Chương 7 CỦA HỒI MÔN
Chắc con nhớ là Helen bao giờ cũng bảo với mọi người rằng dì là phù dâu của ta. Dì ấy bảo là đám cưới của ta thật linh đình theo lối truyền thống.
Điều đó đúng. Duy có điều dì ta không có ở đấy. Chỉ có Peanut, với khuôn mặt trắng phớ như thạch cao, đôi môi đỏ như đít khỉ, nụ cười toe toét cứ như thể nó thực sự vui với hạnh phúc của ta.
Nhưng một tháng trước đám cưới của ta con phải thấy Peanut mới được, nó như điên như dại mỗi khi trông thấy ta. Nó nói rằng ta có lỗi trong chuyện Văn Phú cưới ta chứ không phải là nó. Nó giả vờ không thèm nghe ta khi ta nhắc nó nhớ rằng ta đã giúp hai người như thế nào. Điều đó đúng, ta tiếp tục đưa thư cho họ, những lá thư mà Peanut cất ở hộp trang điểm của nó. Ta bảo Văn Phú chỗ giấu xe đạp của hắn. Ta dẫn hắn đến chỗ Peanut để họ có thể tình tự suốt hai tiếng trong lúc mọi người ngủ trưa sau bữa ăn. Ta đứng ngoài cửa canh thím Lớn thím Nhỏ trong lúc hai người hôn nhau.
Tất nhiên ta không chứng kiến cảnh này, cái màn hôn hít ấy. Nhưng ta biết họ làm gì – hôn nhau như những kẻ tương tư phát điên phát cuồng lên vì yêu – bởi vì khi họ chui ra khỏi những cái nồi vỡ, mặt và cổ Peanut đầy những vết đỏ, những chỗ mà đôi môi của Văn Phú ịn lên. Còn miệng của Văn Phú thì ngoe nghoét những vết son của Peanut, hai má hắn đầy những phấn là phấn. Trông hắn giống một kép hát. Ta nhìn theo hắn khi hắn lôi cái xe đạp ra với một nụ cười rộng ngoác đến mang tai đầy thỏa mãn.
Sau đó ta giúp Peanut lau sạch dấu vết của những nụ hôn, rửa sạch son phấn. Ta la nó, “Sao lại để cho y hôn? Mày chỉ nên nói chuyện hay để cho y nắm tay là cùng thôi chứ”.
Thật là kinh khủng khi chìa miệng ra cho một thằng con trai mà cha mẹ không biết hôn hít. Tất nhiên, nó không tệ hại như chìa ra những phần khác trong cơ thể.
“Tao thích thế”, Peanut nói, có một cái gì rất tục tĩu trong nụ cười của nó.
“Cái gì! Mày thích hôn à, vậy là mày ném cả danh dự của gia tộc đi chỉ để thỏa mãn dục vọng của bản thân mày sao? Cũng giống như hai con chó ngu ngốc, chạy tớn lên ngửi vào đít nhau ấy!”
Nhưng trong lúc ta kì cọ mặt cho Peanut, nó vẫn tiếp tục mơ màng về Văn Phú, nói với ta là hắn đã khen ngợi đôi má mịn màng, đôi tay nhạy cảm của nó như thế nào. “Ái”, nó kêu lên quang quác, “mày lột cả da mặt tao rồi đây nè!”
“Lỗi tại mày”, ta nói, “cái vết này nó không đi cho. Y cắn vào cổ mày như con nhện ấy. Bây giờ thì mọi người đều thức dậy cả rồi. Lại rắc rối cho coi”.
Peanut chỉ cười sằng sặc, với lấy cái gương và nói, “Đâu, tao xem nào. Ôi, xem ảnh làm gì này”. Nó kéo cổ áo lên, cười tí ta tí tởn to hơn nữa.
Nó đã không biết đến một điều là ta đã hết sức liều lĩnh giúp nó. Nó biết rằng nếu mẹ nó phát hiện ra chuyện thì ta sẽ gặp nguy hơn là nó. Peanut ít tuổi hơn ta, ta có trách nhiệm về những hành vi đạo đức của nó. Ta thật sợ hãi khi nghĩ đến việc thím Lớn, thím Nhỏ sẽ làm gì với ta.
Tất nhiên, chắc con không hiểu được điều này, tại làm sao ta lại phải bị rắc rối vì Peanut chứ, tại sao ta phải sợ. Ở Trung Hoa ngày xưa, con luôn phải chịu trách nhiệm về một ai đó. Không giống như ở đây, ở nước Mỹ này – tự do, độc lập trong những suy nghĩ của mỗi cá nhân, làm cái điều mà con muốn, không cần vâng lời cha mẹ. Ở Trung Quốc không có những chuyện đó đâu. Chưa từng có ai nói với ta, “Ngoan nhé, bé con, ta sẽ cho con một cục kẹo”. Con không bao giờ được thưởng vì ngoan ngoãn, mà con buộc phải ngoan ngoãn. Nếu con làm điều gì không tốt – gia đình con sẽ làm bất cứ điều gì trừng phạt con không cần viện lý do gì cả.
Ta vẫn nhớ những lời đe dọa, “Mày có muốn bị đuổi đi vĩnh viễn rồi thành ăn mày như mẹ mày không?” “Mày có muốn mắc một chứng bệnh khủng khiếp sẽ ăn hết cái mặt mày, giống như mẹ mày không? Từ ngày ta đến sống ở cái hòn đảo này thím Lớn luôn nói với ta những điều như thế - cũng chẳng thành vấn đề nếu như nó vô nghĩa. Ta chẳng biết điều gì đã xảy ra cho mẹ ta – có phải bà đã chạy khỏi cuộc hôn nhân theo cái kiểu mà Peanut nói không, có phải bà chết vì một căn bệnh quái dị như là cha ta đã nói, có phải bà bị tống cổ khỏi nhà vì bà đã chọc giận cha ta với một vài lí do chưa rõ, như người ta vẫn thì thầm với nhau khi họ nghĩ là ta không nghe thấy? Khi ta mới đến đây, thím Lớn chỉ cần nhắc đến tên của mẹ là nước mắt đã dàn dụa trên mặt ta.
Sau này ta không khóc nữa. Ta cố không nhớ mẹ ta thật da diết hoặc là dập tắt cái hi vọng đã một lần le lói trong ta rằng một ngày kia mẹ ta sẽ trở về với ta. Thế là thím Lớn nghĩ ra những câu đe dọa mới làm cho tao sợ. Một lần thím dẫn ta và Peanut đến chơi một gia đình ở Thượng Hải. Bà chỉ vào một đầy tớ gái đang quét sân.
“Nhìn cô gái đáng thương này”, thím Lớn nói với giọng thương cảm. Cô gái bận một chiếc quần rách tươm quá ngắn so với đôi chân còm nhom của cô. Đôi mắt vô hồn. Thím Lớn nói rằng cô gái này bị cha cô bán làm nô lệ vì cô cư xử chẳng ra gì sau khi mẹ cô chết.
Còn những lời dọa nạt khác nữa. Khi thím Lớn nghĩ là ta có vẻ chưa sợ hãi đúng mức – khi ta không cúi gập người đúng cách, không cần xin được tha thứ - bà sẽ bạt tai ta. “Thật là bất trị, thật là hỗn hào! Có gia đình nào muốn cưới mày làm con dâu chứ? Có thể tao sẽ gả mày cho lão già thối sửa giày!”
Bà bóng gió đến một lão già kiết xác làm nghề sửa giày dạo đi từ nhà này sang nhà kia, cái người mà cả hơi thở và thân thể bốc lên một mùi kinh tởm như những đôi giày cũ kĩ mà lão sửa lại, rao bán. Ta nghĩ tất cả các bà mẹ ở đây đều dọa sẽ gả con gái họ cho lão sửa giày. Nếu tất cả những cô gái này đều phải vâng lời, như vậy, lão có thể có đến 20 bà vợ.
