Chương 6 VẬN MAY CỦA PEANUT
Con thấy đấy, ta chẳng có một người mẹ để khuyên bảo ta nên lấy ai không nên lấy ai. Không như con đâu, dù rằng thậm chí một người mẹ đôi khi cũng không giúp được con gái trong chuyện này. Con có nhớ cái thằng con trai mà con nghĩ là con không thể sống nổi nếu không có hắn? Tên hắn là gì nhỉ? Randy. Con không nhớ hả? Nó là thằng con trai đầu tiên mà con để ý đến. Con đưa nó về nhà ăn tối.
Ta để ý thấy con mỉm cười mỗi khi nó mở miệng trong khi nó chẳng để ý nghe con nói gì sất. Con hỏi nó muốn ăn gì nữa không. Còn nó thì cũng chẳng thèm nói, nó lại hỏi: Có bia không? Con thì lại mắc cỡ, con nói: Em xin lỗi, em thật sự xin lỗi!
Sau đó ta bảo con hãy cẩn thận, thật cẩn thận. Vậy mà con vặn lại, mẹ đang nói chuyện quái gì vậy? Thế ta mới nói, khi một thằng đàn ông nghĩ đến nó trước rồi mới đến con, thì sau này con là cái thứ ba hay thứ tư, sau đó không là cái gì cả đối với nó. Nhưng nếu con lúc nào cũng nói với nó là con có lỗi vậy thì con bao giờ cũng hối tiếc về chuyện đó. Con có biết con nói gì với mẹ không? “Tại sao mẹ lại có những ý nghĩ tiêu cực như vậy?” Đó không phải là một lối suy nghĩ tiêu cực. Đó là những suy nghĩ vì con gái của mẹ bởi vì nó không biết nghĩ đến bản thân.
Sau đó con không nhắc đến tên nó nữa. Nhưng ta biết trái tim con đã tan vỡ vì nó, trái tim nhân hậu của con! Con đã giấu ta, cố ghép những mảnh vỡ đó lại. Vì thế mà ta chẳng nói gì.
Ta không nói, “Mẹ đã bảo con mà”. Chẳng nói một điều gì như thế. Trái tim ta cũng tan nát vì con. Bởi ta biết con có một trái tim tốt lành, hồn hậu. Khi còn trẻ ta cũng có một trái tim tốt lành như thế. Ta đã không biết nhìn nhận một con người như Văn Phú và không biết nghĩ đến bản thân. Người đàn ông này đã gây cho ta bao nhiêu đau đớn. Người này lấy đi sự hồn nhiên trong sáng của ta. Người đàn ông này là lí do tại sao ta luôn nói với con gái ta, hãy cẩn thận, cẩn thận.
Khi ta gặp Văn Phú hắn ta đang yêu cô em họ ta Hoa Sinh. Đó là con gái của thím Nhỏ. Chúng ta gọi Hoa Sinh là Peanut “đậu phộng” bởi vì nó nhỏ bé mập mạp giống như hạt đậu tròn xoe. Con biết đấy, nó mới là người định cưới anh ta. Bây giờ ta luôn tự hỏi tại sao những điều này không xảy ra theo cách khác.
Đảo Tông Minh đã từng là nhà của ta trong suốt 12 năm. Suốt thời gian này, ta không hề gặp cha ta, ngay cả khi ta được gửi đến học nội trú ở Thượng Hải. Mỗi khi ta trở về nhà chú, ta cư xử như một người khách, không bao giờ đòi hỏi, chỉ chờ đợi người ta nhớ ra là ta cần gì.
Ví dụ nếu ta cần một đôi giày mới, ta sẽ chờ cho đến khi có một người khách đến chơi nhà. Chúng ta ngồi uống trà ở dưới nhà. Thím Lớn, thím Nhỏ sẽ dẫn dắt những câu chuyện vô thưởng vô phạt, toát lên rằng họ chẳng có vấn đề gì phải bận tâm hay lo nghĩ trên đời này. Đó là lúc ta có thể chìa đôi giày cũ mèm của ta ra trước mũi mọi người. Ta sẽ đợi cho đến khi mặt thím Lớn đỏ rần lên vì chính thím cùng cả gia đình và khách khứa đều nhìn thấy đôi giày chuột khoét của ta.
Con biết đấy, ta chưa bao giờ cảm thấy mình thuộc về gia đình này, tuy họ là cái gia đình duy nhất mà ta biết. Họ không nghiệt ngã với ta, thật thế. Nhưng ta biết họ không yêu ta theo cái cách mà họ yêu Peanut và những đứa con trai của họ. Mọi chuyện như thế này. Trong bữa ăn tối thím Lớn hoặc thím Nhỏ có thể nói với Peanut, “Món này con thích ăn đây”. Họ có thể nói với mấy đứa con trai, “Ăn nữa đi, ăn nhiều vào không thì lại bị gió thổi bay”.
Họ chẳng bao giờ nói như thế với ta. Họ chỉ chú ý đến ta khi họ cần chỉ trích điều gì, hoặc là ta ăn quá nhanh, hoặc là ăn quá chậm. Ở đây có một sự phân biệt. Khi Peanut và ta từ trường nội trú trở về nhà chú ta bao giờ cũng cho Peanut một món quà bất ngờ nào đó – mứt mận, tiền hoặc một cái lông đuôi chim công. Với ta, ông chỉ vỗ lên đều nói, “Vi Vi, con đã về nhà”. Thế thôi. Chú ruột của ta đấy, ông chẳng nghĩ ra được cái gì để nói.
Tất nhiên, ta tủi lắm. Nhớ lại điều đó bây giờ ta cũng cảm thấy tủi nữa. Nhưng làm sao ta có thể than phiền? Ta được coi là nỗi hổ nhục cho gia tộc. Họ đã lãnh ta như lãnh một cục nợ sau hành động ô nhục của mẹ ta. Theo một chuẩn mực nào đó, họ quá tốt đối với ta. Họ chẳng hề muốn khắc nghiệt với ta, không một chút nào. Có thể vì thế ta cảm thấy tủi thân – họ không chủ tâm làm điều đó. Họ quên rằng ta không có mẹ, người có thể nói rõ được xúc cảm của ta, cái mà ta thực sự cần, một người dìu dắt hướng dẫn ta trong những sự cố trên đời. Ở với gia đình này, ta học được việc chẳng chờ đợi điều gì nhưng lại mong muốn thật nhiều. Một năm sau, mọi sự lại thay đổi. Năm ấy ta 18 tuổi, vào khoảng giữa năm dương lịch và năm mới âm lịch. Đó có thể là vào đầu năm 1937 theo Dương lịch, và chắc chắn là vào trước Tết Âm lịch. Năm hết Tết đến là lúc mà con có thể thay đổi vận may của mình. Ồ chúng ta không thờ ông Táo, không giống như bà dì Du. Chúng ta là người nhà quê nhưng không quá lỗi thời. Tất nhiên có thể bọn đầy tớ có thờ một ông Táo thế nhưng ta không nhớ. Dù sao thì chúng ta cũng có cách để nghĩ về vận may, một số điều thì chỉ để vui vẻ, một số điều thì hệ trọng hơn. Vào ngày này ta luôn mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tốt đẹp hơn như thế nào ta cũng không biết nữa. Ta không mơ có được một triệu đô, không như các con với trò chơi xổ số. Ta chỉ có một hi vọng le lói trong tim ta là mọi việc rồi sẽ thay đổi. Có thể ta muốn bớt cô đơn hơn một chút. Vì thế mà con thấy tại sao những điều này lại xảy ra, tại sao ta gặp Văn Phú.
Chúng ta ăn Tết không như các con ở Mỹ ngày hôm nay có múa lân, đốt pháo, tiền mừng tuổi cho trẻ con, chỉ có vui, vui và vui. Nhưng nó cũng là một ngày để suy ngẫm nữa. Theo phong tục của chúng ta, trước thềm năm mới không được để lại dù chỉ một hạt bụi của năm cũ trong nhà. Không một đồng xu nợ nần nào không được trả. Không một lời nói không vui nào được thốt ra từ miệng bất cứ ai trong vòng 3 ngày. Ta thích năm mới vì lẽ đó, thím Lớn sẽ không mắng mỏ ta vì bất cứ lí do, điều này có khác đấy – ngoài ra con sẽ nghe la hét suốt ngày.
