tâm vào tất cả những nơi, những sự vật mẹ con ta khám phá. Ta nhớ cái ý nghĩ này, nó thật quan trọng. Hãy lắng nghe thật cẩn thận, có bao nhiêu là khao khát được ghi nhớ, bao nhiêu nơi chốn phải tìm tòi. Ta nghĩ mẹ ta muốn dạy cho ta một điều bí mật - rằng hạnh phúc của ta tùy thuộc vào việc ta tìm cho ra, ngay lập tức, câu trả lời cho mỗi một ước vọng.

Buổi chiều hôm đó chúng ta đi đến một rạp chiếu bóng. Bên ngoài trời rất nắng, mặt trời rừng rực đổ lửa xuống trần, cả người ta mồ hôi mồ kê dính nhem nhép. Vì thế mà ta vô cùng vui thích được đi vào trong rạp chiếu bóng tối om. Tất nhiên ta đã nhầm khi nghĩ rằng trong rạp ắt mát hơn. Lần cuối cùng ta vào đây là vào mùa đông hay mùa xuân gì đó. Nhưng hôm ấy, ở ngoài thì nóng như ở phòng xông hơi, còn bên trong rạp hát thì nóng hầm hập như trong bếp lò. Người ta đã chiếu phim khi chúng ta bước vào rạp, phim kể về một cô gái nhỏ tóc vàng. Một ai đó đánh đàn piano, âm thanh lớn, chát chúa.

“Con chẳng nhìn thấy gì cả, chẳng thấy gì hết,” ta kêu lên với mẹ, sợ rằng sẽ bước hụt. “Chờ một chút” mẹ ta đáp. Lúc sau mắt ta đã quen với bóng tối, ta có thể nhìn người ngồi thành từng dãy, ai cũng phe phẩy một cái quạt giấy. Mẹ ta đếm các hàng ghế “...6, 7, 8,”, ta không ngạc nhiên vì sao mẹ ta làm thế, tìm hàng ghế thứ 8 từ đằng sau. Ta chỉ để tâm đến những câu đếm của mẹ vì ta cũng đang học đếm, sau đó thì chúng ta đứng bên hàng ghế số 8, tìm đường đi vào ghế ở giữa cho đến khi mẹ ta đi đến một cái ghế trống. Bà thì thầm với người ngồi ở bên cạnh. Lúc đó ta nghĩ bà đang nói câu xin lỗi. Chỉ mãi đến sau này ta mới đi đến chỗ nghĩ ra bà nói một cái gì khác.

Ta đã xem nhiều hình chuyển động trước đây với mẹ - đó là những bức hình câm, Charlie Chaplin, người đàn ông béo ú, cảnh sát và những người chữa cháy, những chàng cao bồi cưỡi ngựa vòng vòng. Chiều hôm đó bộ phim nói về một cô bé mồ côi bán diêm trong khi trời đổ tuyết, cô bé run rẩy. Người đàn bà ngồi trước mặt ta khóc thành tiếng, khịt mũi ầm ĩ, nhưng ta nghĩ cô bé này thật may mắn được cóng lạnh trong một ngày nóng nực như thế này. Ðó là điều ta nghĩ trước khi ngủ thiếp đi trong rạp hát tối om. Khi ta tỉnh dậy đèn đã được bật lên, mẹ ta đang nghiêng đầu về phía người đàn ông bên cạnh thì thầm với ông ta bằng một giọng nghiêm trọng. Ta giật mình cảnh giác. Có vẻ như rất nguy hiểm, cái việc mẹ ta đang làm, nói chuyện với một người lạ. Thế là ta nhỏm dậy, kéo mẹ về phía ta. Người đàn ông nhìn lên, mỉm cười với ta. Ông ta còn trẻ và trông rất thanh lịch. Da ông mịn màng, trắng trẻo không như gương mặt của một người phải làm việc ngoài trời cả ngày. Dù vậy ông mặc một chiếc áo khoác nông dân tầm thường, màu xanh nhưng có vẻ rất sạch. Mẹ ta cảm ơn ông, chúng ta đứng dậy ra về.

Trên xe trở về nhà, ta lại ngủ gật nữa, tất cả những kích động cũng ngủ lịm. Ta chỉ thức dậy một lần - giật bắn người khi nghe người kéo xe chửi một cái xe đi chậm ở phía trước. Mặt ta tựa vào mái tóc của mẹ. Ta phát hiện mình đang chiêm ngưỡng mái tóc của bà. Nó mới khác với màu tóc của ta, của những người phụ nữ khác trong gia đình hay bất cứ ai khác mà ta từng gặp làm sao. Không phải là màu đen nâu hay màu nâu đen nhé. Không có một sắc đen nào có thể dùng để đặt tên cho nó.

Tóc mẹ ta có một cái màu mà con chỉ có thể cảm nhận được hơn là đặt cho nó một cái tên - đen tuyền, một cái màu đen bóng như là nước ở dưới đáy một cái giếng sâu. Gió lùa vào búi tóc của bà thổi tung mái tóc làm ánh nó lên trông giống như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ khi có một hòn đá nhỏ ném xuống. Thực ra, những lời này cũng chưa đủ để miêu tả mái tóc mẹ.

