← Quay lại trang sách

Chương 9 THỜI ĐIỂM TỐT NHẤT TRONG NĂM

Sau đám cưới ta mới gặp Helen. Ta có thể nói với con là hai chúng ta không phải là cùng một đẳng cấp vào năm 1937. Dì ấy ngốc nghếch còn ta thì ngây thơ. Sau đấy dì không những vẫn ngu ngốc như thường mà con trở nên cứng đầu cùng với sự ngu ngốc ấy. Còn ta thì mất đi sự trong trắng, bao giờ cũng hối tiếc về những gì ta đã mất. Cũng bởi vì ta mất quá nhiều cho nên ta cũng nhớ rất nhiều. Còn Helen - dì ấy chỉ nghĩ là dì ấy nhớ thôi.

Mỗi khi Helen nói về quá khứ, dì thường nói, “Cả hai ta đều trẻ, đẹp, nhớ không? Còn bây giờ xem thân hình tôi đã phì ra như thế nào!” Dì cười rồi thở dài cứ như là dì vừa để nhan sắc của mình tàn phai mới đây thôi. Rồi dì quay lại với việc đan lát, lắc lắc đầu và mỉm cười nghĩ về quá khứ của dì, nó mới tốt đẹp để ghi nhớ làm sao chứ!

Nhưng mà không phải như vậy. Bởi vì ta vẫn nhớ Helen trông như thế nào khi ta gặp dì lần đầu tiên.

Đó là mùa xuân 1937 ở Hàng Châu, nơi ta và Helen sống khoảng 5 tháng trong khi các đức ông chồng của chúng ta hoàn thành khóa huấn luyện ở một trường hàng không kiểu Mỹ tọa lạc ở ngoại vi thành phố cổ này. Lúc ấy ta chỉ 19 tuổi, vẫn còn nghĩ rằng ta có thể tìm ra câu trả lời cho mọi ao ước của mình. Bởi vì ta mới về ở với Văn Phú được một tháng cho nên ta vẫn nghĩ là ta may mắn, tự hào là đã lấy một anh hùng trong tương lai. Ngày ấy, trước khi chiến tranh nổ ra ai cũng nghĩ chúng ta là một cặp trai tài gái sắc, vợ phi công đâu phải là chuyện đùa. Cả nước Trung Hoa rộng lớn chỉ có khoảng ba bốn trăm phi công thôi. Trong thời gian làm đám cưới ta không biết là ta lấy một người vừa gia nhập quân đội. Ta không phải là người ngu nhưng chả có ai bảo ta biết điều đó. Tuy vậy 2,3 tuần sau đó Văn Phú bảo ta là hắn sẽ trở thành một phi công. Những phi công này, hắn nói, được tuyển chọn từ những gia đình danh giá nhất, tốt nghiệp từ những trường tốt nhất. Lúc đó có một thông báo: họ sẽ được đưa đến Hàng Châu trong một khóa huấn luyện đặc biệt, với sự có mặt của tổng chỉ huy phu nhân, Madam Tưởng, nhân danh vị tổng chỉ huy, Văn Phú nói hắn sẽ ở đây ít ngày. Ta còn nói gì được nữa, thế là ta đi theo hắn.

Khi chúng ta đến Hàng Châu, tất cả các phi công được chiêu đãi một bữa tiệc lớn do một vị tướng của Mỹ nổi tiếng với một cái tên rất phụ nữ là Claire Chennault chi tiền. Tất nhiên lúc đó ông chưa nổi tiếng. Thật chí ông cũng chưa phải là tướng nữa. Nhưng ta nhớ các phi công gọi ông bằng một cái tên Trung Quốc nghe rất hay Shan Náo, nghe như là “Chennault”: Shan có nghĩ là “ánh sáng” náo có nghĩa là “tiếng động”, ánh sáng, tiếng động là âm thanh của những chiếc phi cơ bay ngang qua bầu trời - xẹt! Đó là lý do Shan Náo đến để dạy các phi công lái máy bay.

Ta cũng có mặt trong bữa tiệc khi ông già Shan Náo nói với các phi công một điều gì đó làm tất cả những ông thầy người Mỹ kêu la, hét ầm lên như những chàng cao bồi rồi họ tung mũ lên trời. Trong khi đó tất cả các phi công người Trung Quốc chỉ ngồi, mỉm cười, vỗ tay, đợi cho đến khi mọi người trở nên im lặng hơn để nghe người ta dịch lại.

“Shan Náo nói chúng ta sẽ cho bọn Nhật một vương quốc mới”.

Các phi công bàn tán ồn ào, bất mãn nói rằng Shan Náo không nên có ý nói là cho người Nhật một lãnh địa mới. Ông ta định nói ai là vua? Cuối cùng sau nhiều cuộc tranh cãi nhiều lý luận nữa cùng nhiều lời phiên dịch chúng ta mới biết điều mà Shan Náo thực sự muốn nói: “Với sự giúp đỡ của các vị, chúng ta không đuổi người Nhật về Nhật mà đưa họ sang thế giới bên kia”. Tất cả mọi người đều cười nói rộn ràng, “Có nghĩa là chúng ta sẽ giết ta cả bọn chúng. Thế giới bên kia là địa ngục”.