Khi mặt trời vừa ló lên vào cái buổi sáng cuối cùng lạnh lẽo của năm cũ, Peanut và ta đã nghe mẹ nó ra lệnh cho con hầu đầy tớ phải lau chùi quét dọn chỗ này chỗ kia, không phải như thế này mà là như thế này!
Mặt dù Peanut và ta ngủ chung một giường nhưng mỗi đứa có một cái mền. Chăn, nệm không riêng rẽ như các con ở đây, mọi thứ đều đắp lên người. Chăn ở đấy được quấn quanh người, như hai lớp kén dày, rất ấm.
Buổi sáng Peanut trùm chăn kín đầu tìm xem giấc ngủ của nó đi đâu. Nhưng rồi cho ta nghe thím Nhỏ gọi, “Peanut, cô bé lười biếng, con ở đâu?”
Con xem thím chỉ gọi Peanut không gọi ta, đó không phải là thím ưu đãi ta, để cho ta ngủ nướng thêm đâu. Bà muốn gọi con gái mình dậy, bảo ban con phải coi sóc việc nội trợ như thế nào để một ngày kia nó sẽ biết làm thế nào để trở thành một người vợ hoàn hảo. Thím Nhỏ không nghĩ là ta cũng cần học những điều nữ công gia chánh đó. Nhưng ta vẫn học lóm. Ta học mà không có người hướng dẫn chỉ bảo.
Ta để ý thất ruột chăn được lôi ra ngoài, đập bằng vồ như thế nào, vỏ chăn được giặt thật sạch sao cho không còn một vết lem nào. Các chân bàn được đánh bằng dầu cho đến khi nó sáng choang. Đồ gỗ được dựng đứng vào tường – tủ lớn tủ nhỏ - để con có thể nhìn thấy tất cả bụi bẩn, mạng nhện, lỗ chuột. Ta cũng nghe được cái cách mắng mỏ đầy tớ của thím Nhỏ, thím thường nói: “Tại sao chỗ này còn dơ mà mày dám nói là đã sạch?”
Ta liếc thấy thím Lớn vào trong nhà bếp. Bà ra lệnh cho đầu bếp thái thêm thịt, rau. Sau đó bà kiểm tra tất cả thực phẩm dự trữ. Bà mở nắp những hũ dầu đậu phộng lớn, sốt đậu, giấm, ngửi từng cái một. bà đếm số cá bơi lội trong những cái thùng gỗ, số gà vịt chạy qua lại trong sân. Bà kiểm tra lại nồi bánh bột nếp có nhân xem nó đã chín tới chưa. Bà mắng người phụ bếp đã để phao câu gà bị oi khói trong nồi xúp gà, la mắng một người khác vì không biết cắt râu mực, “Đồ ngu! Chúng phải cuộn lại như một quả cầu may mắn khi nấu chín chứ. Còn mày cắt như thế này trông chúng sẽ như những mẩu vải thừa. Điềm xấu lắm.”
Ta học tất cả những điều này cho tương lai của ta. Ta cố gắng dạy lại con những điều này khi con đang tuổi lớn…Nhưng con có nghe ta đâu. Con nói, “Nghe chán chết. Quá nhiều rắc rối. Con thà ăn fastfood còn hơn”. Phải, con đã nói những điều như thế. Con xem ta nóng lòng muốn học hỏi như thế nào? Từ khi còn rất trẻ ta đã biết rằng món ăn nào trông ưa mắt thì nếm vừa miệng và đó có nghĩa là một điều tốt lành, cái cách mà nó kéo dài hơn, thỏa mãn khẩu vị của con và cũng thỏa mãn kí ức của con dài lâu hơn.
Còn chuyện gì xảy ra trong ngày hôm ấy? Ồ ta nhớ rằng, mọi người đều có việc, không chỉ bọn người làm. Về phần mình ta phải hoàn thành việc sắp đặt quần áo cho mọi người trong nhà. Trong một tuần ta phải làm công việc này, sửa chữa lại tất cả những dấu hiệu của một điềm gở có thể có, một đường khâu bị sút, một miếng rách nhỏ, một chỗ rạn, hay một cái nút áo bị mất. Buổi sáng hôm ấy ta vội vã hoàn thành nhiệm vụ để ta có thể cùng Peanut đi chơi chợ Tết. Đêm hôm trước, thím Nhỏ đã cho chúng ta đủ tiền để mua quà Tết trong những cái sạp đặt biệt dựng lên trong phiên chợ. Ta lớn hơn Peanut một tuổi, nhưng thím Nhỏ không giao tiền cho ta. Bà đếm tiền, đặt vào tay con gái. Tất nhiên Peanut phải tiêu tiền cho cả ta nữa. Không cần thím Nhỏ phải nói gì, Peanut cũng sẽ làm như thế. Nhưng ta biết điều gì sẽ xảy ra. Nó sẽ tiêu tiền theo sở thích của nó, hoặc là nó sẽ nắm chặt tiền trong tay cho đến khi ta thắng được nỗi ngại ngùng đưa ra những ám chỉ này nọ.
“Cả hai đứa, làm những công việc của các con nhanh nhanh lên, sau đó thì các con có thể đi chơi”, Thím Nhỏ nói. “Đừng quên nhé, phải ăn tiêu tiết kiệm, kể cả khi mua những món đồ đặc biệt nhé”. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải mặc cả khi mua hàng. “Đừng cho mấy đứa em ăn quá nhiều kẹo”, có nghĩ là chúng ta phải dẫn Gông bé và Gao bé một đứa 10 tuổi, đứa kia 11 tuổi đi chơi chợ Tết.
Ta dẹp mớ quần áo sang một bên, nghĩ rằng ta có thể ngồi trên chiếc ghế vắng vẻ trước nhà, dệt mộng với những khát khao thầm kín. Nhưng lão Gô người quản gia đang đứng ở ngoài sân chỉ đạo những người làm công nhật những việc phải làm. Ông ta chỉ vào cái hàng rào đan xiêu vẹo đen xì bao quanh nhà, tay chỉ vào lỗ hổng lớn mà Gông bé đã gây ra vào hai tuần trước khi nó cưỡi chiếc xe đạp lao vào. Sau đó thì lão Gô lại chỉ trỏ những chỗ khác cần sửa. “Nhà Cũ phía Đông làm cái này. Nhà Mới phía Tây sửa cái kia.” Ông ta đang nói về cấu trúc của hai nửa ngôi nhà.
Nhà Cũ phía Đông là nơi người ta ăn, ngủ, nấu nướng, nơi trẻ con ra đời, người già chết. Đó là một ngôi nhà lớn kiểu Trung Hoa chỉ có một tầng với một cái sân vuông được bao quanh bởi lối đi và khu gia nhân, tất cả cửa ra vào, và cửa sổ đều nhìn ra sân. Những căn phòng quan trọng nhất quay về hướng Đông: bếp ở đằng sau, phòng của chú ta, phòng khách bên hông.
Nhà Mới phía Tây mới được xây thêm vào sau này, khi gia đình chúng ta giàu có lên nhờ tiền buôn bán nhung lụa, rèm cửa, thảm với nước ngoài. Giống như tên của nó, nhà này quay mặt về hướng Tây, cao hai tầng với 3 ống khói vươn lên trên nóc. Nhà được xây theo kiểu Anh, thím Lớn đã một lần nói thế. Nhưng nhiều năm qua người ta cứ xây thêm ở phía mặt tiền, đến một lúc nào đó thì những phần đẹp nhất của ngôi nhà bị che khuất đi. Thế nên giờ đây trông nó giống như là mặt sau của một nông trại cũ.