Ta chỉ nhớ một vài chuyện xảy ra vào buổi tối. Ta đã quá mệt sau một ngày như vậy. Chúng ta ăn bữa tối đơn giản trong phòng sau đó mẹ dạy ta những mẫu thêu mà bà tự chế ra. Ta làm theo bà, chẳng ra gì cả, nhưng mẹ không chê bai ta, không một lần nào. Mẹ khen ngợi những gì ta đã làm. Sau đó mẹ giúp ta cởi quần áo đi ngủ, mẹ lại dạy ta đếm ngón tay, ngón chân. “Hơn nữa, con sẽ biết có phải con thức dậy vào mỗi buổi sáng với cùng một con số hay không?” bà nói, “6,7,8,9,10” Con xem mẹ ta thông thái, học thức như thế nào? Bà luôn tìm ra lý do tại sao ta phải học. Một lần bà bảo ta bà đã từng mong muốn trở thành cô giáo như người truyền giáo đã dạy bà.

Sau đó thì bà ngồi lên chiếc ghế đẩu trước tủ gương, ta ngắm nhìn bà cởi bỏ quần áo, đồ nữ trang. Bà tháo cái kiềng vàng, bông tai ngọc bích ra. Bà trông thấy ta đang ngắm nhìn bà qua chiếc gương soi. Bà quay lại, giơ những chiếc bông tai lên.

“Một ngày nào đó nó sẽ là của con,” bà nói giọng rầu rầu. Ta gật đầu.

“Tất cả những món này,” bà đập vào hộp nữ trang. Ta gật đầu cái nữa.

“Khi con đeo tất cả những thứ này vào người, người ta sẽ nghĩ lời nói của con có trọng lượng hơn.” Ta lại gật thêm một lần nữa.

“Nhưng con đừng bao giờ nghĩ như thế nghe con, đừng bao giờ.” Bà nói và ta gật ngay lập tức.

Rồi hai mẹ con ta lên giường đi ngủ, bà nằm vuốt tóc ta. Ta ngước mắt lên nhìn khuôn mặt bà, còn bà thì hát cho ta nghe một bài hát ngắn về một con chuột láu ăn cắp dầu thắp đèn. Con nhớ không? Mẹ thường hát cho con nghe bài này. Còn đêm ấy trước khi nghe hết bài hát ta đã ngủ thiếp đi. Ta mơ về tất cả những thứ mà ta dã chứng kiến ban ngày. Một con cá kêu la, hát một bài về con chuột nhắt. Cô bé tóc vàng thử đôi giày đẹp đẽ của Pháp, còn mái tóc của mẹ ta, khi luồn những ngón tay qua đó ta khám phá ra đó không phải là tóc mà là vải thêu, đồ trang sức. Mẹ ta, ngồi trước bàn trang điểm chải mái tóc dài, khóc lên với bóng của mình trong gương, “Bà Hai Phẩy! Bà Hai Phẩy!”. Dù vậy đó chưa phải là đoạn cuối trong giấc mơ của ta.

Sáng hôm sau thức dậy ta không thấy bà ở trong phòng nữa. Ta nghĩ bà đã lặng lẽ ra khỏi giường đi ra cầu thang như là chúng ta đã làm ngày hôm trước. Ta mở cửa nhìn ra. Ta chỉ nhìn thấy những người hầu kẻ hạ mang những chiếc bô đi đổ. Ta trở lại phòng ngồi đợi mẹ quay về. Sau đó ting, ting, ting - một người giúp việc đi đến với hai tô súp đậu tương bốc khói nghi ngút. Con biết món này đấy, một món súp sữa đậu nành có vị mặn mà chúng ta ăn ở Fountain Court vào dịp cuối tuần. Lần trước Cleo ăn một tô bự một mình mà không làm đổ ra ngoài. Tuy vậy, sáng hôm ấy ta chẳng muốn ăn món này. “Mẹ, mẹ ở đâu?” ta hỏi, người ở gái không trả lời ta, chỉ nhìn quanh phòng bối rối. Cô ta đặt cả hai cái tô xuống bàn. “Ăn nhanh lên. Đừng để nguội,” cô ta cau có, rời khỏi phòng ngay lập tức. Ta để cho tô súp nguội. Ta cứ đợi, khi ta không thể đợi lâu hơn nữa thì ta bắt đầu khóc nhưng chỉ chút xíu thôi. Có một cảm giác đau đau trong họng ta, ta lại ngồi đợi mẹ về để giải phóng cho ta cái cảm giác đau rát kia. Ta quyết định là khi bà quay về ta sẽ chỉ cho bà xem tô súp đã nguội như thế nào. Ta sẽ đòi mẹ cho ta bánh quy của Anh ít nhất thì cũng phải ba cái để cho ta hết giận. Ta đợi thêm một lúc nữa. Ta vầy tô súp, làm cho nó thành món cám heo. Ta đứng lên một cái ghế để lấy hộp bánh quy bằng thiếc xuống mà mẹ vẫn chưa chịu về cho.