Ta không nghĩ thím Lớn nói những điều này vì ác nghiệt đối với ta hay vì thói dọa dẫm vô duyên cớ. Ta không quá hào hiệp để nói thế. Dọa trẻ con là một truyền thống trong những gia đình cổ lỗ như gia đình ta. Mẹ của thím Lớn chắc chắn cũng làm thế với thím khi thím còn bé, đưa ra những lời đe dọa về một cuộc sống quá kinh khủng cho trí tưởng tượng được – cũng như đưa ra gương những đứa trẻ vâng lời quá dễ bảo để có thể là sự thật. Đó là cách dạy dỗ trẻ cho ngoan ngoãn. Đó là cách con tống những suy nghĩ ích kỉ ra khỏi cái đầu ngu ngốc của chúng. Đó là cách con chứng tỏ con quan tâm đến tương lai của chúng, dạy chúng phải giữ nền nếp lề thói trong gia đình.
Đó là lí do tại sao ta lại sợ cho mình vào cái ngày ấy trong nhà kính. Peanut hư hỏng làm sao khi để cho Văn Phú hôn hít nó. Nó cũng sẽ bắt ta phải trả giá bằng cả tương lai của ta. Vì thế tất nhiên, lần sau khi Peanut nhờ ta mang thư đến cho Văn Phú ta từ chối.
“Mày tự mang đi”, ta nói. “Tao không muốn làm trạm liên lạc giữa chúng mày nữa”. Peanut khóc lóc, van xin rồi réo tên ta mà chửi. Nó không nói chuyện với ta suốt ngày hôm đó. Ta nghĩ ta phải kết thúc những rắc rối của mình. Làm sao ta có thể biết được ta chỉ làm cho nó tệ hơn?
Sau đó ta phát hiện ra là Văn Phú cũng giận ta. Hắn chờ ta hằng giờ ngoài đường để lấy thư. Khi ta không đến ngày hôm sau, hôm sau nữa thì hắn không đợi nữa. Hắn tìm ra một trạm trung chuyển thực sự, một người không những đưa thư mà còn đứng ra mai mối.
Con thấy đấy, Văn Phú quyết định phải cưới Peanut không phải vì hắn yêu nó một cách chân thành – mà vì gia đình nó. Thật thế, hắn chẳng có gì khác với hầu hết những người đàn ông thời đó. Cưới xin trong những ngày ấy giống như mua một điền sản. Ở đây, con có thể nhìn thấy ngôi nhà mà con muốn sống ở đấy. Thực ra con chỉ cần tìm đến một người môi giới bất động sản. Ở Trung Hoa, nếu con biết một gia đình giàu có chỉ có một con gái, con phải tìm đến một người môi giới, một người biết cách làm ăn trong những chuyện như vậy.
Bà mối mà hắn tìm đến là một bà già tên là thím Mao. Bà này nổi tiếng vì mát tay, tìm đúng chồng đúng vợ cho từng cặp sao cho họ sinh ra thật nhiều con trai. Bà đã mai mối việc hôn nhân cho hai con gái của thím Lớn mấy năm trước. Còn bây giờ thì ta nghĩ rằng bà Mao cũng là người giúp thím Lớn đuổi đi một người con trai của gia đình họ Lĩnh mà ta chưa bao giờ gặp, nhưng anh ta lại là người mà lẽ ra ta phải lấy làm chồng. Nhưng trước khi ta có thể nuôi hi vọng thì cơ hội đã vuột mất.
“Họ không có tiền của gì”, bà Mao nói với thím Lớn. Ông bố thì có học thật đấy. Nhưng mà để làm gì? Ông ta thậm chí chẳng có lấy một cái chân cạo giấy thấp kém nhất. Hãy nhìn bà vợ ông ta mà xem, gần 40 tuổi rồi còn đẻ con. Chẳng có đạo đức, chẳng biết mắc cỡ là gì cả”.
Nhưng đó không phải là lí do chính bà Mao không thích họ Lĩnh. Nguyên nhân chính và thực sự là một mối cừu hận từ bao nhiêu năm trước. Peanut nghe lén cha nó nói về điều này, về việc họ Lĩnh đã có hôn ước với một cô gái ở địa phương. “Một vài tháng trước khi cưới”, Peanut nói, “con trai nhà họ Lĩnh bỏ chạy, cưới một cô gái ở Thượng Hải – cưới vì tình, chuyện là thế đấy! Tất nhiên gia đình họ Lĩnh bắt cô gái ở Thượng Hải theo phận làm thiếp còn thì cô gái ở đây mới là chính thất. Nhưng thế coi sao được, chàng trai ghét người vợ chưa cưới đến mức anh ta lấy người thiếp thay vì lấy cô gái nọ”. Kể đến đấy Peanut cười, “Cô gái ấy không phải ai khác chính là bà Mao. Mất mặt, tức uất người – bà ta phải đợi đến ba năm sau mới có người rước đi cho”.
Cũng cái bà Mao ấy giờ đây thường xuyên ghé qua nhà ta chơi, trò chuyện với thím Lớn, thím Nhỏ, đưa chuyện trong làng, người nào bệnh, người nào vừa nhận được thư từ ngoại quốc, con ai hư hỏng bỏ nhà trốn đi làm cách mạng…
Trước mặt bà, Peanut và ta gọi bà ta là bà Mao Mao. Sau lưng, chúng ta gọi là Ngao Ngao bởi vì bà giống như một con mèo, đôi tai bà cứ vểnh ra mọi hướng, sẵn sàng nhảy lên vì một điều thầm kín nào đó.
Ta chắc là bà Ngao đã rỉ tai với Văn Phú mọi điều bí mật về gia đình chúng ta rằng chú ta có một cơ sở làm ăn tốt như thế nào nhưng ông cũng bị mất đi nhiều hợp đồng. Làm cách nào mà thím Nhỏ trở thành vợ hai của ông, một người vợ làm ông rất mãn nguyện. Làm thế nào mà thím Lớn lại là vợ cả của ông, một người mà ai cũng phải chiều lòng bà, rằng Peanut là đứa con gái út, là cục cưng của cả nhà. Rằng ta là chị họ của Peanut, được đưa đến đây khi mẹ ta biến mất – bị giết hay bị bắt cóc bởi bọn thảo khấu, chết mất xác dưới biển hay bị chôn trong lòng đất thì không ai rõ. Cái chính là ta là con gái của một người giàu đến nỗi có thể mua ngôi nhà đẹp nhất, sang nhất ở cái làng Cửa Sông này vì ông ta còn có nhiều hơn rất nhiều ở Thượng Hải. Ta biết Văn Phú phải hỏi những điều này bởi vì đây là điều xảy ra tiếp theo đó.
Chẳng bao lâu sau khi ta từ chối mang thư cho họ, bà Mao gõ cửa nhà chúng ta cùng với cha mẹ Văn Phú. Buổi chiều hôm họ đến, Peanut bị kích động đến nỗi nó suýt làm đổ bình trà khi nó mời họ dùng trà. Nó cười ngặt nghẽo làm cho thím Nhỏ phải la nó hai lần vì không rót thêm trà cho chú ta. Nhưng ta thấy mẹ của Văn Phú không để mắt đến Peanut và cung cách ngớ ngẩn của nó. Bà ta lại nhìn ta dò xét.
Bà ta hỏi có phải ta tự may lấy quần áo không. Bà ta xem đường chỉ nơi ống tay áo của ta đoạn nói rằng chuyện may vá của ta không đến nỗi tồi nhưng cần phải cải thiện… Bà ta hỏi về nước da xanh xao của ta – có phải là màu sắc tự nhiên của ta không hay là ta mới ốm dậy? Tại sao ta lại lặng lẽ như vậy? Ta có bị ho không? Ta có dễ dàng bị mệt không? Ngày hôm sau thím Lớn, thím Nhỏ sang thăm nhà họ Văn ở phía bên kia hòn đảo. Peanut quá phấn khởi, nó đã quyết định sẽ mặc áo cưới kiểu phương Tây. Ngày hôm sau nữa, thím Lớn thông báo một lễ ăn hỏi với gia đình nhà Văn không phải cho Peanut mà cho ta. Ta không trả lời có hay không. Chẳng ai hỏi ta cả bởi vì ta không có quyền lựa chọn.
Tất nhiên ta chẳng chắp tay lại cám ơn các bà thím của ta vì đã hoạch định một tương lai tốt đẹp cho ta. Ta cũng chẳng giam mình trong phòng, không ăn cho đến ngất xỉu đi, dọa tự vẫn, điều mà các cô gái vẫn làm khi gia đình chọn cho họ những người chồng không vừa ý.