Đó là nơi ta bước lên cái bậc tam cấp bằng gỗ trước phòng thím Lớn, qua một cái sàn, nghĩ rằng ta có thể vá quần áo ở đấy. Chú ta đã cho xây thêm cái sân này 10 năm trước. Mùa hè sau đó thím Lớn cho rào nó trở lại bằng lưới mắt muỗi để ngăn côn trùng sâu bọ vào nhà. Nhưng một vài con vẫn cố trườn vào được, lúc đó thì thím Lớn lập tức dí chết nó bằng đế dép của bà. Chỗ này, chỗ khác ta vẫn có thể nhìn thấy xác một con muỗi hay con chuồn chuồn dính vào lưới, cánh của chúng vẫy trong gió nhẹ như những miếng giấy bị xé vụn. Mọi thứ ở đây đều rỉ sét, cánh cửa mở ra sân kêu lên vu vu khi gió thổi qua. Ta cảm thấy mình dính chặt vào trong một cái lồng dế. Đó chẳng phải là chỗ thích hợp để mơ mộng về tương lai. Thế là ta rời khỏi chỗ đó, đến chỗ nhà kính, một chỗ ẩn náu bí mật trong suốt thời thơ ấu của ta. Ta nhìn xem có ai ở đây không. Ta lau kính cửa sổ thật kĩ càng như thể nó là con mắt của một đứa trẻ vừa thức giấc. Trống trải, nó trống trải nhiều năm rồi.
Khi mới đến hòn đảo, chú ta đã cho xây thêm kính vào mặt phía Nam của nhà Mới phía Tây, một mặt nó hướng về phía mặt trời. Trông nó giống như một hộc ngăn kéo bị mở ngỏ. Ông thường khoe khoang rằng đó là cái mà một quý tộc người Anh gọi là “thú vui” – trồng hoa hồng, hoa phong lan, những loài hoa quý mà không có giá trị buôn bán. Ông luôn gọi đó là “hobby” bằng tiếng Anh vì trong tiếng Hoa không có từ nào chỉ một việc làm gì đấy chỉ tốn tiền, mất thời gian. Ta không hiểu tại sao ông nghĩ cái việc bắt chước người ngoại quốc này là tốt, cứ như thể bất cứ thứ gì của Trung Hoa cũng đều là tồi tệ. Mỗi một năm chú tìm ra một thú vui mới. Thím Lớn sẽ la chú, gọi thú tiêu khiển mới của chú là hapi. Có nghĩ là “thối như rắm”, ngụ ý những ý tưởng của chú chả ra gì.
Sau khi chán nhà kính, chú bắt đầu khoái những cuộc đua chó, những con chó đua, những con vật chú để cho đói meo với mục đích cho nó chạy nhanh hơn. Sau khi chó chết, ông mua súng trường để bắn bồ câu nuôi, những con bằng đất sét thì quá đắt. Sau đó là những cái tẩu hút thuốc, chúng làm cho ông ngã bệnh, rồi đến những cuốn sách của Anh bọc bìa da mà ông không bao giờ đọc, rồi lại đến xác côn trùng ghim bằng những cái kim. Ông có thể ngồi ngoài sân chơi cái trò này.
Nhưng nhà kính vẫn là thú tiêu khiển đầu tiên. Và khi ông đã chán thì nó được dùng như một chỗ chứa đồ phế thải. Khi thím Nhỏ ngồi xuống, làm gãy một cái ghế - nó được đưa vào đây. Khi chú chán những khẩu súng trường, những bộ sưu tập côn trùng – nó được mang vào đây. Khi thím Lớn kêu ca là chú giữ quá nhiều bức ảnh của những người họ hàng xa tít tắp mà bà cũng chẳng nhận ra ai là ai, quá nhiều những bức tranh cuộn để ghi nhớ - chúng được đem vào đây. Đó là cái nơi dành cho những thứ mà một ai đó quyết định là chúng không thuộc về một nơi nào khác nữa. Khi còn bé ta thường ngồi trên chiếc ghế gãy. Ta sờ vào những khẩu súng và hình dung ra tiếng nổ của nó. Ta cũng vờ uống trà với những bậc tiền bối không quen biết. Mỗi năm qua đi, nhiều thứ hơn lại được vứt vào đây, những thứ mà người ta không cần đến nữa, mà ta thì biết hết.
Một hôm vào lúc ta lên 9,10 tuổi gì đó, ta tìm thấy một bức chân dung một người phụ nữ đẹp, mặc một cái áo màu xanh nhạt, tóc chải ra sau, mắt nhìn thẳng về phía trước, thật đáng buồn ta suýt nữa không nhận ra đó là mẹ ta. “Mẹ phải không?” ta kêu lên, thực sự nghĩ là bà nhìn thấy ta. Ta tưởng tượng bà bước ra khỏi khung ảnh với cái nhìn thờ ơ trong bức tranh, hỏi ta, “Vi Vi quý báu, sao mà chỗ này có nhiều cửa sổ nhỏ quá vậy?” Ta nhận ra rằng đó là chỗ dành cho mẹ con ta, nơi chứa những món đồ vứt đi. Thậm chí cho đến khi lớn lên, ta vẫn có cảm giác ấy. Dù sao thì đó cũng là chỗ ta ngồi may vá quần áo cũ.
Ta ngồi vá quần áo cho những đứa em họ luôn lăn lê bò toài. Những miếng rách lớn ở đầu gối, khuỷu tay. Quá nhiều chỗ sờn. Ta quyết định là chỗ quần áo này không thể vá víu nữa. Có thể ta sẽ đưa cho những người làm, không phải để sửa lại mà để cho con cháu họ. Nếu sau này thím Lớn có mắng ta thì ta sẽ nói rằng ta chỉ nghĩ về những cậu em họ, chúng sẽ bị khinh rẻ khi chạy chơi ngoài đường như quân ăn mày nếu chúng khoác những bộ quần áo rung rúc này lên người. Sau đó ta sẽ mỉm cười khi nhớ lại ta đã bí mật để lại một lỗ nhỏ trong túi áo rét của thím Lớn. Có thể là một ít quyền lực của bà sẽ bị rơi vãi.
Tại sao con lại cười? Con nghĩ rằng mẹ con bao giờ cũng là một đứa trẻ ngoan ngoãn sao? Con nghĩ rằng ta không biết quậy phá một cách thầm lén ư? Cũng giống như lúc con lén đọc một cuốn sách cấm, Đón cô ta trong một cuốc xe, ta biết con đâu có đọc Kinh. Ta cũng đã làm như thế ở tuổi con, giấu một cuốn sách trong giỏ khâu của ta. Đó là một thiên diễm tình éo le có tên là Kim Bình Mai, một cuối sách cấm. Sơ Momo ở trường nội trú nói đi nói lại với học sinh không biết bao nhiêu lần là chúng ta không được phép đọc cuốn sách đó. Thế là ta mượn nó từ một người bạn tên là Du nhỏ, một siêu quậy, chuyên làm những việc nó bị cấm. Nó bảo cuốn sách viết xung quanh chuyện tình dục. Người chồng thích làm cái gì, người vợ thích làm cái gì, cái gì người chồng thích hơn người vợ, người chồng cần thực hiện nhiệm vụ của mình thường xuyên như thế nào, về phía người vợ ra sao. Nó bảo ta trong đó cũng có nhiều những từ bí mật như “ngọc đình”, “ngoạn tiêu”, “vân vũ” – những từ nó không giải thích nghĩa những từ này cho ta nghe. Cứ đọc đi rồi biết, nó nói.
Sáng hôm ấy, ta đọc cuốn sách đó, cố tìm ra những nghĩa bí mật. Nhưng sau 10 trang ta chẳng đọc thấy gì bất thường, chỉ những chuyện thông thường ta được dạy để làm theo – cho tặng quà như thế nào là tùy thuộc vào sự quan trọng của người được tặng, làm sao người thân luôn được hạnh phúc, tại sao con không nên nghĩ đến bản thân mặc cho đời sống có ngắn ngủi bao nhiêu. Rồi ta nghĩ có lẽ cuốn sách này giống như một câu đố, ta quá ngây thơ để có thể hiểu được ý nghĩa của nó. Có lẽ đoạn miêu tả về những cây thông đẹp đẽ này có chứa những hàm ý nào đó, chứa trong đó một loại kiến thức khác hẳn. Thế nào việc người đàn ông nhận bánh trà từ tay vợ một người khác thì sao? Điều này chắc chắn là không chính đáng rồi. Tại sao là hai bánh trà? Tại sao không phải là một? Điều gì xảy ra khi cô ta đưa cho anh ta hai quả cam? Trước khi có thể nghĩ ra được điều gì ta nghe Peanut gọi tên ta bằng cái giọng nhão nhoẹt của nó. “Vi Vi! Mày ở đâu hả cái đồ ngu ngốc kia?” Ta đã định không lên tiếng như ta vẫn thường làm thế lúc còn bé. Nhưng sau đó tất nhiên là ta nhớ ra phiên chợ Tết. Giấu cuốn sách giữa hai cái nồi, ta vội vã chạy ra ngoài với cái giỏ quần áo.