Người đầy tớ quay lại mang những tô súp đi. Cô ta nhìn vào cái chất sền sệt trong cái tô, nhìn quanh phòng, nói, “Nhìn xem cô làm cái gì này!” cô ta la lối rồi vội vã ra khỏi phòng. Ngay khi cô ta đóng cửa lại thì ta lại mở ra ngay. Ta nhìn người đầy tớ báo cáo lại với người quản gia. Cả hai lao xuống cầu thang còn ta chạy lên để nhìn họ đi xuống. Sau đó ta nghe giọng nói ồn ào dưới cầu thang, nhiều người đi ra, các cánh cửa mở ra, đóng vào. Ta có thể nhìn thấy nãi nãi từ từ đi xuống cầu thang trong khi người đầy tớ nói liến thoắng với bà. Nãi nãi không phải là một bà nội thông thường, người thường vỗ về lên đầu cháu nhỏ và bảo rằng nó rất dễ thương. Nãi nãi là người chủ tối cao của đám đàn bà con gái trong nhà, còn ta là đứa con gái nhỏ nhất mà cụ chỉ nhận ra khi bà muốn rầy la. Ta chạy vào trong phòng, ngồi trên giường, sợ hãi. Có chuyện rắc rối đây, ta biết rõ như thế.

Ta khóc òa lên khi họ bước vào phòng. “Mẹ mày đâu?” Nãi nãi hỏi hết câu này đến câu khác, “Mẹ mày đi lúc nào? Có mang gì đi không? Có ai đến đưa mẹ mày đi không?”

Một đứa con gái mới 6 tuổi ngu ngơ chẳng biết gì liệu có thể nói lên được điều gì? Ta chỉ lắc đầu thổn thức. “Mẹ không đi đâu hết. Mẹ vẫn ở đây, ở ngay đây.”

Bỗng một ai đó lao vào phòng. Ta không nhớ được đó là ai, bởi vì ta chỉ nhìn cái mà bà ta cầm trên tay, đó là mái tóc của mẹ đã bị xén ngang bây giờ buông xuống như một cái đuôi ngựa. Tất nhiên ta hét lên, có cái cảm giác như nhìn thấy thủ cấp của mẹ ta vậy. Kinh khủng làm sao!

Từ đây kí ức của ta trở nên hết sức lộn xộn. Ta chỉ nhớ là ai cũng lo sợ, thì thào một cách bí mật, cha ta vô cùng giận dữ. Ông vào trong phòng mẹ ta, mở ngăn kéo ra, quần áo và hộp trang sức vẫn nguyên. Ông ngồi xuống lặng lẽ. Ông nhìn ta một cách dữ dằn như thể đó là lỗi của ta.

“Mẹ mày đi đâu?” ông nói. Ta cố gắng tỏ ra ngoan ngoãn. Ta cố đưa ra những phán đoán ngô nghê. Ta nói đường Chiết Giang. Ta nói có thể là Hoàng Thành Miếu. Ta nhắc đến tiệm bán đồ biển ở Little East Gate. Ta nói bà ở rạp chiếu bóng.

Trong vòng ba ngày ta không rời khỏi phòng. Ta ngồi ở đấy chờ mẹ, không ai bảo ta phải ngồi chờ ở đấy cả. Nhưng cũng chẳng có ai đến với ta. Người đầy tớ mang thức ăn đến cho ta cũng chẳng hề nói gì mà ta cũng không hỏi han chi hết.

Ngày thứ 4 ta tự xuống cầu thang một mình. Như ta đã nói với con, mẹ bao giờ cũng bế ta đi khắp nơi. Vì thế đôi chân ta chưa bao giờ mạnh mẽ. Ngày ấy nó rất yếu ớt. Nhưng cũng có thể là do ta sợ một cái gì ta có thể nhìn thấy ở dưới nhà.

Ðể ta nói cho con nghe, điều ta nhìn thấy còn tệ hơn là điều ta tưởng tượng ra. Ta nhìn thấy những lá cờ tang treo ngoài cửa, ta hiểu điều đó có nghĩa gì mà không cần hỏi han thêm. Tuy vậy ta không tin vào điều đó. Thế là ta đi đến chỗ cô gái vẫn giặt giũ cho chúng ta, hỏi là ai chết. Cô ta nói, “Sao mà cô chủ có thể hỏi câu đó nhỉ!” Ta đi đến chỗ thím Lớn, người mới tới hôm đó, bà nói, “Đừng có nói gì với bất cứ ai.”

Có thể là một tuần sau hay chưa đến một tuần ta được gửi đến sống với em trai của cha ta cùng hai bà vợ của chú, thím Lớn và thím Nhỏ. Hòn đảo này cách Thượng Hải hai giờ đi canô ngược lên Sông Hoàng Phố. Đó cũng là quê nội của ta. Trên bản đồ, có thể nó chỉ là một chấm nhỏ nổi lên trên mặt nước chẳng nối với đâu cả và dễ dàng bị bỏ qua.

Tuy vậy vào cái lúc mà ta đi đến đảo ta quá mệt mỏi buồn nôn vì chuyến tàu, vì nỗi thống khổ của ta. Ta gào khóc thật to, thật thống thiết, chẳng để ý đến lời dọa của thím Lớn rằng thím sẽ tát cho mặt ta chẻ ra làm đôi. Ta hét lên, “Con muốn mẹ con! Con muốn ở với mẹ con! Bảo với mẹ con ở đây mẹ sẽ tới đón con.”

Đây là điều thím Lớn nói với ta, “Suỵt! Ðây là nơi chôn mẹ mày, trên hòn đảo này.”