Nếu con hỏi ta cảm thấy như thế nào khi nghe người ta bảo là ta sẽ lấy Văn Phú, ta chỉ có thể nói điều này: cứ như là ta được bảo cho biết, ta đã thắng một giải thưởng lớn. Cũng như là ta được báo là đầu ta sắp sửa lìa khỏi cổ. Một cái gì lẫn lộn giữa hai cảm xúc đó.
Sau thông báo này ta vẫn ngồi ở bàn mặt mày ngơ ngác, quá bối rối để nói ra bất cứ điều gì. Peanut buột miệng. “Tại sao Vi Vi lại cưới?” Nó hỏi.
Thím Nhỏ hiểu câu hỏi của con gái theo nghĩa tốt, “Đừng có ích kỉ thế con! Chị ấy vẫn có thể đến thăm con thường xuyên. Nhưng bây giờ chị ấy phải lấy chồng, ra ở riêng. Chị ấy là lớn nhất. Chị ấy cũng đến tuổi lấy chồng, ít hơn chồng năm tuổi là tốt. Sau này con có thể đến chơi nhà chị ấy”.
Ta ngồi im lặng, cố hình dung Văn Phú trong vai chồng ta. Ta thấy mình chạy ra ngoài đường gặp hắn theo cái cách mà Peanut vẫn làm. Chỉ có điều bây giờ hắn hôn ta chứ không hôn Peanut. Hắn cười nham nhở. Hắn cũng bảo ta rằng ta có đôi má rất dễ thương màu của hoa hồng giống như chiếc váy mà ta đang mặc. Hắn cũng đưa cho ta một lá thư tình. Ta có thể cảm thấy trái tim ta đập thình thịch vì nóng lòng muốn đọc thư hắn. Ta nhìn Peanut vẫn trề môi ra không thể nói lên lời, sự tức tối của nó thoát ra đằng mũi phì phì giống như một con rồng đang quật đuôi. Nó không biết giấu cảm xúc như ta. Đến lúc đó ta nhận ra rằng ta đã giấu những xúc cảm của ta thật lâu thật giỏi. Thậm chí tự ta cũng không nhận ra được nữa – cho đến lúc này. Tất cả những lần ta giận dữ cáu kỉnh với Peanut vì đã để cho Văn Phú hôn má – Bây giờ ta biết. Ta muốn hắn cho chính mình. Không, đó không phải là tình yêu! Đó không phải là điều ta đang nói, không phải một điều như thế, đó là một loại hi vọng ngu xuẩn. Một cái gì để hi vọng cho chính mình.
Con không tin ta ư? Dì Helen không kể cho con nghe chuyện này ư? Phải, bà ta muốn thế lắm. Ta đã ngăn bà ấy lại. Ta biết nếu bà ấy kể cho con nghe thì mọi chuyện sẽ trở nên sai lạc trầm trọng. Bà ấy sẽ nói với con. “Mẹ con yêu say đắm, một tình cảm lãng mạn làm sao”.
Nhưng con biết dì ấy rồi đấy. Nếu một cái gì đúng, dì ấy nghĩ ngược lại. Cũng giống như cái u não, dì ấy chẳng có u iếc gì sất. Ta cũng bảo thế nhưng dì ấy đâu có nghe ta. Dì ấy nghĩ ta nói thế chỉ để tỏ ra tử tế. “Tại sao tôi phải tỏ ra tử tế?” ta hỏi dì. “Bởi vì tôi sắp chết”, Helen nói. Làm sao con có thể tranh luận với một người như dì chứ?
Đó là lí do tại sao ta kể cho con nghe câu chuyện này chứ không phải dì Helen và con phải tin ta bởi ta là mẹ con. Ta không yêu Văn Phú, ngay từ lúc ban đầu. Tất nhiên ta hạnh phúc, nhưng chỉ bởi vì ta nhìn đám cưới của ta như một cơ hội mới. Mặc dù có thể ta đã lẫn lộn hạnh phúc với tình yêu hoặc chỉ một chút lẫn lộn. Vài ngày sau thông báo trên, ta nghe các bà thím dặn dò một cách cẩn thận, giữ cho đầu ta cúi xuống trong một vẻ cung kính. Ta nghe họ bảo rằng gia đình họ Văn tốt như thế nào, ta may mắn ra làm sao. Thím Lớn nói gia đình bên chồng chấp nhận ta mặc cho tai tiếng của mẹ ta. Họ bảo ta rằng nhà họ Văn điều hành công việc buôn bán với nước ngoài, rằng Văn Phú sẽ giúp cha ta và chú ta bán lụa, bông của gia đình ta ra nước ngoài. Hắn đã hứa hẹn điều này. Họ cũng nói rằng mẹ của Văn Phú là một người toàn tài: một thợ may, một họa sĩ vẽ tranh tứ bình, một đầu bếp tuyệt vời, một người quản lý rất giỏi việc nhà. Bà sẽ dạy ta rất nhiều thứ, nhà của họ tất nhiên không thể sánh với nhà của chúng ta nhưng cũng là một ngôi nhà xinh đẹp với rất nhiều đầy tớ. Thậm chí họ còn có cả xe hơi.
Càng nghe họ bao nhiêu ta càng muốn tin họ bấy nhiêu. Ta hình dung Văn Phú lái chiếc xe hơi chở ta đi, ta hoàn toàn sung sướng từ bỏ cuộc đời cũ. Ta mơ được sống trong một ngôi nhà hạnh phúc không có ai hé miệng than phiền. Ta nghĩ về người mẹ chồng quá tốt để có thể là sự thật, người chỉ khen ngợi ta, chẳng bao giờ phiền lòng về ta. Ta có thể hình dung cảnh bọn người hầu kẻ hạ dâng trà cho ta trước khi ta có thể biết là ta đang khát. Chạy nháo nhào trong đầu ta là bao nhiêu những đứa con ta, tất thảy đều giống nhau, vây quanh ta hết đứa này đến đứa khác, làm ta sung sướng. Khi các bà thím bảo ta là ta sẽ cưới Văn Phú thì đó là những điều ta hình dung ra. Đó là điều bà thầy bói tiên đoán cho Peanut.
Tất nhiên cùng với tất cả những điều tốt đẹp cho ta, ta cũng cảm thấy buồn cho Peanut. Lúc này nó quay ra đổ lỗi cho ta. Bảo ta đã phản bội nó. Trong suốt thời gian trước đám cưới, chúng ta vẫn ngủ chung một giường. Khi ta bước vào phòng, nó nhổ nước bọt xuống đất. Đêm đến, nó đá vào chân ta, đẩy cái mền của ta sang một bên, ra rả nói rằng ta còn xấu xa hơn cả dòi ăn thịt thối rữa. “Mày nghe mẹ mày rồi đó”, ta phản đối, “tao lớn hơn mày phải lấy chồng trước. Tao phải vâng lời thôi. Nếu mày muốn thay đổi điều đó, đi mà nói với mẹ mày ấy”.
Nếu ta nghĩ về điều này rốt ráo hơn ta ắt phải nhận ra, các bà thím ta không quan tâm đến chuyện tuổi tác. Peanut là đứa con cưng, bất cứ điều gì họ dành cho nó cũng tốt hơn. Những bộ quần áo đẹp hơn, những lời khen nồng nhiệt hơn, cho nó nhiều tiền hơn, những cái bùa may mắn tốt hơn, chăm sóc tốt hơn khi nó bệnh. Như trước ta đã nói, họ không cay nghiệt với ta. Họ chỉ cưng chiều Peanut hơn. Vì thế tại sao ta lại ngu ngốc đến vậy, ta phải biết rằng nếu họ gả ta cho gia đình Văn Phú thì đó là bởi vì đấy không phải là một đám tốt.