Khi chúng ta sẵn sàng đi chợ, Peanut tuyên bố gian hàng nào chúng ta sẽ ghé qua trước, loại hàng nào chúng ta sẽ mua. Có thể là những con rối bằng giấy hoặc là đèn lồng hình con thú cho em trai nó. Trà ngon cho người lớn trong nhà. Những ví tiền nhỏ cho những đứa em họ khác của chúng ta, những người con gái của thím Lớn đôi khi về thăm nhà cùng với chồng con vào dịp năm mới. Sau đó chúng ta đồng ý mua trâm cài tóc hình hoa cho cả hai chúng ta. Tất nhiên sẽ xem một quẻ bói để coi có những điều gì tốt đẹp chờ chúng ta trong năm mới.
“Chúng ta sẽ không thèm xem bói cái mụ có hàm răng vẩu nữa”, Peanut nói. “Năm ngoái mụ nói với tao toàn những chuyện xấu, toàn là đe dọa, nào là những điểm xấu trong tính cách của tao khớp với những điểm xấu của năm mới”.
Ta nhớ lại những điều bà thầy nói nói với nó năm ngoái. Rằng nó là một con cừu lúc nào cũng trốn sau bộ lông dày của nó như thế nào. Trong năm con chuột, bà thầy bói bảo Peanut rằng một ai đó sẽ cắn qua cái áo khoác da của nó tìm ra những sơ hở của nó nếu như nó không cẩn thận. Peanut tức lắm nó đã đòi tiền lại nhưng người đàn bà này không chịu. Peanut cao giọng để cho những người xung quanh nghe thấy. “Cái bà này lừa dối tôi, cho tôi toàn những điều xúi quẩy. Chẳng có may mắn gì ở đây đâu. Tốt nhất là tránh xa ra.” Ta cảm thấy bối rối nhưng ta cũng nghĩ làm cách nào mà bà thầy bói này lại biết tường tận về cô em họ ta như vậy?
“Năm nay”, nó nói, “tao chỉ muốn biết về người chồng tương lai của tao và gia đình chàng”.
Tiếp đó, Peanut bắt đầu tô lục chuốt hồng để đi chơi chợ Tết. Nó vặn cho tóc nó cong lên ở hai bên má. “Tao thấy kiểu tóc này ở trong một tạp chí thời trang”, nó giải thích. Ta buột miệng nói cho nó biết là kiểu tóc đó không hợp với nó đâu, nhưng như thường lệ nó đâu có để ý gì đến điều ta nói. Rồi nó mất nhiều thời gian băn khoăn xem sẽ mặc bên trong cái gì và khoác cái gì ra ngoài.
Cùng một gu thẩm mỹ với gia đình, Peanut có rất nhiều bộ quần áo đẹp, đa số là hàng của Anh hay Pháp mua ở những shop thời trang đắt tiền ở Thượng Hải. Một cái khoác bằng lông cừu màu đen với một cái khăn choàng kim tuyết. Khi thắt chặt một sợi dây ở ngang bụng, gấu áo chạm đến mắt cá chân làm cho nó khó mà bước đi được dù chỉ là những bước ngắn. Thật lố bịch! Đó là cái áo mà Paenut quyết định sẽ mặc cùng với đôi giày cao gót mới tinh. Chúng chắc chắn là trông rất ngứa mắt đối với người dân quê – những người mừng húm nếu chỉ có được một miếng vải để may một cặp quần áo mới. Nhưng bây giờ là Tết mà, dịp để cho người ta khoe của.
Chúng ta là một gia đình phong lưu nhất trong làng, tất nhiên giàu nhất theo cái tiêu chuẩn của một vùng quê hẻo lánh ở ngoài đảo, của một cái làng nhỏ có tên là Cửa Sông chu vi nửa dặm chiều dài và ¼ dặm chiều ngang, không kể một con đường dẫn ra bến tàu, những tiệm tạp hóa nằm rải rác. Một cái làng bé đến nỗi chỉ có một nhà giàu, có thể có thêm một gia đình trung lưu, còn thì hầu hết mọi người sống trong cảnh đói khổ.
Ta sẽ không nói là điều này đúng, chỉ có một nhà giàu còn lại thì đều nghèo khổ. Đó là cái cuộc sống mà người ta có từ ngày xưa, chẳng thắc mắc gì ráo, một cái số phận quy định dành cho con người. Đó là nước Trung Hoa.
Đa số những người nghèo này làm việc trong nhà máy dệt của gia đình ta vì thế mà họ không đến nỗi chết đói. Họ sống trong những gian nhà lúp xúp bằng đất sét thuê lại của dòng họ nhà ta. Họ chẳng có đất đai gì ráo ngoài đất cát quét được trên sàn nhà họ. Mỗi năm một lần họ trông chờ vào bữa tiệc lớn mừng năm mới của dòng họ Giang ở làng Cửa Sông. Hay ít nhất thì cũng một bữa cỗ lớn vào ngày mùng 4 Tết.
Tất nhiên, ta chẳng nghĩ đến những chuyện này trong khi ta chuẩn bị đi chợ Tết. Cũng giống như Peanut ta mặc bộ quần áo đẹp nhất, một chiếc váy dài lễ hội với những dải băng màu đỏ tươi, cái áo bông chần đẹp nhất của ta khoác bên ngoài.
Ta thắt bím ở sau gáy như người lớn. Ta liếc thấy Peanut kiễng chân nhìn ra lối đi. Nó nghe ngóng những tiếng động vọng qua sân, rồi nghe giọng mẹ nó vang lên từ lối đi vẫn la hét chỉ bảo om xòm. Nó quay lại mở ngăn kéo đoạn lấy ra một cái hộp bọc trong một lớp giấy trắng mỏng bên ngoài cột một dây ruy băng màu đỏ. Từ đó nó lấy ra ba cái hộp tròn với những kích cỡ khác nhau. Nó ngồi trước gương, trát phấn trắng lên mặt. Trong khoảng một vài phút nó nhồi phấn gạo trắng lên đôi má phinh phính, cái mũi nhỏ của nó.
“Trông mày như một con ma ngoại quốc vậy”, ta nói nhanh, cắn nhẹ vào môi. Ta sợ cho nó, cho cả ta nữa. Ta lớn hơn nó một tuổi, thím Nhỏ có thể kết tội ta vì đã không chỉ bảo nó đàng hoàng. Nhưng nếu ta mắng Peanut thì thím Lớn lại nói, “Mày chỉ trích ai đấy? Hãy trách mình trước đi”.
Vì thế ta chẳng nói gì, ta quan sát Peanut khi nó lấy ra một cái hộp khác, nhỏ hơn với một cái nắp màu ngọc trai. Nó quết màu đỏ choét lên đôi môi.
“Ái chà, miệng mày trông như cái đít con khỉ ấy”, ta chọc, nghĩ rằng điều này sẽ làm nó nản lòng.
Nó mở cái nắp hộp cuối cùng, nhỏ nhất, và giở một tạp chí thời trang. Rồi với một nụ cười của một ngôi sao điện ảnh, như nó tưởng tượng, nó nhanh chóng đắp hai cục đen xì lên mí mắt trên, sau đó thì kẻ hai đường thật đậm lên lông mày làm cho chúng trông giống hai cái chân đế đen xì đang chực nhảy. Thực sự trông nó rất ghê, chẳng dễ thương chút nào. Khi nhìn xuống, hai cái vật đen trông giống như cặp mắt của quỷ sứ đang chằm chằm nhìn ta.
Thật may cho Peanut nó có thể giấu gương mặt của nó sau cái cổ áo dựng đứng lên, có thời gian lủi đi trên con đường vẫn còn tối mờ mờ rồi ra bằng cửa sau trước khi có ai nhận ra khuôn mặt mới của nó. Ta tháp tùng Gông nhỏ, Gao nhỏ, đưa chúng ta ngoài đường. Khi nhìn thấy bà chị, chúng thì thào với nhau, sau đó cười rộ lên cho đến khi Peanut bước lại gần, tát cho mỗi đứa một cái. Chúng ré lên bỏ chạy mang theo tiếng cười nhạo lướt xa trên đường, sau đó quay lại nhảy múa, chỉ trỏ.