Nếu hôm nay con hỏi ta điều gì đã thật sự xảy ra với mẹ, ta không thể nói với con một cách chính xác được, chỉ là những điều mà người ta nói với ta thôi. Điều này có thể không đúng, có thể chỉ là những chuyện ngồi lê đôi mách thôi.

Dù vậy ta biết một điều: mẹ ta đã gây ra một nỗi ô nhục lớn. Ðó là lí do tại sao họ nói bà đã chết và ra sức dập tắt vụ xì căn đan này. Ðó là lý do tại sao không một ai dám nói về mẹ ta với cha ta. Đó là lí do họ đẩy ta đi cho khuất mắt; để ta không làm cho cha ta nhớ đến bà. Nhưng dù vậy họ đã xầm xì rất nhiều về bà. Tất cả bọn họ - thím Lớn, thím Nhỏ, chú ta và bạn của họ - khi uống trà, khi ăn uống, sau giấc ngủ trưa. Trong nhiều năm mẹ ta là đầu đề của rất nhiều chuyện xấu xa, tức cười, những bí mật ghê tởm và những chuyện tình lãng mạn. Cũng giống như quật mộ bà lên, sau đó lại ném xuống, bao giờ cũng tấp bao nhiêu điều bẩn thỉu lên nắp quan tài. Con có thể hình dung một đứa bé gái có cảm giác như thế nào khi nghe người ta kháo chuyện như thế về mẹ nó không?

Ta nghe những điều họ nói. Ta cảm thấy hết sức khổ sở. Nhưng tuy vậy ta không thể buộc mình không nghe những điều đó. Ta muốn biết tại sao mẹ lại bỏ ta đi không một lời giải thích.

Như thể mẹ ta trở thành một câu đố, mà mỗi một mẩu chuyện xáo xào về bà lại làm nảy lên trong ta một câu hỏi. Nếu bà chết, sao họ làm đám ma? Ðôi khi ta cố chắp nối tất cả những mẩu đàm tiếu mà ta đã nghe được thành một câu chuyện thống nhất. Nhưng chuyện này mâu thuẫn với điều kia cho đến khi chẳng có phần nào có nghĩa cả. Sau đó thì ta nhìn lại những điều mà ta biết về bà cả điều tốt lẫn điều xấu. Ta cố nghĩ về tất cả những lý do khiến đời bà diễn ra theo cách này mà không theo cách khác. Ðây là điều mà ta nghĩ đã đưa mẹ ta đến làm người vợ thứ hai của cha ta, sau đó khiến bà tuyệt tích giang hồ.

Mẹ của ta không như những người phụ nữ Trung Hoa mà người Mỹ các con thường hình dung, cái loại người đi không vững với đôi chân bó nhỏ xíu, đắn đo từng lời một cách tao nhã như họ chọn từng bước đi. Mẹ ta là một cô gái tân thời. Nhiều cô gái ở Thượng Hải như thế. Họ không phải là “tiểu thư khuê các”, không có cái gì như thế cả. Khi mẹ ta lên 8, bà đã thôi không bó chân nữa, chân mẹ ta to gần như không bó và một vài người nói đó là lí do tại sao bà chạy rất nhanh.

Bà sinh ra trong một gia đình danh giá, khoa bảng ở Thượng Hải, đứa con duy nhất của một người cha quê ở Ninh Ba và một người mẹ ở Tô Châu. Tô Châu là một thành phố, phụ nữ ở đó có giọng nói mượt mà và du dương; ngay cả một người Thượng Hải cũng sẽ bảo với con rằng giọng nói người Tô Châu là hay nhất. Con người Ninh Ba thì buôn bán rất giỏi, họ vẫn hăng hái cãi nhau tiếp, cả khi cuộc mặc cả đã ngã ngũ. Vì thế con thấy đấy, mẹ ta ra đời với hai tính cách đánh lộn nhau bên trong tâm hồn bà.

Ta nghĩ mẹ ta chắc là có một vẻ đẹp hoàn hảo đến mức cổ điển, cái đẹp những người con gái khác sẽ tìm thấy trong một câu chuyện cổ và phải rớt nước mắt vì nó, ao ước rằng họ đang đọc về chính mình. Một lần nữa mẹ đã đọc cho ta nghe một câu chuyện như thế về một cô gái đẹp nhưng hết sức lẻ loi. Một hôm cô ta soi mình xuống ao và nghĩ rằng cuối cùng cô đã tìm thấy một người bạn, một người không ghen tị với cô. Cô không biết là cái khuôn mặt đang lay động mỉm cười lại với cô chính là cái bóng của mình. Cuối câu chuyện mẹ ta thốt lên, “Ngớ ngẩn! Cô gái này không biết đó chính là bóng phản chiếu của mình!”

Dù sao thì mẹ ta cũng không bao giờ soi bóng mình xuống ao, bà soi gương. Ðêm nào bà cũng làm thế. Vì thế nếu trung thực ta sẽ nói rằng mẹ ta tự hào về nhan sắc của mình, có thể là kiêu hãnh nữa nhưng mà đôi chút thôi.