Sau đó một chuyện xảy ra làm ta nghĩ rằng tất cả những điều tốt đẹp đã biến mất. Các bà thím ta nói rằng họ sẽ dẫn ta đến Thượng Hải gặp cha ta để xin người ban phép cho ta lấy chồng. Họ cho ta xem thư của ông chỉ thị khi nào chúng ta phải tới, chỉ có thế, không một lời chúc mừng. Ngày xưa chúng ta không có đường điện thoại nối Thượng Hải với hòn đảo, lá thư này được một người đưa tới không qua đường bưu điện. Vì thế lá thư ta cầm trong tay có vẻ rất nghiêm trọng.
Với cả trái tim mình con hãy hình dung ta cảm thấy như thế nào. Ta đã không gặp cha ta suốt 12 năm trời kể từ khi ông gởi ta đến đây. Các bà thím ta chưa bao giờ dẫn ta tới gặp ông trong những lần ta đến Thượng Hải. Ông không bao giờ viết cho ta, không bao giờ đến thăm ta dù ở trên đảo hay là ở trường nội trú vì thế ta không biết là ông bực hay vui khi gặp ta. Ta không biết là nên sợ hãi hay là vui mừng khi được gặp ông. Buổi sáng hôm ấy thím Lớn, thím Nhỏ và ta tắm rất sớm. Chúng ta mặc những bộ quần áo đẹp nhất, những áo dài bằng lụa tươi màu với áo khoác ngoài. Chúng ta mua vé hạng nhất trong chuyến ca nô kéo dài hai giờ xuôi theo sông tới cảng Thượng Hải. Khi chúng ta ra khỏi ca nô, một chiếc xe hơi dài với một người tài xế đợi chúng ta ngoài cổng để đưa mọi người về nhà cha ta ở phố Julu. Mọi thứ đều giống như trong một câu chuyện thần tiên. Nhưng khi chúng ta bước trên lối đi vào nhà, ta biết chúng ta đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Áo quần của chúng ta màu tươi quá, rợ quá, cho mọi người biết rằng chúng ta không phải là những người quan trọng gì. Cánh cửa mở ra, ta lại đứng ở trong tiền sảnh rộng thênh thang của ngôi nhà ta đã từng sống nhưng không còn nhớ gì. Ngôi nhà này 10 phần lớn hơn, đẹp hơn chỗ của chúng ta ở làng Cửa Sông hoặc có thể là con không nên so sánh theo cách ấy. Đó là một cái nơi mà mỗi thứ mắt nhìn thấy con đều muốn chạm tay nhưng con vẫn sợ chỉ một cử động nhỏ con có thể làm một cái gì đó đổ vỡ. Ngay bên cạnh ta là những cái kệ cao chạm trổ, trên có đặt những bức phù điêu trắng nhỏ, một người đi săn đuổi theo một con hươu, một bức tượng hai cô gái đang bước đi trong những chiếc áo đầm Ăng-lê. Một cái hắt hơi, một tiếng ho, một lời nói to thôi, chắc chắn con sẽ làm vỡ những vật tinh tế này.
Ta nhìn xuống chân, ước gì ta có thể cúi xuống lau sạch bụi trên đôi giày mới của ta. Lúc đó là lúc ta nhìn xuống sàn nhà lát cẩm thạch trắng bong.
Đột nhiên ta nhớ những mẫu hoa văn viền quanh - mẹ ta có lần bảo ta đó là những viên đá quý do nước sông chảy qua những tảng đá cẩm thạch mà thành. Ngay trước mắt ta, trên mặt sàn ánh lên bao nhiêu sắc màu khác nhau đang nhảy múa - Bóng những con cá đủ màu từ cùng một dòng sông, mẹ ta bảo thế.
Ta ngước nhìn lên xem những ánh sáng đủ màu này từ đâu - một cái cửa sổ lắp kính màu ở trên cầu thang thứ nhất, có hoa lá, cây cối, bầu trời trên tấm kính. Trong khi nhớ lại tất cả những chuyện đã qua, ta nhìn lên cái cầu thang xoắn ốc rộng thênh thang cố gắng nhớ lại cái thành cầu thang bằng gỗ lim trơn bóng, cảm giác xưa cũ khi ta lướt tay trên đó.
Đúng lúc đó ta nhìn thấy cha ta đi xuống cầu thang, mỗi bậc một bước, quắc thước như một lão thần tiên.
Ta nhớ lại cung cách của ông, ông lúc nào trông cũng ung dung tự tại. Ta nhớ lại cái cảm giác chờ đợi, sợ hãi, không biết điều gì sắp xảy ra của ta khi đứng trước mặt cha. Còn bây giờ thì ông đứng ở giữa cầu thang nhìn ta chằm chằm không có một biểu hiện gì trên mặt. Ta chắc rằng ta cũng nhìn ông như thế. Giống như một con ma nhìn một con ma. Ồ có lẽ là ông nhìn thấy mẹ ta trong khuôn mặt ta, vì thế mà ghét ta. Ta cúi đầu.
“Con gái”, ông bất thình lình nói, “con nên mời khách của chúng ta ngồi xuống”.
Ta quay sang bên cạnh nhìn quanh như thể kiểm tra xem ông đang nói về người khác trong phòng. Nhưng thím Lớn đẩy vào người ta, rồi ta thấy mình chỉ vào bộ bàn ghế ở gần, nói, “Xin mời các thím ngồi. Đừng có khách sáo, mời ngồi”. Cứ như là ta bao giờ cũng đón chào các bà thím của ta vào một ngôi nhà mà ta không sống như vậy. Chúng ta lặng lẽ ngồi vào những chiếc sofa đệm lông chim, nệm lún xuống thật nhanh, ta cảm thấy mình bị nuốt chửng.
Thím Lớn hướng về phía cha ta một cái nhìn nôn nóng.
“Anh có khỏe không, anh cả? Em hy vọng anh mạnh giỏi”. Thím Nhỏ cũng lặp lại câu hỏi, “Anh thế nào, khỏe không ạ?” cha ta mỉm cười, chậm rãi bắt chéo chân rồi nói, “Không đến nỗi nào nhưng cũng không khỏe lắm. Các thím sẽ biết điều đó khi xương cốt mỗi ngày một già đi”.
“Đúng thế ạ!” Thím Lớn đón lấy một cách sốt sắng, “Thì em cũng vậy. Em cứ bị đau bao tử suốt, ngay sau khi ăn tối, đau ở bụng”.
Một bên lông mày của cha ta nhướn lên, mọi người im bặt. Tiếng chuông đồng hồ vang lên từ căn phòng bên cạnh, các bà thím của ta lắng nghe tiếng chuông với một vẻ thích thú vờ vịt sau đó đồng ý với nhau là đó là tiếng chuông hay nhất mà họ từng nghe.
Ta ngồi im lặng, nhận thấy cha ta là hình ảnh của ông chú chỉ có điều già hơn, gầy hơn. Nét mặt ông trông cũng nghiêm khắc và thông mình hơn. Ông mang một cái kính tròn gọng vàng, bận Âu phục màu đen, bên trong có một chiếc áo ấm Trung Hoa. Ông không cao, mặt dù ông có vẻ oai vệ cái cách ông chậm rãi ngoái cổ ra sau về phía người đầy tớ đã nói lên điều đó. Nhưng thay vì nói với người đầy tớ, ông lại quay sang ta.
“Con gái, con quyết định đi. Chúng ta sẽ uống trà với bánh ngọt Trung Quốc hay bánh bích quy Ăngle với trà?” Đầu óc ta như hai con ngựa chạy về hai hướng. Bánh gì? Câu trả lời nào là đúng?
“Một cái gì đơn giản thôi ạ”, cuối cùng ta lí nhí nói.
Ông mỉm cười, “Tất nhiên, bao giờ con cũng thích thế”. Ông vẫy tay một cái nữa về phía người đầy tớ, bảo anh ta mang bánh bích quy Ăngle, đào Trung Quốc và kẹo chocolate của Bỉ.
Ta nghĩ về điều ông làm. Phong cách của ông rất mực tao nhã, rất lạ lùng đối với ta. Tuy ông có vẻ như hiểu ta. Nếu ta thực sự nói lên những ước muốn của mình thì đó là những món mà ta sẽ gọi, tất cả những thứ đó.