Từ nhà đến chợ chỉ mất 10 phút đi bộ. Nhưng ngày hôm ấy chúng ta mất đến 40 phút. Peanut phải bước ba bước với đôi giày cao gót của nó mới theo kịp một bước của ta. Khi những người dân quê đi ngang qua nó, họ dừng lại trố mắt nhìn, cúi đầu chào, sau đó thì cười phá lên khi họ tiếp tục đi theo đường của mình. Ôi, con phải nhìn thấy Peanut lúc đó mới được. Nó thở hồng hộc giận điên lên như một bà hoàng mà bọn quân hầu bỏ chạy hết để bà ta trơ ra trên chiếc kiệu. Nếu nó có đỏ mặt dưới lớp mặt nạ trắng phớ thì ta cũng không biết được.
Hãy nhìn nước da của ta xem nó mịn màng như thế nào ngay vào lúc này. Khi ta còn trẻ, ta chẳng bao giờ trang điểm. Ta đâu cần – không một nốt tàn nhang, không một chấm nhỏ, không sẹo, không tì vết. Nhiều người bảo ta có một khuôn mặt may mắn, cớ sao ta lại phải che giấu nó đi?
Bây giờ thì vào bếp đi và làm một tách trà. Sau đó ta sẽ kể cho con nghe việc Peanut đã thay đổi số phận của ta trong năm mới như thế nào.
Chợ phiên ngày Tết rất đông, vào lúc 11 giờ trưa người ta mua bán rất nhộn nhịp. Tất cả những cảnh này làm ta hào hứng khôn xiết. Hôm ấy người phụ nữ bán hàng trước nhà không phải rao lên, “Mằn thắn, mằn thắn đây. Thử nếm một chút coi”. Cả hai cái bàn đều đầy người với đôi má lạnh ửng hồng đang xì xụp cúi xuống những tô mằn thắn bốc hơi nghi ngút, hàng chục người ngồi chồm hổm ngay dưới đất, đầu gối quá tai, chan chan húp húp.
Chúng ta đi qua những cái sạp bán trái cây, rau quả, trứng, những con gà còn sống. Ngày hôm ấy trái cây to hơn mọi ngày, gà qué quang quác hơn bao giờ hết. Những câu đối đỏ mừng xuân treo ở khắp nơi. Pháo nổ đì đẹt qua mỗi bước đi, trẻ con kêu lên khi mẹ chúng chọn những trái đào trái cam, lựu, hồng vàng. Gông và Gao xem một con khỉ nhảy múa. Cuối tiết mục chúng ném hai đồng xu xuống đất. Con khỉ nhặt những đồng xu lên cắn vào từng đồng như để xem có phải là tiền thật không, ngả mũ chào bọn trẻ đoạn đưa cho chủ nó. Người này đưa lại cho con khỉ hai con thằn lằn khô, nó tọng ngay vào mồm nhai ngau ngáu. Tất cả mọi người đều vỗ tay.
Sau đó thì Peanut tìm thấy người thầy bói mà nó ưng, một bà mập ú với nụ cười chào hàng hứa hẹn ồn ào rằng bà ta biết tất cả mọi chuyện – tình yêu, hôn nhân và tiền đồ. Một cái biển trước quầy của bà ta, khoe rằng bà ta có những quẻ bói may cực kì, những sự kết hợp cho một cuộc hôn phối may mắn, chọn ngày tốt nhất cho những quyết định làm ăn, các phép màu để đổi vận xui thành vận hên tuyệt vời. Mọi thứ đều được bảo đảm.
“Chào các em gái”, bà ta gọi chúng tôi, sau đó vỗ vào bụng. “Coi xem chị đã trở nên giàu có, tốt tướng như thế nào vì đã làm theo những lời khuyên của chính mình. Chị đâu có ngồi đây để kiếm sống, không đời nào, chị làm việc này chỉ vì Phật Bà đã yêu cần chị tạo phước cho kiếp sau. Các em xem những lời tiên đoán của chị sẽ làm lợi cho cả hai bên. Nào tới đây, vận đỏ nhất, chị có thể chứng minh ngay cho các em”.
Và sau đó bà thầy bói làm một điều tuyệt diệu. Bà ta nói với Peanut. “Con số may mắn của em là số 8 phải không?”
Peanut nhớ rằng nó sinh vào tháng Tám, khi nó 8 tuổi nó đặc biệt hạnh phúc, nó sẽ 18 tuổi vào năm mới. Thế là với cái miệng há hốc, với một nửa số tiền thím Nhỏ đưa, nó mua cái lời hứa hẹn rằng trong năm tới nó sẽ cưới một người đàn ông làm cho bậc song thân của nó chẳng những hạnh phúc mà còn tự hào. Mẹ chồng nó thì tốt một cách khó tin. Gia đình tương lai của nó giàu có đến mức không còn gì để ao ước nữa. Tất nhiên nó sẽ có cả một bầy con khỏe mạnh.
“Chồng của tôi trông như thế nào? Tôi hi vọng là không quá già”, Peanut lại nói với giọng ai oán. “Mà gia đình chồng tôi sống ở đâu? Tôi không phải ở lại cái làng Cửa Sông này suốt đời chứ?” Người đàn bà nhặt một quẻ thẻ khác, chau mày, nhìn có vẻ bối rối. Một quẻ thẻ khác nữa. Cau mày lâu hơn và rồi một cái nữa.
“Ừm, chồng của em cũng trẻ lắm, chỉ lớn hơn em vài tuổi thôi. Nhưng mà gia đình anh ta sống ở đâu đây thôi, đó là điều mà ta nhìn thấy. Cũng chẳng đến nỗi tệ nhưng có lẽ ta có thể làm cho số phận của em tốt hơn”.
Lại xì thêm một ít tiền nữa, người đàn bà viết tên Peanut lên một miếng giấy đỏ, cùng với ngày tháng năm sinh, con số may mắn, đính thêm một miếng giấy có chép một bài thơ có vần có vè. Nó đại loại như thế này, “Hạnh phúc gần đâu đây, ngay bên Biển Đông này”.
“Nó có nghĩ là gì?” Peanut hỏi sau khi đã đọc xong bài thơ.
“À”, người đàn bà nói, dí bài thơ sát vào mặt. Cuối cùng bà ta chỉ vào chữ “gần đâu đây” và chữ “hạnh phúc” rồi nói, “Xem đấy. Đây là người đàn ông ở đây mà em phải cưới, nhưng bây giờ chị đã đuổi hắn đi, gán hắn cho một người khác”. Bà ta chỉ vào chữ “Biển Đông”, “chữ này có nghĩa là chồng tương lai của em là người ở xa, không xa như là ở một nước nào khác, nhưng không phải ở đây. Có thể xa về phía Bắc như Dương Châu”.
Peanut nhăn mặt một cách xấu xí.
“Có thể gần hơn như ở Thượng Hải”, người thầy bói nói. Sau khi nhìn thấy Peanut cười, bà ta nói thêm. “Đó là điều ta nhìn thấy. Giàu không thể tưởng tượng được. 5 con trai, tất cả đều hiếu đễ. Không có người vợ nào khác, em là người vợ duy nhất”.
Bà thầy bói đặt tất cả những miếng giấy, bài thơ lên trên một chiếc khay màu vàng cùng với tiền của Peanut trước tượng Phật Bà.
“Nào bây giờ thì không cần phải lo lắng gì hết”, người đàn bà nói rồi mỉm cười cầu tài với ta. “Còn em thì thế nào? Ta cũng nhìn thấy chồng tương lai của em.”
Sau đó bà ta nhìn lom lom vào mặt ta, lại nhìn gần hơn, miệng há cả ra. “Ái chà! Xem này có vấn đề đấy, ta có thể nhìn thấy nó ngay bây giờ ngay phía trên mắt em. Cái đốm đen này này, nó có thể làm cho mọi việc em nhìn thành ra đen tối”. Rồi bà ta chỉ vào cái vết đen nằm ngay trên mắt dưới lông mày. “Chị có thể điều chỉnh lại”, bà ta nói nhanh. “Tất nhiên chẳng dễ gì tìm ra bùa để giải vận xui. Nhưng chị có thể làm điều đó cho em, một biện pháp tức thì trước năm mới. Quyết định đi”. Bà ta viết ra số tiền mà ta phải trả.