Tất nhiên bà có lí do để tự hào. Da của bà có màu trắng của ngọc ngà. Hoặc là có cái màu phớt trên những trái đào mùa hè. Hoặc có thể là ta chỉ nhớ về mẹ ta như là ta biết được từ những câu chuyện cổ tích, tất cả những khắc họa về những nhân vật nữ có giọng nói ngân nga tuyệt vời như tiếng sáo, làn da trắng như ngọc như ngà và về xuân sắc trường tồn như những dòng sông êm ả. Cớ làm sao mà những chuyện này luôn miêu tả người phụ nữ như vậy, làm cho chúng ta tin rằng chỉ có như thế mới được gọi là đẹp? Có thể là mẹ ta chẳng đẹp chút nào và ta chỉ muốn tin là như vậy thôi. Nhưng nếu vậy, ta nghĩ, cớ làm sao cha ta lại cưới mẹ ta? Cha ta là một ông lớn. Ông có thể có trong tay bất cứ loại phụ nữ nào - thật sự là ông đã có như vậy. Hẳn là chẳng có lí đo nào khác để cưới thêm người thứ 2, thứ 3, thứ 4 trừ phi dùng sắc đẹp của người phụ nữ tô điểm thêm danh giá cho người đàn ông. Vì thế ta nghĩ mẹ ta hẳn là rất đẹp. Không phải là do những câu chuyện cổ viết tồi làm cho ta nghĩ thế. Có một vài lí do đấy.

Bà rất khéo léo, khôn ngoan và thông minh nữa. Ta có lần đề cập rằng bà là người có học. Bà đã theo học trường truyền giáo ở Thượng Hải, trường đầu tiên ở Trung Hoa cho phép phụ nữ được vào học. Đó là bởi vì cha bà, ông ngoại của ta là người học vấn cao, một viên chức chính quyền, giống như là bộ trưởng phụ trách cải cách những chính sách làm ăn với nước ngoài, một cái gì đại loại quan trọng như vậy. Dù sao thì nhiều người trong giới chức thời ấy cho con gái đi học. Đó là một tư tưởng tiến bộ - có con trai con gái đi học là một điều chứng minh con không có đầu óc cổ hủ. Nhưng ông ngoại của ta không muốn gửi con gái sang Pháp, Anh hay Mỹ, điều mà nhiều gia đình đã làm chỉ để chứng minh là họ giàu như thế nào. Tất cả những cô gái này trở về quê hương với những mái tóc ngắn ngủn, những khuôn mặt đen thui vì chơi tennit ngoài trời. Cớ gì mà ông lại cho con gái mình ăn học để trở thành cái loại tân tiến mà ông không ưa? Thế là vào năm 1897, trường truyền giáo đầu tiên mở ra ở Thượng Hải, ông ngoại cho mẹ ta đi học ở đây.

Ta nghe nói rằng mẹ ta học tiếng Anh ở đây mặc dù ta chưa hề nghe mẹ ta nói một từ tiếng Anh nào ngoài từ “bánh bích quy”. Thím Nhỏ, người học cùng trường với mẹ ta nói rằng mẹ ta không phải là một học sinh giỏi, không giỏi chút nào, có lẽ vì thế mà ta mới cứng đầu như thế. Mẹ ta rất quậy phá, có lẽ vì thế mà ta mới ngang bướng.

Thím Nhỏ kể lại rằng một lần trong một buổi cầu nguyện ở trường, một bà xơ già đánh rắm một cái rõ to – xui xẻo thôi, tất nhiên rồi – và mẹ của ta bật cười như điên rồi nói, “Có chúa chứng giám.”

Ta không biết tại sao các xơ lại thương mẹ mày đến thế. “Chúng ta sẽ hết lòng cầu nguyện cho con. Nếu con trở thành một con chiên của Chúa con có thể đến nước thiên đàng sau khi con chết.” “Mẹ mày, thật hết chỗ nói, đã trả lời là, “Khi chết con không muốn sống trong thiên đường uy quyền của người nước ngoài.” Mày có biết những bà xơ này nói gì không, họ chỉ cười - thế thôi.”

Thím Nhỏ rất ghen tị với mẹ ta. Bà thường nói “Ta chẳng bao giờ xấu như mẹ mày. Vậy thì tại sao các bà xơ không chăm chút cầu nguyện cho ta?”

Thím Lớn trái lại không đi học ở trường ấy, cũng không học ở một trường nào cả. Bà lớn lên trong một gia đình phong kiến, sống theo lối cũ. Đôi mắt của người con gái không phải dùng để đọc sách báo mà chỉ để thêu thùa. Đôi tai của người con gái không phải để nghe tư tưởng này nọ mà chỉ để nghe mệnh lệnh. Đôi môi người con gái phải nhỏ xíu, ít khi được sử dụng đến trừ khi để diễn đạt sự hàm ơn hoặc là yêu cầu được chấp thuận. Tất nhiên tất cả những tư tưởng phong kiến cổ hủ này chỉ làm cho thím Lớn thêm ngoan cố trước mọi chuyện trên đời. “Chính học vấn của chị ấy đã gây nên mọi chuyện,” thím Lớn lúc nào cũng nói như vậy. “Người ta đã thổi những tư tưởng phương Tây vào đầu óc của một người Trung Hoa để xúi giục kích động mọi chuyện. Cũng giống như ăn đồ ăn Tây ấy - làm rối loạn tiêu hóa, rối loạn đầu óc. Những người truyền giáo phương Tây đảo ngược mọi trật tự trên đời. Khổng tử là xấu, Chúa Jesus là tốt. Con gái sinh ra chỉ để lấy chồng. Họ dạy những điều đó để làm gì chứ? Chỉ làm lộn tùng phèo mọi suy nghĩ - đó là cái đã đưa chị ấy đến chỗ bất hạnh.” Sau đó thì thím Lớn cảnh báo ta “Vi Vi, đừng có theo sát thầy cô giáo. Hãy nhìn gương mẹ mày ấy.”