Tiệc trà kéo dài không lâu, rồi thím Lớn báo cáo với cha ta về họ Văn - đám này thích hợp với con gái của ông như thế nào, một triển vọng làm ăn mới cho dòng họ của ông ra sao. Ta cúi nhìn đôi tay cuộn lại trong lòng, thỉnh thoảng lại chờ xem phản ứng của cha ta. Tất cả chúng ta ngồi nghe thím Lớn vốc một dúm sự thật thổi phồng ra khắp mọi hướng.
Cơ sở xuất khẩu của họ Văn đã trở thành một công ty tàu biển quốc tế. Với những kinh nghiệm buôn bán với nước ngoài Văn Phú đã từng bắt tay thân mật với chủ tịch những tập đoàn tư bản quan trọng nhất ở Anh, Mỹ. Mẹ của Văn Phú thì là một phụ nữ toàn tài - cứ nghe lời thím Lớn thì con có thể nghĩ là bà ta có thể biến một cái cây trơ trụi trong mùa đông thành cái cây đầy lộc non lá thắm trong vòng một đêm!
Cha ta không phải người ngu. Ông ngồi im nghe, nhắp từng ngụm trà. Một khi thím Lớn cường điệu quá nhiều, thì ông lại chằm chằm nhìn bà không nói một lời, không một biểu hiện gì trên khuôn mặt cho đến khi bà đỏ mặt lên, những đánh giá về gia đình họ Văn giảm đi một chút.
“Ồ, thật ra, công việc làm ăn của họ không thành công theo tiêu chuẩn của bác, không cao như yêu cầu của bác, nhưng họ cũng dư dả đầy đủ và rất đáng kính trọng. Điều quan trọng nhất đối với con gái bác, em nghĩ là một gia đình nề nếp”.
Bây giờ thì thím Lớn đã kiệt cả sức vì tâng bốc nhà họ Văn. Cha ta vẫn chẳng nói gì.
“Một cậu trai tử tế, trong một gia đình khuôn phép”, thím Nhỏ nói, lấp khoảng im lặng.
Cha ta nhìn ta. Ta rất bối rối, cố không để lộ điều đó. Có lẽ ông không thích cuộc hôn nhân này. Có lẽ ông vẫn giận mẹ ta rồi giận lây sang ta.
“Tôi biết gia đình này”, cuối cùng ông lên tiếng. “Tôi đã cho một vài người xem xét làm ăn của họ, tìm hiểu về gia thế. Ông vẫy ta ra sau như thể xua đi một con muỗi. “Thật là dễ chịu khi nghe chính người nhà của mình nói tốt như vậy.”
Điều này làm các bà thím giật nảy mình. Họ trông giống như hai tên trộm bị bắt quả tang. Họ cúi gầm mặt xuống vẻ có lỗi, chờ nghe những lời phán quyết của cha ta về những gì mà ông đã biết.
“Con gái, con nghĩ gì?” Giọng ông rất trầm gần như là đe dọa. “Đó có phải là điều con muốn không?”
Ta cắn môi, bấu bấu những đầu ngón tay. Ta vân vê tà áo, cố nghĩ xem ta phải nói gì. Cha ta lại khoát tay một lần nữa. “Nếu đó là điều mà nó muốn”, ông nói với các bà thím, đoạn thở dài. “Thì làm sao chúng ta có thể ngăn cản nó?”
Các bà thím bật cười gượng gạo như thể đó là một câu đùa. Nhưng ta nghe có điều gì khác. Giọng ông có vẻ buồn bã. Trước khi ta có thể nghĩ ngợi thêm được điều gì thì ông quay sang đặt những câu hỏi về chuyện làm ăn, hoặc có lẽ ta quên mất chăng?
“Họ Văn dẫn cưới cái gì?”
Thím Lớn đưa ra cái phong bì, cha ta nhanh nhẹn đếm được 4000 tệ, sao đó gật đầu. Ta thở dài nhẹ nhõm. Đó là một món tiền lớn, tương đương 2000 đô lúc bấy giờ, có thể trị giá 40, 50 ngàn đô theo thời giá hiện nay.
Một người thuộc tầng lớp trung lưu phải lao động hơn một năm mới kiếm được món tiền đó. Nhưng nó không có nghĩa là họ Văn đưa cho cha ta số tiền đó. Cha ta được chờ đợi là trả lại số tiền này trong ngày đám cưới, cho gia đình nhà chồng, và nói, “Ông bà đã chấp nhận con gái tôi vào nhà ông bà. Điều này là quá tốt rồi”.
Cha ta cũng được chờ đợi là đưa cho ta một số tiền hồi môn tương đương với tiền dẫn cưới của họ, rồi sẽ nói với ta. “Số tiền này thêm vào để con không trở thành gánh nặng trong gia đình mới của con”. Số tiền này sẽ là của ta, người sẽ mở cho ta một tài khoản trong ngân hàng. Ta không phải chia sẻ số tiền đó. Không ai có thể lấy một đồng từ số tiền đó. Nó sẽ là tiền ta có suốt đời.
“Họ Văn mong chờ một món hồi môn là bao nhiêu?” cha ta hỏi tiếp. Ở đây cha ta đề cập đến những món hồi môn bằng hiện vật không kể số tiền trên.
Thím Lớn phải thận trọng trong câu trả lời. Nếu thím nói họ Văn không cần gì nhiều thì nó có vẻ như là gia đình họ không đáng làm thông gia. Nếu thím nói họ đòi hỏi nhiều thì có vẻ như ta không xứng đáng với họ. Nhưng mà thím Lớn đã có đủ kinh nghiệm trong việc gả bán hai đứa con gái, vì thế thím nói một cách giản dị. “Đồ đạc cho cô dâu, đồ đạc trong phòng đôi trẻ”. Tức là căn phòng trong nhà chồng ta. Câu trả lời như thế không làm cho nhà Văn có vẻ tham lam. Đó là một câu trả lời giống như một lượt đi trong ván bài pôkê. Bây giờ là lúc mà cha ta chứng minh lòng hào phóng của ông.
“Tất nhiên”, thím Lớn thêm vào, “nhà trai sẽ mua giường cưới”. Ở đây bà đề cập đến một phong tục cũ, bởi vì tất cả những đứa con trai của cặp vợ chồng mới cưới phải được tác thành trên cái giường của người chồng.
“Uống trà nữa nhé?” cha ta hỏi. Và bởi vì ông hỏi chứ không phải ra lệnh cho đầy tớ châm thêm trà nên có phải được hiểu như một quy ước là buổi viếng thăm đã kết thúc. Các bà thím ta vội bật dậy.
“Không không, chúng em phải đi thôi”. Thím Lớn nói.
“Sớm thế?” cha ta nói.
“Trễ rồi ạ”, thím Nhỏ đáp, đó là một câu nói dối. Chúng ta chẳng có chỗ nào đi trong suốt buổi chiều, ca nô thì đến tận tối mới chạy. Mọi người chuẩn bị rời phòng khách.
Nhưng ta nghe thấy cha gọi. Ông không nói “con gái” mà ông gọi thẳng tên ta, “Vi Vi, con chào các thím đi. Sau đó đến phòng đọc sách của ta để bàn về của hồi môn của con?”
Chỉ có những hy vọng con con ta ấp ủ khi đến nhà cha ta chiều hôm ấy! Bây giờ thì bao nhiêu những ước muốn to lớn chỉ trực trào ra khỏi miệng ta bằng một tiếng kêu sung sướng. Ông đối với ta như thể ta là con gái độc nhất của ông, tất cả những năm qua bị lãng quên hoàn toàn.
Tất nhiên ông không ôm ta cũng chẳng hôn ta như kiểu người Mỹ các con vẫn làm khi gặp lại nhau sau 5 phút xa cách. Chúng ta thậm chí cũng chẳng nói chuyện gì lâu la sau khi các thím ta ra về. Nhưng những điều ít ỏi ông nói với ta làm cho ta băn khoăn cho đến tận bây giờ. Có thật là ông nghĩ rằng ông đã tác thành cho ta một đám tốt? Hay là ông nhìn thấy một khả năng dễ dàng để tống khứ ta đi, mãi mãi, bởi vì ta là một cái gì đó nhắc nhở đến cuộc hôn nhân bất hạnh của ông?
