Chương 10 LẠC DƯƠNG MAY MẮN
Khi chiến tranh nổ ra ta cũng không biết nữa. Bây giờ chắc con nghĩ mẹ con là một kẻ ngu đần – thiên hạ đánh nhau ầm ầm mà cũng không biết nữa.
Nhưng con phải biết là, không phải chỉ mình ta mà còn có nhiều người cũng không biết – không phải vì ngu ngốc mà vì bàng quan. Lúc đó cũng chả có ai bảo con điều đó. Và con cũng chẳng có nơi nào để hỏi những thông tin chính thức. Những ông chồng không nói gì với chúng ta. Chúng ta chỉ nghe hơi nồi chõ thôi.
Nếu con đọc được một cái gì trên báo thì con cũng không thể tin dù chỉ một phần trăm. Báo chí chỉ nói những điều mà chính quyền muốn con nghe, chỉ những điều tốt đẹp về phía họ, những điều tồi tệ về phía địch. Ta không chỉ nói về những chuyện đang xảy ra ở Trung Hoa ngày nay. Điều đó đã xảy ra trong chiến tranh, thậm chí còn trước đó nữa. Có thể là bao giờ nó xảy ra như vậy, họ làm thế để cho mọi người thờ ơ, giống như một truyền thống làm xa lạ hóa mặc dù chẳng có ai gọi như vậy.
Vì thế mà chúng ta chỉ có được tin tức qua những chuyện ngồi lê đôi mách từ miệng người này qua miệng người kia. Chúng ta không nói về những chuyện đánh đấm nhiều. Chúng ta trao đổi về những gì ảnh hưởng trực tiếp đến chúng ta, cũng giống như mọi người ở nước Mỹ này – thị trường chứng khoán, vật giá lên hay xuống, cái gì đắt quá con không đủ tiền mua, những chuyện đại loại như vậy thôi.
Tất nhiên, bây giờ nhìn lại, ta biết cái gì đã khơi ngòi nổ chiến tranh. Con nghĩ nó bắt đầu ở Châu Âu phải không? Con xem, có thể con cũng không quan tâm đến điều này nốt. Nó bắt đầu ở Trung Quốc với tiếng súng đạn vào lúc nửa đêm ở Bắc Kinh, một vài người bị giết nhưng những người Nhật cũng bị đánh bại.
Con không biết điều đó phải không? Ấy vậy mà ta biết đấy. Có điều nghe những chuyện này ta cũng chẳng chú tâm lắm. Những chuyện đụng độ như thế trở nên thường xuyên trên lục địa Trung Hoa từ nhiều năm trước. Vì thế nó có vẻ chỉ là một sự thay đổi nhỏ, giống như tất cả chúng ta đều đồng loạt kêu ca cái nóng nực vào buổi sớm đầu hè hôm nay còn khó chịu hơn ngày hôm qua. Đó là điều mà ta nhớ về chuyện chiến tranh nổ ra, chỉ giống như chuyện thời tiết, cái không khí nóng ẩm làm cho đầu óc ta cũng lờ đờ như đôi chân mệt mỏi của ta.
Suốt trong thời gian đó Huê Lan và ta chẳng nghĩ gì ngoài chuyện món ăn nào có thể làm mát ruột mát gan. Chúng ta bận bịu với việc quạt phành phạch hoặc là đuổi ruồi với một cái quạt tua rua. Ban ngày chúng ta chẳng làm gì ngoài việc uống trà nóng, tắm nước lạnh, ngủ trưa rõ lâu, hoặc là ngồi ở ngoài hiên, chuyển cái ghế của chúng ta vào trong hiên khi mặt trời di chuyển trên bầu trời, chiếm hết bóng râm của chúng ta.
Ta mệt mỏi thường xuyên, cảm thấy chẳng hào hứng trò chuyện gì. Huê Lan thì quàng quạc luôn như một con chim lắm mồm. Cô ta nói cô ta biết chính xác tại làm sao ta cảm thấy khó ở. “Thức ăn họ phục vụ chẳng tươi gì cả, tất cả đều chua,” cô ta nói.