Nếu con hỏi ta chuyện gì đã xảy ra cho bà, ta có thể nói đó không phải là học vấn kém cỏi mà là số phận tệ bạc. Học vấn của mẹ ta chỉ làm cho bà có những ý nghĩ bất hạnh dù bà có cố gắng thay đổi thế giới vây quanh bà.

Chú ta thường nói rằng sẽ chẳng có điều gì tồi tệ xảy ra nếu mẹ ta không phải là con một. Tất cả những sự bướng bỉnh, những tính cách hoang dã đáng lẽ phải là của con trai thì lại chuyển hết sang cho mẹ của ta. Tệ hơn nữa song thân của bà lại không gả chồng sớm vì thế tính cách bất trị của bà lại càng trở nên hoang dã hơn. Họ nghĩ rằng họ có thể chờ đợi và kiếm một người chồng cho cô con gái duy nhất của họ khi mẹ ta lúc ấy cũng vào khoảng 22 tuổi.

Trước khi điều đó xảy ra thì cách mạng đã nổ ra, lật đổ triều đình Mãn Thanh. Vào năm 1911 thì mẹ ta cũng đã 21 tuổi. Không triều đại nhà Thanh, không còn chức quan trong triều cho ông ngoại nữa. Một người đầy tớ báo tin xấu này cho Công Công khi ông đang dùng bữa trưa. Người đang nhai một miếng gân hầm. Bất thình lình người rú lên một tiếng như con thú hoang, sau đó thì cắn vào lưỡi, hoặc ông cắn vào lưỡi trước sau đó thì la lên. Dù sao thì ông ngã ngửa người ra, cả ghế và thân hình cùng chết một lúc, chỉ trong một cú ngã. Gia đình của mẹ ta đã xuống với tốc độ chóng mặt. Ai cũng nghĩ rằng ông ngoại ta đã tự tử vì đau buồn do sự sụp đổ của triều Thanh. Bây giờ thì mẹ của mẹ ta, Ha-bu của ta đã là một quả phụ không còn giàu có nữa. Ha-bu cũng chẳng vội vã gì gả chồng cho con gái. Con gái có thể chăm sóc lúc mẹ tuổi già, đó là điều mà Khổng Tử đã dạy, ta không hiểu tại sao người người đều nghĩ Khổng Tử thật là tốt đẹp, thật là thông thái. Ông ta chỉ làm người này coi thường người kia, và phụ nữ là cái gì thấp kém nhất. Dù sao thì mẹ ta cũng đã 21 tuổi, được giáo dục trái ngược với lối nghĩ Nho giáo.

Có thể là bà muốn lấy chồng, có thể không. Ai mà biết được. Dù sao thì bà cũng tự lựa chọn cho mình. Chú ta thường nói chính lối sống chỉ nghĩ đến mình đã khiến mẹ ta gặp tai họa.

Thím Nhỏ không đồng ý. Cái tai họa thực sự, thím nói, là cái khát khao ngu xuẩn, lãng mạn của mẹ ta về một cuộc hôn nhân vì tình. Mẹ ta đã gặp một sinh viên ở trường Phúc Đán, một nhà báo. Người này lớn tuổi hơn mẹ ta, có thể 29 tuổi bởi vì ông ta bắt đầu sự nghiệp học hành quá trễ. Lúc đó mẹ ta khoảng 26 tuổi.

Người sinh viên này tên là Lữ, một người mác xít, đúng cái loại người mà ông ngoại ta rất ghét. Thím Nhỏ nói rằng thím biết rất rõ về anh ta, bởi vì sau khi mẹ ta bỏ đi thím Nhỏ đã lục lại đồ đạc của bà, tìm ra một bài báo về sinh viên làm cách mạng tên là Lữ này. Chắc là đúng người sinh viên mà mẹ ta yêu, thím khẳng định như vậy. Nếu không mẹ giữ bài báo làm gì? Thím Nhỏ nói bài báo được viết rất dở. Một câu chuyện về cảm hứng và những người anh hùng. Vì thế có thể nó chỉ phần nào đúng sự thật cũng như người ta đổ thêm nước vào cơm cũ nấu lại. Dù sao thì cũng giống như những chuyện làm cách mạng, câu chuyện này rất lãng mạn. Lữ sinh ra ở Sơn Đông, ngược lên phía bắc Thượng Hải, một nơi nổi tiếng về hải sản quý. Anh là con trai của một người đánh cá vì thế tất cả những cái anh khát khao trong đời chỉ là thừa hưởng những cái lỗ thủng trong những tấm lưới của cha anh, những cái mà anh khâu vá hàng ngày. Anh không được học hành. Không có tiền đồ, không có cách gì thay đổi số phận. Thực tế đó là cuộc đời của hầu hết mọi người, tất nhiên trừ những nhà khoa học, những người ngoại quốc và phần lớn bọn thối nát. Rồi một hôm một người mácxit chân chính đến gặp anh và đưa cho anh một mảnh giấy.