Thế là ta đã nhớ rất rõ ràng những lời hiếm hoi ông nói với ta chiều hôm ấy. Ta không nghĩ là ta thay đổi chúng trong tâm tưởng để làm những điều ông nói có cái nghĩa mà ta muốn.
Khuôn mặt ông nghiêm nghị, những biểu hiện của ông là thành thật. Ông không nói một lời xin lỗi cho những gì xảy ra trong 12 năm xa cách. “Thế là con sắp lấy chồng”, ông nói, “con sẽ có được một vị trí thực sự trong cuộc đời”. Ông chỉ vào một bức tranh trải suốt từ đầu này sang đầu kia căn phòng. Có hàng trăm người khác nhau: đàn ông, đàn bà, trẻ con. Tất cả bọn họ làm hàng trăm việc khác nhau: làm việc, ăn uống, ngủ nghê, tất cả những khoảnh khắc ngắn ngủi trong cuộc đời được chụp cắt ngang.
“Khi con còn bé”, cha ta tiếp, “con đến phòng này, cứ ngắm đi ngắm lại mãi. Con nhớ không?”
Ta ngắm lại bức tranh một lúc lâu hy vọng là ta nhận ra nó. Cuối cùng ta nhớ một cái bóng nhỏ ở góc trong cùng. Đó là một thiếu phụ đang nhìn qua ban công. Ta gật đầu.
“Khi cha hỏi con có thích bức tranh này không, con bảo là nó được vẽ rất xấu. Nhớ không?”
Ta không thể tưởng tượng là ta có thể nói một điều như thế với người cha này dù là khi ta còn bé. “Con xin lỗi. Con không nhớ, con còn buồn hơn khi điều mà cha nhớ về con lại là lúc con không ngoan”.
“Con nói bức tranh này rất rối rắm. Con không thể nói là người đàn bà đang thổi sáo một bài vui hay buồn. Con không thể nói là người đàn bà vác một món đồ nặng trên là lưng là bắt đầu một cuộc hành trình hay đã kết thúc. Còn người đàn bà bên ban công thì con nói là lúc này trông như thể bà ta đang hy vọng, lúc khác trông như thể bà ta đang sợ hãi”.
Ta giơ tay bụm miệng cười, “Con đã từng là một đứa trẻ kỳ khôi biết bao”. Cha tiếp tục nói cứ như ông không hề nghe ta, “Cha thích điều đó ở con, không sợ hãi nói ra những điều con nghĩ”. Lúc đó cha nhìn ta, khuôn mặt như một bức tranh trống, không có suy nghĩ hay xúc cảm gì.
“Còn bây giờ hãy nói cho cha nghe con nghĩ gì về nó?”
Đầu óc ta làm việc rất gấp, cố gắng tìm ra câu trả lời, một câu vừa làm ông hài lòng vừa chứng tỏ với ông là ta không thay đổi tính thẳng thắn của mình.
“Con rất thích chỗ này”, ta nói, hấp tấp chỉ một người đàn ông đang van xin một ông quan tòa. “Bố cục rất cân đối, các chi tiết biểu hiện rất đạt. Còn chỗ này con không thích chút nào. Cha xem, nó quá tối, nặng nề ở phần dưới, các chi tiết lại tầm thường”.
Cha ta quay đi. Ông gật đầu mặc dù ta không nghĩ là ông đồng ý với ta.
Ông quay lại đối diện với ta. “Từ nay trở đi”, cuối cùng ông nói với cái nhìn nghiêm khắc, “con phải coi trọng những ý kiến của chồng con. Những ý kiến của con chẳng có ý nghĩa gì hết. Con hiểu không?”
Ta sốt sắng tán thành, lấy làm vui là cha ta đã dạy ta một bài học một cách tế nhị như thế. Sau đó ông nói thêm là ta sẽ ở lại nhà này đến tuần sau để mua sắm của hồi môn.
“Con biết con muốn gì không?”
Ta nhìn xuống vẫn cảm thấy ngài ngại, “Những thứ đơn giản thôi ạ”.
“Tất nhiên”, ông nói “bao giờ cũng là một cái gì đơn giản”. Ông mỉm cười, ta thật hạnh phúc là mình đã nói đúng cái điều phải nói.
Nhưng nụ cười của ông tắt ngay lập tức. “Cũng giống như mẹ con”, ông nói, “bao giờ cũng cần những điều đơn giản”. Rồi ông nheo mắt lại cứ như thể ông vẫn nhìn thấy mẹ ta đâu đó. “Bao giờ cũng cần những điều khác nữa”, ông nói và sau đó nhìn ta một cách xoi mói. “Con có thế không?”
Ý nghĩa trong lời nói của ông cũng giống như bức tranh thay đổi trong từng khoảnh khắc. Cũng như người thiếu phụ bên ban công chờ đợi với niềm hy vọng, chờ đợi với nỗi sợ hãi, trái tim ta lúc phập phồng, lúc se lại với mỗi một lời của ông. Vì thế cuối cùng ta không biết phải trả lời ông thế nào. Ta chỉ buộc miệng ra vài từ rất thật, “Cũng thế ạ” ta nói.
Chiều hôm ấy một người đầy tớ dẫn ta lên căn phòng của mẹ con ta ngày trước, sau đó để ta lại một mình trong phòng cho đến bữa ăn tối. Ngay khi cánh cửa đóng lại, ta đi thăm dò, chạm vào mọi thứ trong phòng.
Chăn mền cũng khác. Những bức tranh, tấm rèm mẹ ta đã dùng không còn nữa. Áo quần, bàn chải, gương lược rồi xà bông thơm, cả làn hương của bà không còn vương lại đâu đây. Nhưng mà đồ gỗ vẫn thế: giường, tủ quần áo, ghế, bàn trang điểm, cái gương đa từng soi bóng gương mặt mẹ. Ta kêu lên sung sướng. Cuối cùng ta đã trở về! Ngay sau đó ta lại khóc, cũng giống như một đứa trẻ băn khoăn tự hỏi khi nào mẹ quay về. Rồi ta cũng hiểu ra. Không ai muốn ở cái căn phòng xúi quẩy, không ai sử dụng căn phòng này trong suốt những năm qua, ngay cả khi ngôi nhà này chật ních những người. San Ma và Wu Ma vẫn ở lại đây. Con nhớ họ không - đó là những người vợ khác của cha ta. Sz Ma đã chết vài năm trước. Những người con trai của cha ta bây giờ đã có vợ có con cũng sống chung ở đây. Cả những người đầy tớ và con cái của họ nữa. Tổng cộng ngôi nhà này chứa từ 25 đến 30 người.
Nhưng thậm chí với nhiều người như vậy, ngôi nhà vẫn yên tĩnh lạ lùng. Khi ta xuống cầu thang ăn tối, mọi người nói năng nhỏ nhẻ với nhau. Mọi người chào hỏi ta một cách lịch sự, tất nhiên chẳng ai đề cập đến lý do ta vắng mặt suốt bao năm qua. Ta nghĩ họ không biết phải đối xử với ta như thế nào. Khi thức ăn bắt đầu được dọn lên bàn, ta định ngồi xuống bên cạnh bà chị dâu nhưng cha ta chỉ cho ta ngồi bên cạnh ông. Mọi người ngoái đầu lại nhìn ta. Cha ta đứng dậy thông báo: “Con gái ta Giang Vi Vi sẽ làm đám cưới vào tháng tới”. Sau đó chúng ta chờ đợi, chờ đợi, chờ đợi, trong khi một người đầy tớ từ từ rót một loại đồ uống đặc biệt vào những cái ly ngọc bích nhỏ như một cái đê tay khâu áo.
Cuối cùng cha ta lại lên tiếng chúc mừng, “Trong đám cưới của mình con sẽ có tất cả những gì con ao ước. Cạn li! Cạn li!” Ông ngửa cổ ra sau, uống ực một cái hết ly rượu. Chúng ta làm theo ngay, lập tức ta thấy mình trong vòng vây của những lời chúc tụng, những câu chúc ồn ào vui vẻ của một gia đình hạnh phúc. Lưỡi ta cháy bỏng vì rượu, mắt ta nóng hổi những giọt lệ sung sướng.