Ta biết nhiều cuộc tranh luận như thế. Người Mỹ nói một đằng chúng ta hiểu một nẻo, mọi người cứ cãi nhau nhặng xị lên. Mọi chuyện xảy ra như thế vào lúc khởi đầu khi chúng ta đến trại huấn luyện ở ngoại thành Hàng Châu. Chúng ta biết rằng chúng ta chẳng có chỗ ăn chỗ ở. Những phi công khóa trước cùng gia đình của họ sống ở những cái nhà nhỏ quây quần với nhau đã giận dữ phản đối. Sau đó chúng ta biết rằng người Mỹ báo cáo với lãnh đạo của họ rằng các phi công Trung Quốc chưa có đủ phẩm chất để bay, rằng họ đã bị trượt trong các kỳ thi kiểm tra điều này làm cho lớp phi công đầu tiên cảm thấy đó không chỉ là thất bại của họ mà còn là thất bại của cả đất nước Trung Hoa. Mất mặt. Những khuôn mặt thật bự. Nhiều người trong số họ xuất thân từ những gia đình Trung Quốc danh giá nhất, họ than phiền với lãnh đạo của họ rằng: Đó là vì người Mỹ chỉ chú ý đến những tiểu tiết nào là những đôi giày bóng lộn, cà vạt phải thắt đúng cách, mũ phải đội đúng kiểu, rằng những máy bay của người ngoại quốc được thiết kế rất dở, hay hỏng. Tất nhiên không một ai có thể lái chúng một cách tử tế được. Đến khóa thứ hai khóa của chồng ta mọi người hét lên, “Đừng có phí thời gian nữa chúng tôi cần huấn luyện để cứu nước Trung Hoa”. Cuối cùng cũng đến lúc người Mỹ đồng ý huấn luyện cho khóa thứ nhất, cùng một lúc với khóa huấn luyện phi công thứ hai. Nhưng lời than phiền vẫn không chấm dứt, bởi vì chúng ta vẫn chưa có chỗ ở.

Lúc đó ở Trung Quốc mọi việc là như thế đấy. Người ta bận rộn cãi nhau trước khi cùng nhau chiến đấu. Không chỉ có người Mỹ, người Hoa còn những nhà cách mạng cựu trào, những người cấp tiến, Tưởng Giới Thạch và cộng sản, địa chủ và đạo tặc, cả sinh viên nữa. - Úi chà - tất cả mọi người đều hùng hổ đấu nhau như những con gà trống đua nhau tiếng gáy lúc mặt trời mọc. Tất cả những người còn lại - phụ nữ và trẻ con, người già và người nghèo - chúng ta cũng giống như những con gà mái bất loạn, để cho mọi người đuổi chạy từ góc này sang góc khác. Thế là tất nhiên người Nhật nhìn thấy cơ hội, lẻn vào như một con cáo, ăn trộm mọi thứ. Lớp phi công thứ hai, vợ con họ, cuối cùng cũng có được một chỗ ở Hàng Châu, trước đây vốn là một thiền viện, ở giữa đường đi lên núi nơi các nhà sư trồng trà, các loại trà tốt nhất trên toàn cõi Trung Hoa. Các nhà tu hành đã tạm thời hiến chỗ này cho lực lượng không quân, bởi vì họ tin rằng không quân sẽ cứu nước Trung Quốc. Mọi người dân Trung Hoa đều có chung một niềm tin là chúng ta sẽ đuổi bọn Nhật ra khỏi đất nước mãi mãi. Hầu hết các phi công ngủ trong một căn phòng chung lớn. Nhưng nếu anh có vợ hoặc là người Mỹ, anh sẽ có một phòng riêng nhỏ hẹp. Mọi người dùng chung một bếp ở phía cuối tòa nhà, cũng dùng chung một nhà tắm không nước nóng có chứa năm cái thùng gỗ để tắm. Một vài người Mỹ cũng dùng nhà tắm này, nhưng may thay họ chỉ tắm một tuần một lần vào các đêm thứ bảy. Nhà ở của chúng ta rất bất tiện, tuy vậy chúng ta không than phiền có lẽ bởi cái cách khôn ngoan mà các nhà sư đã chào đón chúng ta. Chúng ta đến đây vào cuối mùa xuân. Các ngọn đồi tràn ngập hương trà. Người ta nói rằng chúng ta đến thật đúng lúc. Đúng cái tuần là khoảng thời gian đẹp nhất của cái mùa đẹp nhất, họ nói thế - khi những cái lá ngọt ngào nhất của cây trà thơm nhất trên đời có thể thu hoạch được. Khi cái hồ đẹp nhất trần ở trong cái vẻ quyến rũ nhất của nó. Khi thời tiết giống như một sự ban phước hàng ngày. Những điều này là để chào đón những phi công đến nhà mới của họ, làm cho họ lập tức cảm thấy hài lòng với mình, những con người chiến thắng. Thường thường vào buổi chiều chúng ta đi dạo quanh hồ, một ai đó kêu lên, “Đây là lúc nước hồ trong nhất trong năm”. Rồi một ai đó đệm vào, “Nhìn kìa, mặt trời trên hồ, trong nước hồ - hai, không, ba mặt trời cùng một lúc”. Một ai đó thở dài lẩm bẩm, “Cảnh hoàng hôn như thế này, tôi có thể nhìn ngắm suốt ngày”.