“Đồng chí có thể đọc cái này cho tôi không?” Người đàn ông với mảnh giấy hỏi và Lữ đáp, “Xin lỗi tôi sinh ra đã là một thằng ngu.” Nhưng người đàn ông nói, “Đồng chí sẽ nói gì nếu tôi bảo rằng tôi có thể dạy bất cứ cái gì đồng chí muốn trong vòng 10 ngày. Hãy đến dự một cuộc họp, tự tìm hiểu điều đó!” Con người tốt lành này bảo Lữ một phương pháp mới dạy học cho những người lao động và nông dân để họ tự giải phóng khỏi kiếp tôi đòi. Nó được gọi là Thiên tự thập nhất. Trong buổi họp, những người mác xít nói rằng nếu một người học hành chăm chỉ, anh ta có thể học đọc và viết 100 từ một ngày, 1990 từ trong vòng 10 ngày. Anh ta lập tức được xóa mù, có thể đọc những bài báo thông thường, viết thư từ, hợp đồng mua bán, giải phóng anh ta khỏi cuộc đời khốn khổ đã dành cho mình.

Sau đó thì họ đề nghị Lữ tham gia cách mạng. Anh trả lời, “Cả đời tôi gói gọn trong một điều, tôi làm như trâu, khổ như chó.”

Thế là Lữ học thật hăng say và đã thay đổi được vận may của mình. Nhưng anh không dừng lại ở việc học 1000 từ, nghị lực của anh thật đáng nể. Anh học 2000 từ, 4000 từ sau đó 10000 từ. Anh học cho đến khi anh trải qua được kỳ thi để được vào trường đại học Phúc Đán, quá sung sướng là có thể thay đổi cuộc đời mình từ đây, anh tuyên thệ một ngày nào đó anh sẽ viết về cuộc sống cơ cực của người nông dân và những người lao động, trở thành người phát ngôn cho họ, tố khổ cho họ, bảo họ rằng họ có thể thay đổi số phận của mình bằng những tư tưởng cách mạng.

Vì thế bây giờ con đã hiểu tại sao mẹ ta đã hủy hoại cuộc đời bà vì tình yêu. Làm sao mẹ ta có thể không yêu một người đàn ông như vậy?

Ta nghĩ chắc là anh phải đẹp trai lắm. Có thể anh cũng có những cái mà mẹ ta ngưỡng mộ ở mình. Ðôi mắt to, nước da sáng, khuôn mặt cân đối, đôi môi mỏng, mái bóc đen như mun. Có thể anh là một người có tư tưởng tiến bộ trong cuộc sống bởi vì anh đề nghị mẹ lấy anh không mà cần đợi cho phép hoặc qua mai mối. Chắc đó phải là ý nghĩ rất hấp dẫn với mẹ ta. Một cuộc hôn nhân cách mạng. Mẹ ta gật đầu ngay tức thì rồi trở về nhà nói với Ha-bu điều bà đã làm.

Ha-bu gắt lên với mẹ ta, “Sao con có thể nghĩ đến một việc động trời như thế nhỉ? Làm sao con có thể nói chuyện với một người như thế? Điều này chỉ xảy ra khi mà đất nước này không có một vị hoàng đế trị vì.”

Sau đó mẹ ta dọa sẽ nuốt vàng nếu bà không được phép cưới Lữ. Thực ra, vào buổi chiều hôm ấy mẹ ta đã nuốt một nửa cái vòng vàng. Thím Nhỏ thường kêu lên khi kể đến đoạn này. “Xem chị ta dữ dội như thế nào?” Tất nhiên, mẹ ta không nuốt vàng. Nếu không mẹ ta đã chết, bà chỉ giả vờ là đã nuốt thôi. Bà bôi một ít nhũ vàng lên môi sau đó thì lên giường nằm ngay đơ. Trong lúc ấy Ha-bu quỳ trước bàn thờ gia đình cầu khẩn trước bài vị của người chồng đã mất. Bà cầu khẩn một sự tha thứ, một sự hướng dẫn cho đứa con gái lầm đường lạc lối của bà tránh khỏi thảm họa. Trong khi cầu khẩn như vậy, Ha-bu nghĩ rằng bà nghe người chồng đã khuất nói: “Hãy đến cầu cứu người bạn tốt của ta Giang Tiêu Yến.” Thế là Ha-bu đi đến đấy. Bà kể cho ông Giang việc mẹ ta đã trở nên kì cục như thế nào, dọa sẽ tự vẫn vì đã yêu một tên cách mạng. Ha-bu hỏi người bạn lâu năm của chồng bà phải làm gì. Chiều hôm ấy, Ha-bu, Giang Tiêu Yến thảo ra một hợp đồng. Giang đồng ý lấy đứa con gái hư của người bạn thân đã khuất núi làm vợ hai.