Khi thấy ta không bắt lời, cô ta lại tiếp tục kêu ca chuyện khác. “Ở dưới kia kìa,” cô ta nói chỉ tay về hướng thành phố, “còn tệ hơn nữa bốc mùi kinh tởm như là nhà tắm với những con rận. Ở đấy, mùi hôi thối từ các rãnh nước có thể làm cho mũi chị co lại.” Những kiểu nói chuyện như thế không làm cho bụng ta có cảm giác dễ chịu hơn chút nào.
Vào buổi tối các phi công, những người thầy huấn luyện trở về thiền viện ăn tối. Tất cả chúng ta ăn trong một sảnh lớn. Nhưng người Mỹ ăn thức ăn dọn trên những cái đĩa của họ. Quá nhiều thức ăn khó tiêu – tất cả chúng ta đều thì thầm – trong thời tiết nóng nực như thế này. Chỉ nhìn thấy chúng ta cũng đã phát bệnh.
Huê Lan, Gia Huy cùng ăn với Văn Phú và ta. Chúng ta ăn tối cùng nhau như thế nhiều lần, ta nhớ ta đã nghĩ về sự khác nhau giữa chồng Huê Lan và chồng ta. Anh ấy lớn hơn Văn Phú, có thể là 10 tuổi hoặc hơn. Bởi vì anh ấy là sếp của Văn Phú, là đội phó, anh chắc chắn là nhiều quyền lực hơn. Tuy vậy điều đó không hoàn toàn đơn giản như thế. Một tối chúng ta nghe Huê Lan rầy la Gia Huy, bảo anh ấy không được ăn cái này cái kia, bởi tình trạng gan ruột của anh ấy. Một đêm khác cô ta thông báo là đã tìm thấy cuốn sách mà anh ta đãng trí vất đi đâu mất. Cũng một lần khác, cô ta nói rằng cô đã cố giặt những quần áo dơ của anh nhưng vết dơ trên quần của anh ta vẫn không sạch được. Nghe tất cả những điều này, Văn Phú và ta nhìn Gia Huy chờ xem những gì sẽ bùng nổ tiếp theo. Văn Phú đã bảo rằng tính khí Gia Huy nóng như lửa, rằng anh ta đã một lần ném một cái ghế vào một người phi công khác, chiếc ghế chỉ sượt qua người này trong đường tơ kẽ tóc. Nhưng mỗi lần nghe Huê Lan mắng mỏ, Gia Huy dường như không giận dỗi hay mắc cỡ gì cả. Anh chỉ lờ cô đi giống như ta vẫn thường làm vậy. Anh tiếp tục vừa ăn vừa nói, “Dào ôi,” trong khi Huê Lan vẫn tiếp tục nổ lép bép hết chuyện này đến chuyện kia. Nếu Văn Phú có thể cấm ta chơi với Huê Lan, hắn sẽ làm thế, ta chắc như vậy. Nhưng làm sao hắn có thể bảo ta không thân thiện với vợ của sếp? Hắn thường nói xấu Huê Lan, “Một người đàn bà như thế,” hằn dè bỉu, “chỉ là một con điếm mạt hạng, một con quỷ cái. Anh thà góa vợ còn hơn có một người vợ như thế.” Ta chẳng nói gì. Nhưng ta âm thầm ghen tị với Huê Lan. Chồng cô khoan dung với vợ dẫu rằng cô ấy chẳng phải là người lí tưởng. Nhưng ta cũng chẳng ngưỡng mộ gì Gia Huy. Ta thương hại anh ta, tất cả nhược điểm của anh ta đã bộc lộ trước mặt mọi người như thế đấy. Tất nhiên ta không biết những chuyện xảy ra trong cuộc hôn nhân của họ, tại sao anh ta lại để cô ta lờn mặt như vậy?