Con thấy đấy không ai trong chúng ta nghĩ rằng cái điều may mắn nhỏ nhoi này - đến vào đúng thời điểm - sẽ nhanh chóng qua đi, có lẽ một cái gì khác sẽ nhanh chóng thay thế.

Tất cả những điều đẹp đẽ này thậm chí gần như quá đầy đủ đối với ta. Ta có thể đi bộ vòng quanh hồ một mình, ta không nghĩ gì về quá khứ không hạnh phúc của mình cũng như cuộc sống tương lai với chồng. Ta chỉ ngắm nhìn những con chim bay lượn trên mặt hồ, đậu nhẹ nhàng trên mặt nước không làm một làn sóng nào gợn lên. Chỉ khoảnh khắc ấy. Hoặc ta có thể chiêm ngưỡng một cái lưới mà con nhện đã chăng lên trên một bụi cây trong một hình thức hoàn hảo, sáng lấp lánh với những viên ngọc của sương đêm. Ta tự hỏi liệu ta có thể đan một cái áo len với những đường như vậy, chỉ dùng ký ức như là những hình họa. Nhưng rồi những con chim bất thình lình gọi bạn, tiếng kêu vọng lên như tiếng đàn bà khóc. Hoặc con nhện cảm thấy hơi thở của ta co thân hình của nó nhỏ, gọn trước khi bỏ chạy. Ta nghĩ về nỗi sợ hãi của ta, về những thắc mắc trong cuộc hôn nhân của mình.

Ta biết Văn Phú chỉ một thời gian ngắn trước khi chúng ta làm đám cưới, sau đám cưới chúng ta sống một tháng với cha mẹ hắn, trong ngôi nhà của họ ở trên đảo vì thế nói thật, ta biết bản chất mẹ chồng ta rõ hơn là bản chất của chồng ta. Bà ấy là người dạy ta phải trở thành người vợ tốt đối với con trai út của bà. Đó là người mẹ rất chiều con. Bà là người dạy ta phải trở thành người vợ đầy đủ bổn phận đối với một người chồng kinh tởm. Ta lắng nghe bà, bởi vì ta không có mẹ, chỉ có thím Lớn, thím Nhỏ, mỗi người dạy ta trở nên khiếp nhược theo những cách khác nhau.

Đây là cái cách mẹ chồng dạy ta: phải bảo vệ chồng để chồng bảo vệ ta. Phải sợ chồng, nghĩ đó là sự kính trọng. Phải nấu món súp nóng sốt cho chồng, một món súp chỉ được mời chồng, khi ta đã nhúng ngón tay út vào để thử.

“Không đau đâu,” mẹ chồng ta sẽ giải thích nếu ta kêu lên vì đau đớn. “Một sự hi sinh đích thực cho chồng không bao giờ gây ra đau đớn.”

Ta tin rằng bà cũng nói rằng cái kiểu đau đớn cho chồng ấy cũng là tình yêu đích thực, thứ tình cảm ấy lớn dần lên giữa người chồng và người vợ. Ta cũng học điều đó trong những bộ phim Trung Quốc và phim Mỹ. Một người đàn bà bao giờ cũng cảm thấy đau đớn khổ sở, nhỏ những giọt lệ trước khi cô ta cảm thấy tình yêu. Bấy giờ khi ta sống với Văn Phú trong một căn phòng nhỏ ở một thiền viện ở Hàng Châu ta đau khổ nhiều lắm. Ta nghĩ tình yêu của ta đang lớn dần lớn dần. Ta nghĩ ta đã trở thành người vợ tốt hơn.

Bây giờ đã đến lúc ta phải nói toạc ra mọi chuyện. Ta nghĩ ta không nên nói về những chuyện này với con, những chuyện liên quan tới tình dục. Nhưng nếu ta không nói với con thì con sẽ không hiểu tại sao ta lại ra như thế, và hắn đã thay đổi như thế nào. Vì vậy ta sẽ nói với con một số điều đã xảy ra hoặc có thể là nói tất cả. Có thể có những chỗ ta không thể nói ra lời. Con hãy tưởng tượng về những điều đó. Rồi con lại hình dung nó một lần nữa. Nó sẽ 10 lần tệ hại hơn.