Hóa ra là cha ta yêu cầu San Ma giúp ta mua sắm đồ cưới. Bà là người vợ lớn nhất và là người quản lý việc chi tiêu trong gia đình. Tất nhiên bà biết quá rõ tất cả những gì mà một người con gái cần khi cô ta lên xe hoa. Bà đã từng làm điều đó với ba cô con gái của Sz Ma, những người đi lấy chồng sau khi mẹ họ qua đời. Đó là điều bà nói với ta trong khi chúng ta lên xe đi đến Trường An Gungsi, cửa hàng cao cấp nhất ở đường Nam Kinh.
“Các con gái của Sz Ma” bà nói, “mỗi đứa đều thừa hưởng những khiếm khuyết tệ hại nhất của mẹ chúng. Khiếp! Đứa thứ nhất thì keo kiệt, một loại người chả bao giờ dám thả vào bát ăn mày một xu. Đứa thứ hai thì vô ơn bạc nghĩa, loại người ăn xong ném đá vỡ bát. Đứa thứ ba thì tham lam - con biết nó làm gì không? Nó vơ váo cả đá lẫn bát. Vì thế ta chẳng mua cho chúng nó nhiều của hồi môn. Sao ta lại phải hào phóng với những đứa con gái xấu nết như vậy?”
Ta phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói với San Ma. Ta nhớ rằng bà là người vợ ghen tị với mẹ ta nhất, ghen tị với mái tóc, với địa vị và với học vấn của mẹ ta. Ta sẽ không để cho bà có cơ hội nói với cha ta là ta cũng không ra gì. Vì thế khi bà bảo ta chọn một cái ghế ta chỉ vào một cái ghế rất tầm thường không có chạm khắc gì hết. Khi bà bảo ta chọn một cái bàn trà, ta chọn một cái có chân đơn giản. Bà gật đầu, đi đến chỗ người bán hàng đang đợi chúng ta. Nhưng bà lại không đặt những món mà ta chỉ; bà mua cho ta những thứ ba lần tốt hơn! Ta cảm ơn bà nhiều lắm sau đó ta nghĩ chúng ta đã hoàn thành việc mua bán và sẽ trở về nhà. Đó là tất cả những gì chúng ta mua, một cái ghế, một cái bàn trà. Nhưng San Ma rõ ràng là đã khuyến khích ta một cách tế nhị nhớ đến những cái mà một người vợ ra vợ cần phải có. “Con muốn một tủ áo kiểu gì?” bà hỏi.
Con tưởng tượng được ta cảm thấy gì không? Con có nhớ là ta đã hằng hy vọng, cầu nguyện cho một cuộc sống tốt đẹp hơn thế nào không? Giờ đây mọi người đều quá tốt đối với ta. Ta không còn đơn độc nữa. Ta đã có tất cả những gì mà ta ao ước, ta không còn ước muốn một thứ gì hơn nữa, chỉ cần như lời bà thầy bói là đủ.
Suốt cả ngày hôm đó San Ma và ta đi mua sắm. Nó cũng giống như là một trò chơi - một cái trò mà một người phụ nữ cứ một phút để chộp bất cứ cái gì trong một cửa hàng dành cho cô ta. Cô ta chẳng có thời gian để quyết định - lập tức chộp lấy bất cứ món gì vừa nhìn thấy. Ta làm một điều như vậy đấy, ta chỉ có một tuần thôi mà. Vì thế con có thể hình dung bao nhiêu đồ đạc mà chúng ta mua sắm, giấc mơ của ta về cuộc sống tương lai cứ lớn lên, phình to, phát triển như thế nào.
Ngày hôm ấy chúng ta cũng tìm ra những cái tủ quần áo, tủ gương đồ sộ rất đẹp. Đây là cái mà ta ưa thích nhất: một cái bàn trang điểm hiện đại ta tự chọn. Nó có một cái gương tròn lớn lồng trong khung bạc. Hai bên có hai ngăn kéo một ngắn, một dài. Mặt trước mỗi ngăn là gỗ đào hoa tâm, hoặc gỗ sồi có cẩn ngọc trai với những họa tiết tỏa ra như nan quạt. Mỗi một ngăn có đáy bằng gỗ tuyết tùng vì thế mà mỗi lần mở ra con sẽ thấy mùi hương của nó bay ra. Phần giữa thấp hơn những phần còn lại. Đó là một cái bàn vuông có cẩn đá bên trên, phía dưới bàn là một cái ghế trạm trổ, có cẩn kim tuyến xanh. Ta hình dung mình ngồi trước bàn trang điểm này giống hệt mẹ ta.
Nào, bây giờ thì con biết là ta nói về cái gì, nó giống như cái bàn ta đã mua cho con. Ta đã lùng nó rất lâu. Con thấy đấy ta đâu có mua cái bàn ấy để đày đọa con. Đó là vật yêu quý của ta.
Ngày thứ hai, San Ma giúp ta mua những đồ giải trí: một cái radio, một cái máy quay, một cái máy quay đĩa hiệu RCA có thể tự thay mặt, một cái bể nuôi cá bằng sứ bự đến nỗi ta có thể nằm vào được. Văn Phú và ta sẽ có hàng bao nhiêu cách để sống đời hạnh phúc.
Ngày thứ ba, ngày thứ tư, San Ma và ta đi mua sắm những vật dụng cá nhân cho một phụ nữ có gia đình. Ôi, ta mới mắc cỡ làm sao chứ. Ta chỉ biết cười trừ mỗi khi bà nói ta cần cái này cái kia, và tại sao. Đầu tiên chúng ta tìm mua bồn tắm, một món đồ nội thất hết sức dễ thương, bên trong lát đá cẩm thạch xanh lá cây, lồng trong một cái khung gỗ chạm trổ. San Ma chỉ cho ta một cái phía dưới cùng để cất những món dành cho những ngày thấy tháng. Ngày xưa chúng ta dùng xô vải mùng thay cho băng vệ sinh bây giờ.
Tiếp sau hai loại bồn tắm là một cái thùng gỗ cao để ta tắm cả người vào buổi sáng, một cái nhỏ hơn, bằng sứ để ta rửa phần dưới, và đôi chân. Đó là một loại hầu hết phụ nữ ở Trung Hoa thường dùng bởi vì họ không có thời gian tắm cả người hàng ngày, họ chỉ lau rửa từng bộ phận. San Ma bảo “Con phải rửa ráy phần dưới mỗi buổi tối trước khi lên giường với chồng con. Như vậy nó sẽ luôn yêu con”. Đều này có nghĩa đây. Ta nhớ lại những lần ta chỉ muốn đẩy Peanut ra khỏi giường của hai đứa.
Nhưng San Ma lại nói, “Sau đó vào lúc đêm khuya phải rửa ráy lần nữa”. Bà không giải thích tại sao ta phải làm thế. Vì thế mà ta nghĩ đàn ông ưa làm đỏm hơn đàn bà, còn đàn bà thì tự nhiên đã dơ bẩn hơn đàn ông.
Sau đó thì San Ma bảo ta mua ba cái bô. Mặt ta đỏ rần lên khi ta nhìn chúng, tưởng tượng rằng Văn Phú và ta sẽ dùng chung những thứ đó. Những cái bô này có nắp đậy bằng gỗ, bên trong được sơn màu đỏ, sực lên một mùi dầu rất mạnh.
Ngày thứ năm, San Ma giúp ta mua những món đồ đi du lịch, những thứ đựng đồ, những cái vali lớn, tất cả đều bằng da, hai cái rương bằng gỗ tuyết tùng. Chúng ta dựng đầy hai cái rương, toàn những gối chăn. Dường như San Ma đã phát điên lên! Bà khăng khăng ta phải mua nhiều mền nữa 20 cái.
“Tất nhiên là con cần nhiều chăn mền”, bà nói. “Còn cách nào nữa để con ủ ấm tất cả những đứa con trong tương lai của con”. Vì thế ta chọn những tấm mền dày thật tốt - tất cả đều là hàng Trung Quốc, với những loại bông cao cấp nhồi bên trong, loại đắt nhất, người ta đạp nó thật nhiều lần cho đến khi nó phồng tướng lên. Rồi sau đó là những cái chăn ta chọn, những cái vỏ chăn đẹp, tất cả đều bằng lụa, không có cái nào bằng vải sợi. Mỗi một cái đều được thêu bằng những mẫu hoa khác nhau, không có cái nào giống cái nào.