Sau bữa tối, cánh đàn ông, người Mỹ cũng như người Hoa sẽ ở lại trong phòng chung, đánh bài. Nếu cánh phụ nữ ra ngoài tìm một ngọn gió lành, muỗi lập tức reo lên vì sung sướng khi nhìn thấy chúng ta – vo vo vo – đuổi chúng ta trở lại vào trong nhà. Chúng ta ngồi quan sát bọn đàn ông đánh bài, ngồi giữa cái mùi thuốc lá và xì gà, mùi mồ hôi người ngoại quốc và rượu nặng của Trung Hoa.
Chứng kiến cảnh này, ta biết thêm một điều rằng chồng ta rất có uy thế với những người đàn ông khác. Có một người đàn ông bao giờ cũng dành cho hắn một cái ghế ở gần cái quạt trần nhất. Một người đàn ông khác bao giờ cũng mời hắn một li rượu hoặc một điếu thuốc lá. Văn Phú sẽ thưởng cho họ một tiếng cười hô hố rất kẻ cả trong khi đấm tay thùm thụp lên bàn. Những người đàn ông khác sẽ cười theo, cũng nện lên bàn như thế. Một lần ta nhìn thấy Văn Phú nhảy cỡn lên, nói to, “Muốn biết cái ông thầy Mỹ dạy tôi cái gì hôm nay không?” Hai người đàn ông khác cổ vũ hắn, sau mọi người cười chảy cả nước mắt ra, khi hắn ưỡn ngực lên hai tay chống nạnh xoay lui, xoay tới sủa lên những câu vô nghĩa.
Ta nhận thấy sự ngang tàn cộng với sự bất cẩn của hắn đã làm những người đàn ông khác kính nể, cũng muốn như hắn, có cái vẻ yênh hùng; không bao giờ nếm mùi thất bại, không hiểm nguy nào sờn. Người ta chắc phải tin vào điều đó khi làm bạn với hắn, khi cười theo tiếng cười hào sảng của hắn, cái cảm giác này cũng sẽ căng phồng trong lồng ngực của họ.
Nhưng hắn cũng làm cho họ sợ, làm cho họ cảm thấy hắn nguy hiểm như thế nào. Ta đã chứng kiến điều đó. Một lần hắn nhảy ra khỏi một cái bàn hết sức giận dữ, làm cho mọi người hoảng sợ. Hắn quát tháo một người đàn ông trẻ ngồi trước mặt hắn, đập lên những quân bài, hỏi đi hỏi lại, “Có phải anh chơi xấu tôi không, có phải đây thực là quân bài của anh không?” Người đàn ông trẻ - trên thực tế tất cả những người đàn ông ngồi trên bàn ấy – không có khả năng nhúc nhích hoặc mở miệng nói một câu, trong khi chồng ta vẫn tiếp tục la hét ồn ào. Rồi trong khi vẫn đứng, hai tay tì lên bàn hắn bất thình lình mỉm cười.
“Vậy thì tốt,” chợt hắn thảy quân bài của hắn ra. – Ui cha, hắn đã thắng. Những người đàn ông nhìn nhau, cười rộ lên, đánh vào lưng người đàn ông bị buộc tội khi nãy, chúc mừng chồng ta trong cái trò đùa vừa rồi.
Huê Lan, Gia Huy, tất cả những người đàn ông khác trong phòng đều nghĩ là chồng ta mới thông minh, duyên dáng, vui vẻ làm sao. Ta cũng cười rất to, một tiếng cười gượng gạo. Ta biết rằng chồng ta đã chơi cái trò vừa rồi không phải chỉ với ta mà còn với bạn bè của hắn. Ta cũng bắt đầu hiểu rằng, hắn độc ác, xấu xa nhưng dường như không ai nhìn thấy điều đó. Vì thế có thể chỉ ta biết điều đó bởi vì ta không bàng quan. Những người phi công khác đều thông minh, tốt bụng, nhưng họ không nhìn thấy cái điều mà ta đã thấy. Hắn buộc tội, hành hạ, la hét và dọa dẫm. Nhưng đúng đến cái lúc con nhận thấy không còn đường lui, hắn sẽ mở một con đường thoát hiểm, thoắt trở nên tử tế, khoan dung, tươi cười và hạnh phúc. Trở mặt như trở bàn tay, con người của hắn là như thế. Tất nhiên chúng ta bị đẩy đến chỗ lúc nào cũng phải tìm cách làm hài lòng hắn. Khi chúng ta không làm được điều đó, chúng ta cố gắng hết mình để làm cho bản tánh tốt của hắn quay trở lại. Sợ rằng chúng ta sẽ bị thua nếu không làm được như vậy.