Đêm nào Văn Phú cũng muốn ta. Nhưng không phải theo cách như khi chúng ta sống ở nhà cha mẹ hắn. Ta rất ngượng ngùng, còn hắn hết mực dịu dàng, bao giờ cũng an ủi, vuốt ve ta, dừng lại khi ta quá sợ hãi, trước khi ta phải la lên. Ở Hàng Châu hắn nói đã đến lúc ta phải học để trở thành người vợ thực sự.

Ta nghĩ ta sẽ học một cái gì đó làm cho ta bớt sợ hơn. Tất nhiên ta vẫn còn hồi hộp lắm. Nhưng ta đã sẵn sàng học hỏi.

Đêm đầu tiên trong căn phòng nhỏ ở thiền viện, chúng ta nằm trên một giường hẹp, ta mặc áo ngủ, Văn Phú đánh độc cái quần đùi. Hắn hôn lên mũi, má và vai ta tán dương ta đẹp như thế nào, rằng ta đã làm hắn hạnh phúc ra sao. Rồi hắn thì thầm với ta những từ bẩn thỉu, chỉ các bộ phận trên thân thể người đàn bà - không phải những phần của người đàn bà bất kì mà là của một con điếm nước mặn, cái loại bán thân thể của nó cho những thủy thủ nước ngoài. Đôi tai ta đau lên khi nghe chúng. Ta đẩy hắn ra.

“Em không thể nói những từ này”, cuối cùng ta bảo hắn.

“Tại sao chứ?” hắn hỏi ta, trông hắn vẫn dịu dàng, rất quan tâm. “Một người đàn bà không nên nói những chuyện đó”. Ta nói tìm ra một lí do - Rồi ta cười, chút xíu thôi, cho hắn biết là ta mắc cỡ như thế nào dẫu chỉ nghĩ về điều đó. Bất thình lình nụ cười của hắn tắt ngay, hắn biến thành một con người khác. Hắn ngồi bật dậy khuôn mặt trở nên xấu xí điên dại còn ta rùng mình sợ hãi. Ta ngồi dậy vuốt ve vai hắn, sốt sắng muốn làm hắn nguôi giận.

“Nói đi”, bất thình lình hắn hét lên. Hắn lập lại ba, bốn từ dơ bẩn, “Nói đi!” hắn lại hết lên. Ta lắc đầu thút thít khóc, lúc đó hắn bắt đầu dịu dàng trở lại, lau nước mắt cho ta nói rằng hắn quan tâm đến ta bao nhiêu, vuốt ve lưng, cổ ta cho đến khi ta nghĩ ta xỉu đi vì sự nhẹ nhõm, vì niềm vui. Anh ấy chỉ muốn trêu đùa thôi, ta vui vẻ nghĩ. Ta mới ngu ngốc làm sao! Sau đó hắn giúp ta đứng dậy. Hắn cởi áo ngủ của ta ra và khi ta đã trần ngồng ngỗng, hắn nắm tay ta, nhìn ta một cách không che đậy.

“Nói đi”, hắn nói với giọng khe khẽ. Nghe những từ này một lần nữa, ta đổ sụp xuống sàn. Nhưng trước khi ta té xuống, hắn đã kéo ta dậy, lôi ta về phía cửa như một cái bao gạo. Hắn mở cửa đẩy ta ra ngoài hành lang thiền viện nơi bất cứ ai đi qua cũng có thể nhìn thấy ta không một miếng vải che thân.

Ta có thể làm gì được? Ta không thể la hét, một người nào đó sẽ tỉnh dậy thấy ta vì thế ta thầm van nài hắn qua cánh cửa, “Mở cửa ra! Mở cửa ra! Mở ra!” Không một động tĩnh trong vài phút cuối cùng ta đầu hàng, “Em sẽ nói.”

Từ đó những chuyện như vậy lặp lại đêm đêm, ở điểm này con có thể hình dung nhiều chuyện nữa, ở đây nó còn tồi tệ hơn nữa.

Thỉnh thoảng hắn bắt ta cởi hết quần áo, bò lổm ngổm trên sàn, làm như thể ta đang van nài hắn cho một lúc “dính vào nhau vui vẻ”, thế là ta tuyệt vọng làm tất cả mọi điều để xin một ân huệ. Hắn sẽ giả vờ từ chối với lí do ta không đủ đẹp, hoặc là ta là một người vợ tồi trong ngày hôm ấy. Ta đã phải van lên lạy xuống. Hàm răng ta tê dại lập cập cho đến khi ta thực sự phải nài xin cho ta đứng dậy khỏi sàn nhà lạnh cóng. Những đêm khác hắn bắt ta đứng ở trong phòng trần truồng run rẩy vì cái lạnh ban đêm, khi hắn gọi tên từng bộ phận cơ thể lên, ta buộc phải nói một lời thô tục sau đó chỉ tay vào chỗ ấy chỗ nọ, tự vuốt ve mình chỗ này chỗ kia, tất cả mọi chỗ, trong khi hắn quan sát, và cười nham nhở. Thường vào buổi sáng hắn than phiền, nói rằng ta không phải người vợ tốt, rằng ta sống không có đam mê, không như những người đàn bà hắn biết. Đầu ta, thân thể ta nhức nhối khi hắn kể cho ta nghe hết những người đàn bà này tới người đàn bà khác, cô ta tốt như thế nào, đẹp mà lại sẵn sàng ra làm sao. Ta không tức giận. Ta không biết là ta có quyền tức giận. Đây là Trung Quốc. Người đàn bà không có quyền giận dữ. Nhưng mà ta rất bất hạnh, biết rằng ta sẽ phải kinh qua bao nhiêu đau khổ nữa để chứng tỏ với hắn ta là người vợ tốt.