Nhưng Peanut đã kéo khuỷu tay ta về hướng khác, bảo rằng nó nghe đâu có một quầy bán kẹo chocolate có hình 12 con thú trong 12 con giáp. Tất nhiên, ta cũng muốn nghe về tương lai của ta, muốn có được lá bùa thay đổi số phận của ta. Nhưng ta không thể gào lên trong đám đông giữa chợ, “Ê! Peanut đưa tiền cho tao, để tao cũng có thể kiếm được một người chồng tử tế cho mình”. Có thể bà thầy bói không làm được điều gì thay đổi số phận của ta. Có thể bà ta chỉ dùng đến một cái trò lường gạt thông thường nhất, chẳng có điều gì bà ta nói là đúng cả. Nhưng điều mà bà ta nói chắn chắn đúng với ta. Bất hạnh đang chờ ta, mà ta chẳng làm gì để ngăn cản cái đốm kia đang lớn lên trên mắt ta. Điều này cũng là sự thật. Peanut đã không cưới cái thằng con trai ở đây đã được dành cho nó trong quẻ bói đầu tiên. Nó lấy một người ở Thượng Hải. Còn ai là người đã được bà bói đuổi đi với một bài vè? Té ra cái người này lại chạy thẳng vào đời ta.
Không, ta không mê tín. Ta chỉ kể lại những chuyện đã xảy ra. Làm sao con có thể nói là vận may và cơ hội là một? Cơ hội là bước đầu tiên mà con chọn lựa, vận may là cái gì đến sau đó. Cơ hội của con chẳng có nghĩa gì, nó chẳng qua chỉ là cái cớ để con không phải đổ lỗi cho mình – một điều đã được nói ra, rồi một điều tương tự xảy ra. Chúng ta để lạc mất Gông, Gao và chúng ta tìm thấy Văn Phú. Ta chẳng làm gì khiến điều đó xảy ra, phải đây là những diễn biến tiếp theo.
Chúng ta lùng Gông và Gao ở khắp chợ. Peanut chửi rủa chúng như thể chúng nó ở quanh đây. “Mấy đứa con trai hư hỏng này, luôn luôn gây chuyện rắc rối. Tại sao chúng mày không nghe lời chị hai?” Chúng ta đi từ hàng này sang hàng khác để tìm chúng, không có khả năng để mắt dù chỉ một giây đến những món đồ nữ trang giả. Cuối cùng chúng ta tìm thấy chúng đang đứng trong một cái bãi ngoài trời cùng với mọi người chờ một vở kịch bắt đầu. Khán giả đứng trong một cái bãi được quây lại bằng dây thừng. Một cái băng rôn căng trên sân khấu có dòng chữ, “Vở kịch năm mới chào mừng vị thành hoàng, chào mừng những con nợ”.
“Mày nhớ chứ”, ta bảo Peanut “giống y hệt năm ngoái”. Bọn ta quyết định sẽ ở lại xem kịch cùng với hai thằng nhóc. Đó là vở kịch giễu nhại mà dân làng biểu diễn vào ngày 30 Tết mỗi năm, một phong tục cũ. Theo tục này, nếu có một ai đó nợ tiền con, con có thể đuổi theo họ đến cùng, bắt phải trả nợ. Nhưng điều này chỉ xảy ra vào cái giờ cuối cùng trong cái ngày cuối cùng của năm cũ. Sau đó ư, mọi việc trở nên rất xấu. Vì thế chủ đất, chủ nợ luôn luôn truy đuổi những người nghèo, vây bắt họ cho đến tối. Chỉ có một chỗ an toàn mà một người nghèo có thể đến ẩn náu là chỗ diễn ra vở kịch này, một vở kịch chào mừng vị thành hoàng. Một khi con còn đứng bên trong cái vòng dây thừng này thì không một ai dám đòi nợ con. Tất nhiên, sự thật là con vẫn phải trả hết nợ nần trước thềm năm mới. Đó là một bổn phận phải thực hiện. Còn vở kịch này được diễn cho vui thôi. Những người bên trong sợi dây chằng chưa chắc đã là những con nợ, họ tình nguyện vào trong vòng dây, trở thành một phần của vở kịch.
Ta vẫn có thể nhìn, nghe thấy những chuyện đó vào lúc này. Tiếng trống, thanh la và chũm chọe rộn ràng, các diễn viên trong những trang phục rẻ tiền xuất hiện trên sâu khấu. Một bà già bước ra, quét một cái chổi lúa, khóc cho đứa con bị mất, một tên cướp. Xa xa một con rồng đang cất mình lên khỏi mặt biển, đuôi của nó cuộn lên như sóng. Con rồng sà xuống vì nóng lòng muốn ăn thịt cả một tàu chứa những kẻ tham lam. Ở đây có hai đoàn ca kịch cùng biểu diễn gây một ấn tượng thật ghê sợ.
Bất thình lình những diễn viên ngừng lại. Một tên ăn mày trong bộ quần áo rách như tổ đỉa nhảy lên từ dưới khán đài, đi thẳng lên sâu khấu. Hắn đuổi theo bà già, con rồng nắm lấy cái chổi, rồi cái đuôi rồng kêu lên với một người nào đó phía sau. “Tôi không có tiền. Tôi xin thề!”
Một người khác lại từ đám khán giả chạy lên, giơ cao chiếc đèn lồng trên tay “Ah!” đám đông xì xầm, “tên chủ đất ác độc”. Hắn chạy ngang qua sân khấu, ba bốn lần suýt bắt được người ăn mày, túm vào tóc, vào tai, vào đuôi cái áo khoác te tua của người này nhưng lần nào người ăn mày cũng cố thoát ra được. Khán giả cười rộ lên vì sung sướng.
Nữ diễn viên đóng vai bà già giả vờ bực mình, “Dừng lại! Trật tự! Chúng ta biểu diễn một vở kịch quan trọng”, bà ta kêu lên trong khi hai người đàn ông xoay tròn quanh bà, bà ném cái chổi vào họ, nhưng bị trượt – binh! Nó rơi trúng đuôi con đồng. Một tràng cười nữa rộ lên! Người đàn ông nâng cái đuôi con rồng lên, xoa xoa cái đầu đau của nó rồi hỏi, “Ta ở đâu đây vậy?” Khán giả lại còn cười to hơn nữa.
Rồi nhiều tiếng la hét, “Tránh đường, đứng dẹp ra!” Hai người đàn ông đẩy khán giả lùi lại. Một lúc sau, người ăn mày chạy xuống sân khấu, an toàn trên mặt đất. Đám đông vỗ tay. Người chủ đất với cái đèn lồng trên tay bây giờ ở phía bên kia sợi dây, đứng dậm chân trong khi mọi người cười chế nhạo hắn.
Gông và Gao xem mãi không biết chán cho đến khi vở kịch được diễn thêm hai lần nữa, một người khác đóng thế vai tên ăn mày còn vẫn một diễn viên đóng vai chủ đất. Cuối cùng ông ta phát khùng lên làm chiếc đèn vỡ ra làm đôi rồi tuyên bố ông ta đi về nhà. “Quên món nợ đi”, ông ta la lên. Mọi người vui vẻ vì chiến thắng như thể họ chính là người thắng cuộc. Nhưng khi chuẩn bị đi khỏi, tên chủ đất bất thình lình quay lại hét lên với khán giả, “Ta đi về nhà đúng thế, nhưng tất cả các người nợ các diễn viên giỏi của chúng ta một đồng trong năm mới no đủ của các người đấy”.
Sau đó thì tất cả diễn viên ùa xuống chỗ người xem, chìa cái âu đựng tiền ra cho mọi người. Cái đuôi của con rồng quệt vào người Peanut, nó hóa thành Văn Phú. Chắc là hắn nghĩ rằng Peanut sẽ thưởng rất hậu, căn cứ vào cách hắn nhìn bộ quần áo đẹp của Peanut, cách hắn gọi nó là “tiểu thư hào phóng”. Để ta nói cho con nghe, hắn không phải là loại người mà con sẽ nói ngay: “Ôi người này đẹp trai quá. Ta sẽ lấy chàng”. Không, không giống như cha con. Nhưng Văn Phú có một điều gì đó làm cho mắt con phải dõi theo hắn từ cái nhìn đầu tiên, một kiểu cách tự tin một cách khác thường, rất táo bạo ngang tàng. Khi hắn nói, “quý tiểu thư hào phóng” giọng hắn có vẻ thành thực, trong khi khuôn mặt hắn lại thể hiện cái gì châm chọc: đôi mắt rùa nháy chầm chập nhưng không nhìn đi chỗ khác, một nụ cười tươi tắn trên môi. Hắn ta – con sẽ nói thế nào nhỉ - rất quyến rũ.