Ngày thứ sáu, chúng ta mua tất cả những thứ để tiếp khách, để thờ cúng tổ tiên: ghế sofa, ghế bành, bàn thờ, bốn cái đôn, và một chiếc bàn tròn thấp. Cái bàn tròn này làm bằng một loại gỗ đen bóng được chạm trổ theo kiểu Trung Hoa với những chiếc vuốt, những hàng chữ chúc thọ chạy ở ngoài mép bàn. Dưới cái bàn này còn có bốn cái bàn nhỏ có thể kéo ra, mỗi khi có nhiều khách tới. Vào ngày thứ bảy, ngày cuối cùng chúng ta mua tất cả chén đĩa, đồ bạc. Lúc ấy ta đã sống ở nhà cha ta đủ lâu để biết ta cần gì, hai bộ cho tất cả mọi thứ. Ta chọn một bộ cho những ngày có yến tiệc, một bộ dùng hàng ngày, mười món cho mỗi bộ. Đó không phải là dao, nĩa, phóng xét như người Mỹ mà gồm một loại đơn giản, một loại cầu kỳ. Tất cả đều sang trọng, bằng sứ hoặc bằng bạc. Con tưởng tượng được không? Đó là đồ bạc Trung Hoa, bạc nguyên chất, rất nhẹ, giá trị cũng như tiền con có thể mua bán trao đổi được.
Ở cửa hàng có một cái bàn to, dài, chúng ta chất đầy bàn tất cả những món mà ta chọn. Ta chạy vòng vòng quanh cửa hiệu cầm cái này cái kia lên cứ như là ta làm thế hàng ngày trong đời ta không thèm bận tâm đến giá cả. Ta có tách bạc để đựng sốt đậu, uống trà, một cái đĩa bạc để đựng những cái muỗng ăn súp thịt, cái để ăn tráng miệng, cái để ăn súp hạt hoa li ti mà ta rất thích rồi còn hai cỡ khác một lớn một nhỏ mà ta cũng chẳng nhớ là để làm gì nữa. Để đồng bộ với những thứ mà ta chọn, có bốn cỡ chén để ăn súp, không phải bằng bạc vì chúng sẽ rất nóng không cầm lên tay được. Nhưng chúng cũng được làm bằng một loại sứ quý có viền vàng. Sau đó ta chọn hai loại đĩa, một loại nhỏ, một loại còn nhỏ hơn nữa, bởi vì như San Ma chỉ bảo thì “Nếu con chọn một cái đĩa quá lớn thì, như thế con muốn nói rằng con sẽ không còn cơ hội nào để ăn thêm nữa”.
Đũa ta chọn cũng là loại tốt nhất, cũng bằng bạc, một đôi được nối với nhau bằng một sợi xích nhỏ để chúng không bao giờ bị chia lìa, bị lạc nhau. Khi ta nghĩ đã hoàn tất việc mua bán thì người bán hàng lại chỉ cho ta một vật bằng bạc nhỏ có hình một con cá đang quẫy, ta biết ngay là ta cũng cần nó, bởi vì cái vật xinh xắn ấy là chỗ gác đũa khi con ngừng ăn một hay hai phút, để thưởng ngoạn bàn ăn của con, để nhìn khách khứa, để tự chúc mừng mình với ý nghĩ “Sao mà ta may mắn thế!”
Vào cái ngày thứ bảy trong tuần lễ mua sắm của hồi môn, đó đúng là những điều ta nghĩ: Sao ta may mắn thế. Chẳng có gì ngoài những ý nghĩ tốt đẹp tràn trề hạnh phúc trong đầu ta. Ta chắc chắn rằng đời ta đang thay đổi, mỗi một phút trôi qua nó lại càng tốt đẹp hơn và niềm hạnh phúc của ta là vĩnh hằng. Lúc ấy ta cầu trời khấn Phật hàng ngày, nhưng chỉ là để nói lên lòng biết ơn vô bờ bến của ta với các đấng tối cao vì đã ban cho ta những phước lộc không bao giờ vơi cạn. Hãy hình dung ta trong cửa hiệu, với nụ cười như nở hoa ngồi bên chiếc bàn dài thật dài với tất cả những món đồ sang trọng. Ta để lộ niềm vui sướng tràn trề trước mặt San Ma và người bán hàng. Ta cầm đôi đũa bạc lên, giả vờ gắp một miếng sơn hào hải vị từ cái đĩa bạc. Ta quay sang một bên, tưởng tượng mình đang nói, “Phu quân chàng ăn miếng này đi, đó là phần ngon nhất của con cá ngon nhất. Không, không dành cho thiếp mà dành cho chàng, chàng ăn đi”. Ta là thế đấy, mơ mộng về tất cả những cách khác nhau thể hiện lòng tôn kính của ta đối với chàng. Ta cũng phải thừa nhận rằng: ta cũng nghĩ đến những cách để khoa trương - những bữa tiệc mà ta sẽ tổ chức. Một cho cha ta người mà giờ đây ta hết mực tôn kính. Một cho San Ma, ta kính trọng bà như người mẹ quá cố của ta. Một cho bố mẹ chồng người mà ta chắc rằng ta sẽ học tôn kính họ. Một để ăn mừng con trai đầu lòng của ta ra đời. Một cho thím Lớn, thím Nhỏ vì đã để cho ta ra đi. Một cho Peanut, có thể là cả nó nữa khi ta đã tha thứ cho nó.
Sau đấy ta biết rằng: San Ma đã mua của hồi môn cho ta năm lần lớn hơn, tốt hơn cho các cô con gái của Sz Ma. Ta cũng biết rằng cha ta biết tất cả những mặt xấu của nhà họ Văn. Thế là bằng việc cho ta bước chân vào gia đình này ông cũng cho rằng ta chẳng xứng đáng với đám nào tốt hơn. Nhưng ta chắc chắn rằng ngay cả ông cũng không thể tưởng tượng họ Văn thực sự xấu xa như thế nào. Tất cả những đồ nội thất mà ta chọn làm của hồi môn trong suốt bảy ngày qua đi đâu? Gia đình Văn Phú đã chiếm hết, bỏ tất cả lên tàu chở sang Mỹ và Anh, như là một phần công việc xuất khẩu của họ. Còn những tấm mền, những chiếc áo lụa của ta thì sao - chị gái, chị dâu của Văn Phú lấy hết. Còn những món quà cưới từ gia đình, bạn bè, những bức tranh khung bạc sang trọng, những cái lược, gương bằng bạc ròng, những cái bồn tắm của Anh, những bình sơn màu đẹp đẽ thì sao - mẹ của Văn Phú đặt chúng lên mặt bàn trong phòng riêng của mụ.
Chỉ có một món trong của hồi môn của ta là họ không lấy cắp được - bởi vì có ai đó đã ăn trộm nó trước. Chuyện này xảy ra vào cái ngày một người đầy tớ xin nghỉ để chăm sóc bà mẹ ốm ở phía nam hòn đảo. Mẹ Văn Phú, người chẳng bao giờ thích người đầy tớ này, nhanh chóng đi đến kết luận về tên trộm. Thực ra khi bà chửi cái đứa bỏ chạy vì đã lấy trộm của bà mười đôi đũa bằng bạc thì ta đã giấu chúng bên dưới đáy chiếc vali. Nhiều năm sau đó, khi cuộc sống trở nên khó khăn, ta thường lấy ra một đôi đũa bạc ra nắm trong tay. Ta có thể cảm thấy sức nặng của của chất bạc trong tay ta như niềm hy vọng của ta. Ta lúc lắc sợi dây xích với thông điệp hai chiếc đũa này không bao giờ bị thất lạc. Ta gắp một cái gì đó vô hình trong không khí.
Con có thể hình dung ta ngây thơ như thế nào, sự ngây thơ của ta chân thật ra làm sao. Ta vẫn chờ cái ngày cuối cùng ta có thể đưa đôi đũa bạc này ra chỗ sáng, không còn phải che giấu một bí mật nào nữa. Ta vẫn tiếp tục mơ ước được đón nhận hạnh phúc của ta khi nó tới.