Ta khám phá một điều nữa về chồng ta trong tháng đầu tiên. Tất cả những người phi công khác đều gọi hắn là Văn Chân. Và điều này rất lạ đối với ta, bởi vì ta biết chồng ta tên là Văn Phú.

Ồ, hắn có hai người anh lớn, một người từng tên là Văn Chân. Nhưng người anh này đã chết hai năm trước vào năm 1935, vì bệnh lao, ta nghĩ thế. Gia đình thường nói chuyện về anh ta: Một người con sáng láng tận tụy, nhưng luôn bị bệnh, luôn ho ra máu. Ta nghĩ những người phi công này đã lẫn lộn, có thể Văn Phú có nhắc đến cái tên người anh đã chết, bây giờ họ nghĩ đó là cái tên của Văn Phú. Còn chồng ta thì quá lịch sự không sửa lại cái sai cho họ. Nhưng một ngày ta nghe hắn tự giới thiệu, lạ chưa! - Hắn nói hắn là Văn Chân. Tại sao thế, ta hỏi lại hắn sau đó. Hắn bảo là ta nghe nhầm. Tại sao hắn lại nói tên hắn là tên của người khác? Rồi ta nghe hắn nói thế một lần nữa. Rằng tên hắn là Văn Chân, lần này hắn bảo ta rằng, lực lượng không quân đã viết nhầm tên hắn. Làm sao hắn có thể sửa lại cái sai của toàn bộ lực lượng không quân. Hắn nói hắn phải bảo với họ rằng Văn Phú là cái tên hồi còn nhỏ, chỉ là một biệt hiệu.

Ta chấp nhận điều hắn nói, nghe cũng có lí. Nhưng sau đó, khi ta soạn lại mấy cái thùng giấy để bỏ đi một số đồ, ta tìm thấy một cái bằng, một lá đơn xin gia nhập không quân. Những giấy tờ này của Văn Chân người anh chồng đã chết của ta, người đã tốt nghiệp trường hải quân thương mại hạng ưu. Sau đó ta biết: Chồng ta không đủ tiêu chuẩn để gia nhập không quân, nhưng lại đủ khôn ngoan để mạo nhận là người anh đã chết.

Bây giờ ta cảm thấy như thể chồng ta có hai con người. Một chết, một sống. Một thật, một giả. Ta bắt đầu nhìn hắn một cách khác, quan sát hắn nói láo, thật trơn tru, bình tĩnh. Hắn giống như những con chim đậu trên mặt nước mà không làm gợn sóng. Vì vậy con thấy đấy ta cố gắng làm một người vợ không quá xấu của hắn.

Ta gặp Helen vào khoảng hai tuần sau ngày chúng ta đến Hàng Châu. Dì ấy cũng rất trẻ có thể là 18 tuổi, nghe đâu rằng cũng vừa mới lấy chồng - không phải cưới anh trai ta. Nhưng mà ta sẽ nói về điều đó sau này. Ta nhìn thấy dì ấy nhiều lần trước đó - trong phòng ăn hoặc là trong khuôn viên của thiền viện nơi cả hai chúng ta cùng đi dạo hoặc là ở ngoài phố, mua thịt, rau ở những cái sạp ngoài vỉa hè. Tất cả phụ nữ ở trong thiền viện điều biết nhau, bởi vì chỉ có sáu người. Phần lớn các phi công đều rất trẻ hầu như còn là những cậu bé, rất ít người có vợ. Những huấn luyện viên người Mỹ không có vợ hoặc bạn gái ở với họ, mặc dầu thỉnh thoảng họ có dẫn vào phòng họ một cô gái lăng loàn ở địa phương. Bao giờ cũng là một cô gái ấy, sau này ta nghe như vậy, bởi vì cả năm người Mỹ đều do cô ấy truyền cho một thứ bệnh, đó là một loài rận vô hình mà ai cũng nói rằng nó sống ở trong bồn tắm. Trên thực tế chính vì cô ấy, con kí sinh trùng mang bệnh ấy mà ta gặp Helen. Không một người vợ nào muốn dùng cái nhà tắm ấy nữa cả khi các ông sư tuyên bố rằng bệnh này không lây. Chúng ta nghe rằng không thể giết được cái loài rận này. Nếu một phụ nữ bị lây thì cô ta cũng chẳng khác gì một con điếm. Bởi vì cô ta sẽ suốt ngày gãi sồn sột vào chỗ kín. Cơn ngứa chỉ dịu đi khi cô ta có một người đàn ông gãi cho cô ta vào sâu nữa chỗ kín.