Ở đây có những điểm khác mà ta thấy ở hắn, điều mà sau này Peanut nói là nó cũng nhận ra – những dấu hiệu cho thấy hắn lớn lên trong một gia đình khá giả nề nếp, rằng hắn rất mực phong nhã, một người mà con không thể coi thường. Bộ đồ đang mặc rất hợp với hắn, mọi thứ đều vừa khít tay chân hắn. Hắn bận một bộ Âu phục, một cái áo sơ mi cổ rộng, mở hàng cúc trước ngực, quần tây có dây lưng, có chiết li ở bụng. Tóc hắn dày, lông mày thon gọn, nom đẹp như hai nét vẽ bằng mực tàu. Hắn có một hàm răng chắc khỏe, đều tăm tắp, không một cái nào bị sứt.
Hắn chìa ra một cái âu nhỏ đựng tiền “Không phải cho tôi” hắn giải thích một lần nữa bằng cái giọng dịu dàng, thành thực. “Mà là cho bệnh viện mà chúng tôi đang xây ở phía Nam của hòn đảo này”. Đôi lông mày hắn nhướng lên trong một cái nhìn ân cần. Hắn nhìn Peanut rồi nhìn ta. Tất nhiên ta quá mắc cỡ vì ta không có tiền bạc để cho hắn. Vì thế ta ném cho hắn một cái nhìn nghiêm nghị, như bảo hắn không nên làm phiền chúng ta.
Peanut cười với hắn. “Múa rồng vất vả nhỉ?” nó nói, thả vào âu mấy đồng bạc cắc, cả hai chúng ta đều quay đi. Nhưng lúc đó Văn Phú gọi Gông và Gao. “Này các em, anh có tiền lì xì cho các em này”. Hắn móc hai bao lì xì màu đỏ ra khỏi túi, đưa cho mỗi đứa một cái. Một lát sau hai đứa moi ra một cái kẹo đóng hình đồng tiền, bọc trong giấy vàng. “Tiền thật chứ?” Gao kêu lên, giơ lên về phía mặt trời, quan sát cái vẻ sáng choang của nó. Chúng cho đồng xu vào trong bao lì xì với vẻ trân trọng hơn.
“Cảm ơn chú!” chúng nói.
“Các em có thấy anh múa đuôi rồng giỏi như thế nào không?” Văn Phú hỏi, còn chúng thì gật đầu bẽn lẽn, rồi mỉm cười. “Có thể các em thích xem cả con rồng?” Vẻ bối rối biến mất, chúng nhảy tưng tưng, chạy lên sân khấu. Văn Phú nhìn Peanut, sau đó nhìn ta, rồi nhún vai như thể hắn không còn cách nào khác.
Suốt buổi chiều hôm đó Văn Phú đi theo chúng ta. Đúng ra là hắn dẫn bọn con trai đi xem những trò khác – một cuộc đá gà, một trò chơi với những thuyền gỗ bị đánh chìm bởi bom cát, một quầy hàng thông báo là có bán răng hổ - hai chúng ta chỉ theo sau. Tất nhiên đầu tiên chúng ta phản đối, nói rằng “Không, không. Anh đã gây cho chúng tôi quá nhiều rắc rối rồi”. Nhưng ta nghĩ cả hai chúng ta đều thầm nghĩ là hắn rất thú vị. Chúng ta thở dài cũng như chúng ta cười khúc khích bởi vì chúng ta không biết phải thể hiện nỗi phấn khích tuổi mới lớn như thế nào.
Hắn xách đồ cho chúng ta, tiêu hết tiền của hắn cho bọn con trai. Sau đó hắn cố mua quà cho Peanut và ta, vài món xa xỉ mà hắn thấy chúng ta nhìn một cách thèm muốn như một con rồng giấy trên một sợi dây, một cái kẹo chocolate có hình con cừu mà Peanut đã để mắt tới. “Anh đừng có mua”, chúng ta phản đối. Hoặc có thể chỉ có ta phản đối. Còn Peanut thì chỉ cười.
Con thấy đấy, ta chưa bao giờ nhận được món quà nào từ Văn Phú. Nhưng Peanut thì có. Nó nói nó sẽ bảo mẹ mua những món ấy, món ấy cho nó với giá rẻ. Nhưng ta biết không phải như vậy, đó chỉ là một cách màu mè để kiếm chác một cái gì đó từ người đàn ông. Có nhiều câu tục ngữ về điều đó như là: Ăn một cái kẹo, nuốt cay đắng cả đời. Ăn kẹo cấm dạ dày nổ tung.
Ta có thể thấy những câu tục ngữ ấy đều đúng. Có một cái gì đã xảy ra. Văn Phú nháy mắt với Peanut, đôi lông mày đẹp như vẽ nhảy múa. Cả buổi chiều diễn ra như thế.
Có một câu thành ngữ của Mỹ nói về những điều mà Văn Phú đã làm với Peanut: Hắn liếm gót cô ta. Đó là điều mà hắn đã làm, chính xác là như thế. Cuối cùng khi Peanut ca cẩm rằng chân nó nhức như hai cục than nóng bỏng, hắn liền tìm đến một người nông dân, thuê của ông ta một chiếc xe đẩy giá một vài xu. Rồi hắn trải chiếc áo khoác của hắn vào trong xe, mời cô em họ cười khúc khích như điên của ta lên xe để đưa nàng về nhà trong một cái kiệu mới. Trong lúc đẩy xe đưa Peanut về nhà, hắn hát cho nó nghe, những bài vui, buồn, những bài hát về những khu vườn bí mật và những cung điện âm u.
Ta cứ hỏi mình suốt, “Phải chăng đây là những lời lẽ từ trong cuốn Kim Bình Mai?” Vào lúc đó bao nhiêu phấn trắng trên mặt Peanut rơi lả tả trên áo khoác của nó. Ta có thể thấy đôi má nó cũng ửng hồng như má ta. Nó rất hạnh phúc. Ta cũng phải thừa nhận điều này. Ta cảm thấy đau nơi ngực, một cảm giác thật tồi tệ.
Con đã thấy hắn như thế nào chưa? Bao giờ cũng trổ ra bằng một cung cách thật đẹp, hắn là một nghệ sĩ trong ngày hôm ấy. Hết sức lôi cuốn. Nếu hắn là người đàn ông đàng hoàng, trong khi tìm một chiếc xe đẩy, hắn phải kín đáo trả tiền cho người chủ xe, không để chúng ta thấy. Hoặc hắn phải biểu lộ mối quan tâm bằng cách mời chúng ta nghỉ một chút, đưa chúng ta vào một quán nước uống một cái gì đó giải khát. Hắn không nên nhận xét về bàn chân của em họ ta mong manh làm sao, hèn chi mà chúng chẳng mau mỏi. Một người tử tế không bao giờ quá thiên vị đổ đầy trái tim cô gái này lòng tự hào và cô kia lòng ghen tị. Dù thể hiện bất cứ sự quan tâm nào, thì hắn cũng không nên đòi hỏi cô gái kia phải đáp đền.
Nhưng Văn Phú thì đòi hỏi. Hắn đẩy Peanut về nhà. Hắn nhìn thấy ngôi nhà to của chúng ta. Hắn nhìn thấy những câu đối Tết. Hắn đề nghị bốn ngày nữa sẽ đến chơi, vào ngày mùng ba Tết, để bày tỏ lòng kính trọng của hắn đối với Peanut, gia đình nó, tất nhiên là cả với ta nữa.
Ngày hôm sau là ngày đầu năm. Ai cũng cố tỏ ra phấn khởi và tốt bụng trong khi chúc tụng nhau. “Đông con nhiều cháu”, “Phúc như Đông Hải, thọ tựa Nam Sơn”, “Thăng quan tiến chức”, “Phát tài phát lộc”… Những câu chúc đại loại như vậy, chẳng có ý nghĩa gì nhưng nghe cũng vui tai.