Mỗi khi ta nhớ đến cái đoạn này ta đều tự hỏi tại sao Ha-bu không phản đối, tại sao bà không nói với Giang, “Vợ hai ư? Sao không lập nó làm chính thất?” bởi vì người vợ cả đã chết. Nhưng có thể Ha-bu quá vui sướng vì vấn đề của bà đã được giải quyết. Dù sao thì bà cũng đồng ý vô điều kiện. Đó là lí do tại sao Giang có được một người phụ nữ xinh đẹp làm vợ hai - không phải là một cô hầu hay một cô gái từ một gia đình thấp kém - mà là một thiếu nữ xinh đẹp xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc tuy đã hết thời.

Ngay hôm sau mẹ ta nhìn thấy bản hợp đồng, bà chạy đi tìm Lữ và hỏi xem bà phải làm gì. Có lẽ họ hôn nhau. Có lẽ họ khóc với nhau, ta vẫn nghĩ rằng mẹ ta rất là lãng mạn.

Và Lữ nói, “Em phải cự tuyệt. Đó là cách duy nhất chấm dứt tục lệ cưới xin cổ hủ.” Sau đó anh kể cho mẹ ta nghe câu chuyện về một nữ chiến sĩ cách mạng đã làm gì với chuyện này.

Đó là một thôn nữ rất xinh đẹp, cô cũng bị ép buộc phải lấy một ông già mà cô thậm chí không biết mặt. Cô nói với gia đình “Con muốn tự chọn chồng cho con hoặc là con sẽ không lấy chồng.” Cha cô giận dữ đến nỗi nhốt cô vào chuồng heo. Mỗi ngày cô gào thét rằng cô không cưới cái lão già ấy. Cô la hét cho đến tận ngày đám cưới của cô. Khi ra khỏi chuồng heo cô trở nên lặng lẽ, hết sức dơ bẩn như con có thể hình dung ra được.

Mẹ và các dì của cô tắm rửa cho cô, bận đồ cưới cho cô, cho cô vào trong một cỗ kiệu cưới khóa chặt. Sáu người đàn ông khiêng cô trên một quãng đường dài từ làng của cô đến nhà ông già ở làng bên cạnh. Khi nọ tới nơi nhiều người đứng ngoài cổng đón chào – âm nhạc vang lừng, đồ ăn bày la liệt. Họ cười nói và chúc phúc cho tân lang, tân giai nhân sau đó thì mở kiệu để đón cô dâu. Úi chà – Cô ấy đã chết. Cô lấy tóc treo cổ vào cái xà ngang trong chiếc kiệu.

“Em thấy đấy,” Lữ nói với mẹ ta, “em phải cự tuyệt – không phải chỉ cho tình yêu mà còn cho đất nước em.”

Tội nghiệp mẹ ta, bà cứ nghĩ mãi về cô gái treo cổ bằng chính tóc của mình. Bà nghĩ đó là điều mà Lữ muốn. Bà về nhà tự hỏi không biết bà có đủ cam đảm để chết cho tình yêu. Hai ngày sau bà đến nhà Giang, trở thành vợ hai của ông.

Phải đó là những điều mà ta nên kể cho con nghe. Bà đã cưới ông Giang cha ta, ông ngoại của con, một ông già trước khi ta ra đời. Nhưng điều tồi tệ hơn cả là khi về nhà chồng bà biết được là ở đây còn có bà ba, bà bốn, thậm chí còn có bà năm – kẻ hầu người hạ kể rằng bà cả chết vì bệnh lao, bà hai tự vẫn khi Giang không chịu đưa bà lên địa vị chính thất. Bây giờ mọi người đều nói mẹ ta đến đây lấp vào một vị trí xui xẻo – thay thế người vợ thứ hai đã chết. Đấy là lý do tại sao mẹ ta trở thành bà Hai Phẩy. Dẫu rằng những người vợ khác không muốn cái địa vị xui xẻo của mẹ ta, họ vẫn ganh tị với bà, làm cho bà đau khổ vì có một địa vị cao hơn. “Hừm! “Bà hai”, thực tế chị chỉ là bà Hai Phẩy, bằng một nửa bà hai.”

Đôi khi ta nghĩ cuối cùng mẹ lại bị xua đuổi bởi những người vợ khác. Họ đầy đọa bà, than phiền nếu như bà đòi một tô mì đặc biệt, chế giễu đôi giày Pháp ngoại lai mà bà rất thích, trêu chọc cái việc đọc sách báo của bà bởi vì họ không biết chữ. Họ ghen tị với mái tóc của bà, mái tóc đen nhánh như gỗ mun – nói rằng đó là lý do cha ta cưới mẹ ta, chỉ vì mái tóc của bà.

Có lẽ vì thế mà mẹ ta cắt đi mái tóc. Bà để nó lại cho những người vợ tranh giành nhau.

Nhưng ta lại nghĩ: Mẹ ta đủ mạnh mẽ để có thể đứng vững trước những người vợ này. Dù sao thì tất cả những bà vợ trong gia đình đều oán thán về nhau, kèn cựa nhau từng tí một suốt đời. Ta biết những người vợ này: San Ma, Sz Ma và Wu Ma, má ba, má tư, má năm. Họ không đến nỗi xấu, thật thế. Ví dụ San Ma, bà có một tính cách Thượng Hải điển hình – trêu chọc mọi người nếu họ tỏ ra quá tự kiêu, chê trách mọi chuyện như nhau, vì thế con sẽ không thể biết là bà thích cái gì, khôn