Ta nghĩ sẽ phải yêu cầu chồng ta làm việc ấy. Tất nhiên ta cũng nhớ thời gian ở đảo khi ta bị một con mồng cắn, ta đã sột soạt luôn tay tựa gảy đàn, kêu lên yangsele như thế nào. Đó là cái kiểu hành vi của một người vợ không trung thành, một người luôn ngứa ngáy cái ấy đến độ cô ta cho phép mình trở thành một con điếm - không chừa một ai. Người Trung Hoa, người Mỹ, người hủi… Đấy là một loại kiến thức lưu truyền giữa những người phụ nữ trẻ mới cưới. Tất nhiên chúng ta tin vào điều này. Thì có ai nói cho chúng ta điều gì khác đâu? Con có nghĩ ta chỉ là một con mụ ngu ngốc không?

Thế là tất cả chúng ta - năm người phụ nữ và ta - quyết định không dùng buồng tắm nữa. Trái lại, một người trong bọn, một thiếu phụ hợm hĩnh luôn than phiền về bất cứ chi tiết gì - đã tìm ra một cái phòng từng dùng để chứa lá trà mang từ trên núi xuống. Trên sàn vẫn còn phủ đầy những lá trà cũ từ nhiều vụ trước. Có một cái bếp củi ở góc phòng dùng để sấy trà.

Chúng ta quyết định dùng ngay cái bếp lò này để làm nóng căn phòng, biết nó thành một nhà tắm. Chúng ta chăng dây quanh phòng rồi căng những tấm vải lớn lên để ngăn ra thành những buồng tắm nhỏ.

Sau đó chúng ta thay phiên nhau, hai người chạy tới chạy lui giữa phòng phơi trà và bếp ở đầu kia của tòa nhà, mang những cái xô nước sôi và quần áo đã được đun sôi. Ba người kia ngồi trên ghế đẩu. Đằng sau những tấm chăn, nhúng vải vào trong thùng nước rồi lau lên người. Nước sẽ chảy xuống sàn ngấm vào những lá trà. Hơi nước sẽ bốc lên từ những cái xô đặt trên sàn. Chẳng bao lâu cả không gian thơm ngát hương trà rồng. Chúng ta đều hít vào thở ra. Hít vào thở ra để những làn hơi này ngấm thành những giọt sương đọng trên khuôn mặt. Chúng ta không quan tâm đến nhà tắm nữa. Ngay cả cái cô gái hợm hĩnh cũng cười vang, nói rằng cô ta rất là sung sướng vì những người Mỹ đã mắc bệnh này. Tối tối ta có công việc thật quan trọng ta mang những thùng nước nóng từ bếp đi ra cùng cô gái tên là Huệ Lan. Đó là cái tên ngày xưa của Helen: Huệ Lan. Con thấy đấy, Helen đâu phải chị dâu ta. Bà ấy đâu phải dì con. Làm sao ta có thể nói với con điều đó, rằng ta đã gặp dì ấy trong thời gian chiến tranh ở Trung Quốc? Khi con còn bé thậm chí con không biết rằng ở Trung Quốc cũng có chiến tranh! Con nghĩ chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu một vùng ở Hawaii có cái tên giống như tên con Pearl Harbor - Trân Châu Cảng. Ta cố gắng nói với con, nhưng con luôn chỉnh lại. Con nói, “Ôi mẹ, đấy là lịch sử Trung Hoa.” Điều đó đúng, rất đúng. Con đã bảo ta điều đó một lần. Nếu ta bảo con dì Helen không phải dì con, có thể con cũng chỉnh ta về điều đó nữa.! Con thấy đấy, con vẫn cố gắng sửa lại mẹ con mà. Dù sao thì điều đó cũng là sự thật. Ta gặp Helen ở buồng tắm. Dì ấy tên là Huệ Lan. Mấy đêm đầu ta cũng không nói nhiều với cô ấy, có lẽ chỉ thỉnh thoảng hỏi cô ấy, “Nước có đủ nóng không?” Cô ấy là vợ của một đội phó, thủ trưởng của Văn Phú. Vì thế ta nghĩ ta phải cẩn thận từng lời ăn tiếng nói với cô ấy, không than phiền về điều kiện ăn ở của chúng ta hoặc không nói rằng ta muốn ở Hàng Châu mãi mãi. Cô ấy có thể nghĩ rằng ta không muốn các phi công của ta trải qua kì huấn luyện.

Nhưng ngay từ đầu cô ấy đã rất thân thiện, thậm chí còn mạnh miệng nói với ta rằng các nhà sư không sạch sẽ tí nào, rằng trên thực tế họ rất bẩn, bởi vì cô ấy đã tìm thấy móng chân, tóc tai dưới gầm giường của cô ấy. Ta cũng chẳng ừ hử, mặc dầu ta cũng thấy những thứ bẩn thiểu ấy dưới gầm giường của ta, thậm chí còn ở trên giường nữa.