Bọn đầy tớ đặc biệt vui vẻ vì chúng không phải làm gì trong ngày mùng Một Tết. Tất cả đồ ăn đã được nấu nướng xong, không được đụng dao thớt, không một lời gay gắt nào được thốt ra. Chúng ta ăn đồ ngọt và những món đồ nguội.
Peanut và ta nói chuyện về Văn Phú, tự hỏi không biết ba ngày nữa hắn có đến không. Chúng ta không biết hắn sống trong ngôi nhà như thế nào ở phía bên kia hòn đảo. Chúng ta tự hỏi không biết mẹ hắn có tốt đến mức không thể tin được không? Ta không nói gì với Peanut về bài vè mà nó dùng để xua đuổi cuộc hôn nhân với một người sở tại. Sáng hôm sau Peanut thức dậy, kêu lên là nó phải từ chối không tiếp Văn Phú. Làm sao mà nó có thể gặp hắn được? Hắn đã gặp nó trong lúc nó trang điểm thật đẹp, phấn trắng, son đỏ và bộ quần áo cầu kì nhất. Nó không thể trang điểm, ăn mặc như thế trước mặt cha mẹ. Nó không thể để Văn Phú nhìn thấy cái mặt mộc mạc của nó. Ta cố an ủi Peanut rằng Văn Phú sẽ thấy nó còn quyến rũ hơn với cái vẻ đẹp tự nhiên của nó. Ta không nói điều đó chỉ vì lòng tốt. Điều đó là đúng. Nếu hắn thích nó trong khi nó trông thật kệch cỡm thì tại sao hắn không thích nó với khuôn mặt tự nhiên?
Nhưng ta không thể thuyết phục được Peanut, khi Văn Phú đến, nó trốn đi. Nó vẫn ở đấy, tất nhiên rồi, ngắm nghía hắn từ chỗ núp khác nhau: Trên cầu thang, sau cánh cửa trong một căn buồng tối qua cửa sổ nhà kính.
Khi thím Lớn, thím Nhỏ gặp Văn Phú, hắn nói với họ bằng một cái giọng thật như đếm, “Dì, dì, con, con” như thể đó là một cuộc hội ngộ vui vẻ. Đầu tiên họ ngỡ ngàng. Họ chịu không nhớ được hắn là ai. Hắn biếu họ một lẵng trái cây đắt tiền. Hắn chuyển lời chào kính trọng của cha mẹ hắn đến gia đình, đặc biệt là từ mẹ hắn, một người hình như là chỗ quen biết lâu năm của thím Lớn. Cuối cùng thím Lớn cũng nhớ ra. Bà vật lộn với trí nhớ cho đến khi bà phát hiện ra, “Ah, cháu là con của bà Văn phải không? Lần trước ta gặp cháu cháu còn nằm trong nôi”.
Ta nghe, cười khúc khích. Nếu như có một lúc nào đó trong suốt cuộc đời ta, ta có những cảm xúc tốt đẹp dành cho hắn thì chính là lúc đó, có thể có thêm một vài khoảnh khắc nữa. Hắn thật táo bạo, khôn ngoan, vui tính, liều lĩnh.
Vì thế con thấy đấy, ngay cả bây giờ ta cũng vẫn nhớ một vài điều tốt đẹp về hắn đấy chứ.
Thật may cho Văn Phú, nhà ta lúc đó bỗng tràn ngập hàng trăm người khách, tất cả đều là người làng, đến để ăn niên cao, một loại bánh nếp có cái tên nghe như khi con nói “Chúc mừng năm mới”. Vì thế nếu thím Lớn, thím Nhỏ bối rối vì cuộc viếng thăm của Văn Phú thì nó cũng được xem là bình thường. Quá nhiều người nhớ sao cho xuể.
Trong lúc ta múc ra tô những chiếc bánh hấp nghi ngút khói thì Văn Phú đến chỗ ta. “Cô ấy đâu?”
“Nó ngượng”, ta bảo.
“Cô ấy không thích tôi hả?” Hắn hỏi. Đôi lông mày chau lại nhưng miệng lại mỉm cười. “Chỉ ngượng thôi”, ta lại nói. Có vẻ như không đúng mực nếu thừa nhận rằng Peanut thích hắn.
“Tại sao bỗng dưng lại ngượng?” hắn hỏi vẫn với một tiếng cười. “Cô nghĩ là cô ấy thích tôi phải không?” Sau đó hắn quay sang ta. “Cô không ngượng. Có nghĩa là cô không thích tôi? A ha, có phải thế không?” Hắn nhìn ta trêu ghẹo.
Ta suýt nữa thì không trả lời hắn, “Tôi không phải như vậy – ngượng ngùng cái gì”.
“Vậy có lẽ cô cũng thích tôi chăng?” hắn nói huỵch toẹt.
“Ngượng ngùng không có nghĩa là thích hay không”, ta đáp.
Cứ thế chúng ta đối đáp theo kiểu ấy, cho đến khi tim ta nhức nhối vì cố tỏ ra lịch thiệp, vì cố trốn tránh những câu hỏi giăng bẫy của hắn ta. Cuối cùng hắn móc trong túi ra một cái phong bì.
“Em gái, cô đưa giùm cho cô ấy nhé,” hắn nói. “Làm ơn bảo cô ấy trả lời tôi ngày mai”. Rồi hắn bỏ đi.
Peanut chứng kiến tất cả cảnh này vì vậy khi Văn Phú đi khỏi nó chạy bổ nhào từ sau cánh cửa bếp, giằng lấy lá thư từ tay ta.
“Y viết gì vậy?”, ta hỏi. Ta cảm thấy mình có quyền đòi hỏi được đọc lá thư đó. Ta đã giúp Peanut rất nhiều. Nhưng nó lại lấy vai che lá thư, bảo vệ nó khỏi ánh mắt của ta như con gà mẹ xòe cánh che chở cho đàn con. Nó cười ngặt nghẽo, cắn cắn ngón tay, rồi nắm chặt tay, rồi kéo kéo một lọn tóc.
“Y nói gì vậy?”
Peanut nhìn ta, “Ảnh cần câu trả lời vào ngày mai”, nó nói, “bảo với anh ta tao chưa trả lời đâu. Bảo ảnh đợi”. Rồi nó bỏ đi. Thế là từ đó ta giúp Peanut, Văn Phú mang thư tình của nọ trao đi đổi lại, đưa họ đến chợ, đến giữa đường. Ta giúp họ thiệt tình. Ta chẳng mảy may có ý định cướp Văn Phú khỏi tay Peanut. Ta thề như thế. Ta không nhớ điều này có khác với việc đổ lỗi cho mình không. Mỗi lần ta đưa thư cho Văn Phú ta lại tả về Peanut. Ta bảo hắn nó mặc áo màu gì ngày hôm ấy, màu hoa hồng cùng với màu má của nó. Ta thuật lại nó trang điểm cho mái tóc như thế nào, đang gầy đi vì tương tư ra sao.
Tất nhiên chẳng có điều gì trong đó là đúng hết. Ta chỉ dùng trí tưởng tượng của mình để nói về tất cả những điều ngu xuẩn này, chuyện tương tư của các cô gái đang yêu xưa nay.
Vậy thì tại sao ta lại đi đến chỗ cưới hắn? Đôi khi ta nghĩ ta sẽ hỏi Peanut. Nếu vẫn còn sống ở Trung Quốc cho đến hôm nay cô ta hẳn sẽ đồng ý với ta, ta biết chắc điều đó. Ta đã không làm gì khiến Văn Phú để mắt đến ta, chẳng làm gì hết. Văn Phú đã thay đổi ý định.
Ta có một trái tim nhân hậu, giống như con. Ta rất ngây thơ, cũng như con. Vì vậy con có thể hình dung được mẹ của con ngày xưa như thế nào: một cô gái lẻ loi, một cô gái chẳng trông mong vào ai, lại ao ước quá nhiều. Rồi bất thình lình một người đi đến gõ cửa nhà ta – mà hắn ta lại quá quyến rũ, một lí do để mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ta có thể làm gì khác? Ta mời hắn vào.