Sau đó cô ấy bảo ta rằng chồng cô ấy, một người tên là Long Gia Huy than phiền rằng cái đợt tập huấn này vẫn gặp nhiều trục trặc. Cô nói người Mỹ có nhiều ý kiến bất đồng với người Trung Hoa. Bây giờ có một đề đạt là sẽ đưa tất cả mọi người đến trại huấn luyện ở Lạc Dương. Cô ấy nói rằng điều đó rất đáng sợ bởi vì Lạc Dương là một nơi rất kinh khủng, một thành phố chỉ có hai mùa lụt lội, bão cát. Vậy mà nó đã từng là một nơi nổi tiếng với hàng trăm ngàn những bức tượng Phật, và trong những năm gần đây hầu hết những bức tượng Phật đã bị chặt đầu. Vì thế nơi này với bao nhiêu bức tượng bị tàn phế sẽ chỉ mang lại cho lực lượng không quân những điều xúi quẩy nhất.

Ta tự hỏi làm sao cô ấy biết rõ về Lạc Dương, có phải cô ấy từng sống ở một làng gần đấy không. Cô ấy nói năng rề rà với cái giọng oang oang quê đặc mà ta không thể phân biệt được là vùng nào. Cử chỉ của cô ấy vừa vụng vừa thô, chẳng duyên dáng chút nào. Nếu cô ấy đánh rơi một cái trâm cài đầu, thì cô ấy chỉ đơn giản là cúi xuống, chổng mông lên, nhặt cái trâm, cài bừa lên bất cứ chỗ nào. Khi đi cô ấy bước những bước dài, quơ quơ hai tay giống như một người gánh hai thùng nước nặng.

Rõ ràng cô ấy có điệu bộ của một hầu gái chốn nhà quê. Ta ngạc nhiên tự hỏi làm sao cô ấy có thể lọt mắt xanh một người đội phó, một người có học, đẹp trai, chắc chắn xuất thân từ một gia đình quyền quý. Ta cũng biết nhiều cô gái khác xuất thân từ những gia đình nghèo có diễm phúc cưới được chồng cao sang. Nhưng vẻ đẹp của họ không ai sánh được, các bà mẹ chồng đã nhanh chóng huấn luyện họ có một phong thái phù hợp. Huê Lan không thể gọi là đẹp được, ngay cả khi con chấm điểm cô ta với cái nhìn rộng lượng: mập mạp nhưng không phải là cái mập mạp cổ điển của những trái đào mà cái nước da hồng hào của nó gần như trào ra với tất cả sự ngọt ngào. Cái mập mạp của cô ta là cái gì thừa mứa tràn ra một cách vô tội vạ giống như một cái bánh hấp bị xì, nó tràn ra khắp mọi phía. Cổ chân to tướng, cánh tay vạm vỡ, hai bàn chân to như hai cái bơi chèo. Cô lại để một kiểu tóc thông thường kiểu phương Tây chẻ một đường ngôi bên như thế này, chải tóc thẳng ra sau, uốn quăn vào. Cô ta không có một chút ý thức thẩm mỹ nào. Một hôm ta gặp cô ta mặc một cái đầm hoa theo kiểu phương Tây, bên trong là một cái áo Trung Quốc màu vàng, phất phơ như một cái đuôi dài, ngoài cùng cô bận một cái áo len tự đan lấy, với hai cánh tay áo ngắn củn. Trông cô ta giống như một đống quần áo chăng ra để hong cho khô.

Ta không quá khắt khe khi nhớ lại hình dáng của cô ta chỉ bởi vì ta giận dữ Helen bây giờ đâu. Tại sao ta lại phải giận dữ chứ? Bởi vì chính Helen là người muốn kể với con dâu chuyện của ta, muốn lôi ra ánh sáng tất cả mọi thứ trước khi dì ấy chết. Tất nhiên, cuối cùng tự ta phải nói chuyện này. Ta phải đợi đến đúng thời điểm. Bây giờ con ngồi đây để ta kể cho con nghe mọi chuyện. Mặc dù rất giận dữ ta vẫn có thể nhớ được nhiều điều tốt đẹp về Huê Lan. Phải, đôi mắt của cô ấy trông rất hiền, luôn mở to, đôi má của cô ấy căng tròn dễ thương làm cho miệng của cô ấy nhỏ đi có cái gì rất dễ thương, ngọt ngào. Cô ấy có một cái cằm xinh xắn, không quá mạnh mẽ cũng không có cái vẻ yếu ớt. Và cô ấy là người trung thực, thẳng ruột ngựa, không bao giờ giấu diếm cảm xúc của mình.

Hoặc có thể không phải là sự trung thực mà là sự ngu xuẩn, một sự thiếu tinh tế, không hiểu khi nào thì cần phải kín đáo. Phải cô ta là như thế đấy. Nói huỵch toẹt tất cả cứ như không.

Hãy coi cô ấy như thế này. Khi chúng ta tắm giặt với nhau mỗi tối, cô ấy ngồi trên một cái ghế hai chân dạng ra như thế này, xát cái khăn vào người thật mạnh – ngực, nách, đùi non, chỗ kín, mông, sau lưng cho đến khi cả người cô ấy nổi lên những vệt đỏ rực. Cô ta chổng mông lên như một con chó, chẳng có quần áo gì hết trơn, rồi nhúng cả đầu vào chậu nước còn lại sau khi tắm, hơi nước vẫn còn bốc lên nghi ngút.

Ta lấy làm xấu hổ cho cô ấy – và cho chính mình, biết rằng ta cũng hiện hình với chồng ta như thế hằng đêm. Ta cố gắng không nhìn cô ấy. Ta giả vờ đang bận bịu kỳ cọ, đôi cánh tay mảnh dẻ của ta khoanh lại che ngực, một cái khăn lớn cuốn ngang bụng, trong khi ta dùng một miếng vải khác kín đáo kì cọ phía bên trong. Nhưng ta không thể không nhìn Huê Lan. Cô ta mới trông gớm ghiếc làm sao chứ. Ta quan sát cô ấy trong khi cô ta nhúng đầu lên lên xuống xuống vào trong một cái chậu giống như một bà điên, rồi ngẩng đầu lên vắt tóc bằng hai cánh tay mạnh mẽ xoắn nó như xoắn một cây lau nhà. Cô ấy đứng lên một cái khăn ở bên tai, lau mũi lau cả người, cười với ta, nói, “Nhìn chị kìa! Nước của chị sẽ bốc hơi hết trước khi chị tắm xong.” Sau khi tắm, Huê Lan và ta cùng đi dạo tìm kiếm những chuyện thú vị, bao giờ đó cũng là gợi ý của Huê Lan. Cô ấy gia công lượm lặt những chuyện đồn đại trong nhà ngoài phố, cô ấy dường như nói chuyện với tất cả mọi người, hỏi xem có gì bất thường không, một lần cô ấy nghe kể về một dòng suối kì diệu.

“Nước trong dòng suối này”, cô ta nói. “Nặng như vàng, ngọt như mật, nhưng lại trong như pha lê. Nếu chị soi mình xuống nước chị sẽ thấy gương mặt mình rõ như trong gương soi vậy. Chị có thể nhìn xuống tận đáy nước phủ đầy những hòn đá đen. Em nghe nói rằng nếu chị múc một li nước đầy, rồi thả những viên sỏi đen vào trong li để làm nước tràn ra, nước sẽ đặc lại. Một nhà sư nói với em như thế.” Nhưng khi chúng tôi tìm đến dòng suối này hóa ra đó chỉ là một cái tiệm trà, có bán một loại trà có hương vị đặc biệt. Huê Lan uống thử rồi nói rằng nó thật sự là một phép màu. Nó tràn vào tim vào phổi, sau đó làm cô ta hoàn toàn thanh thản. Một lần khác, cô ấy lại biết một chỗ trong thành phố bán loại mì gọi là “tai mèo”, ngồi trên một cửa sổ của cái tiệm ăn này là một nửa tá mèo cụt tai – một bằng chứng cho thấy nhà hàng này không phải loại treo đầu dê bán thịt chó. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ tìm thấy chỗ này, sau này ta biết rằng “tai mèo” chỉ là từ địa phương để gọi món mằn thắn. Ta bắt đầu nghĩ rằng mọi người thích lừa Huê Lan, quan sát miệng cô ta há ra vì kinh ngạc khi họ kể cho cô ta những điều dối trá kinh khủng để rồi cười sau lưng cô ta. Ta cảm thấy thương hại cô đến nỗi ta chẳng muốn mình là người đầu tiên bảo cho cô ấy biết sự thật rằng mọi người chỉ đem cô ra làm trò đùa mà thôi. Nhưng sau đó ta cảm thấy khó chịu. Ta biết rằng cô ấy chỉ giả vờ ngây thơ, giả vờ sẵn lòng tin vào những gì người khác nói thôi, “Đi xem con rắn trắng có hình một người đàn bà đi, đi xem cái hang với những tiếng tiêu tiếng sáo đi.” Sau này khi cô ấy mời ta đi xem những thứ này, ta bắt đầu kiếm cớ thoái thác, rằng ta mệt, bụng ta hơi bị đầy, chân ta sưng phồng đến nỗi không đi được. Ta nói những cái cớ này thường xuyên đến nỗi chúng trở thành sự thật. Những ý nghĩ đạo mai. Mọi chuyện xảy ra giữa ta và Huê Lan là thế đấy. Cô ấy trồng cấy cả một cánh đồng hi vọng từ một cái hạt giống bé nhỏ của tưởng tượng. Mặc dù ta không biết điều này, với tất cả những cái cớ đưa ra để từ chối Huê Lan, ta bắt đầu mang thai.