Những buổi chiều mùa hạ, bầu trời đang trong sáng bỗng đen sầm lại, sấm chớp ì ầm nổi lên. Mỗi khi nghe thấy tiếng sấm Huê Lan và ta vội vã cùng nhau xách một làn đồ ăn nhỏ, một làn đồ thêu hoặc một cái gì đó đại loại như thế. Đó cũng là một cuộc phiêu lưu. Chúng ta sẽ bước nhanh trên con đường phía sau thiền viện, trèo lên ba dãy bậc thang cho đến khi chúng ta đến một cái đình nhỏ bốn phía trống trải tọa lạc trên một cái đồi nhỏ với cái phông là những quả đồi xanh ẩm ướt xa xa, một cái hồ dưới chân đồi, xa hơn nữa là một thành phố nhộn nhịp. Trên cái thiên đường nhỏ bé này chúng ta có thể ngắm cả cái thế giới được tắm gội cho đến khi chúng ta không còn nhìn thấy thành phố hay những quả đồi nữa, tất cả chỉ còn là một tấm màn trắng bạc của nước mưa cô lập chúng ta hoàn toàn. Cái đình này gợi cho ta nhớ đến khu nhà kính trên đảo. Nó làm ta nhớ nhà – dù không hẳn là cái nhà nơi thím Lớn, thím Nhỏ sống. Ta khao khát được trở về cái nơi mà ta đã từng ẩn náu, nơi ta giả vờ bị lạc, khi ta tưởng tượng có ai đó đi tìm ta – Ta nhớ về cái kho báu sứt mẻ nhỏ bé đáng thương của ta: bức ảnh của mẹ, đôi cánh bướm bị vùi trong đất, một cái nụ hoa khô mà đã có thời ta tưới nước mỗi ngày nghĩ rằng nó có thể lớn lên thành một thiên thần trong trắng, làm bạn với ta trong mỗi trò chơi.
Tất nhiên ta không nói với Huê Lan về những cái trò chơi con trẻ ấy. Chúng ta lặng lẽ ngồi trong đình giống như hai phụ nữ có chồng chững chạc, nhưng ta cũng nghĩ rằng cả hai đang lục lọi trong kí ức cố nhớ lại cái gì đã làm cho chúng ta mất đi tuổi thơ nhanh chóng đến như thế. Ta nhớ một buổi chiều chúng ta ngồi trong cái thế giới nhỏ này, trong tiếng sấm chớp nhì nhằng, mưa càng lúc càng đổ xuống nhanh hơn, mạnh hơn, dường như mưa không bao giờ tạnh. Có vẻ bất bình thường với cái cơn mưa nặng hạt, lâu hàng giờ như thế. Chúng ta nóng ruột, mặc dầu chúng ta cố không tỏ ra điều ấy.
“Chúng ta phải quay về thôi,” Huê Lan nói ngay lúc ấy. “Nhưng chúng ta làm thế nào mà về được? Đừng lo lắng chắc chắn là nó phải tạnh chứ,” ta nói. “Ai, nói gì về chuyện lo lắng? Chị đang nói chuyện với một người đã sống với lũ suốt cuộc đời, nước ngập đường, ngập đến ngang lưng em, trước khi em kịp uống một li trà.” Huê Lan cáu kỉnh.
Trong khi ngồi đợi mưa tạnh, ta đọc tờ báo Thượng Hải cũ mà ta tìm thấy trong phòng ăn tối mấy ngày trước. Có rất nhiều chuyện giật gân: Một nghệ sĩ nổi tiếng dính líu đến một vụ xìcăngđan lớn, một ca sĩ Do Thái gốc Nga vừa đến từ Mãn Châu Quốc, hát cho một vở kịch nổi đình nổi đám. Cướp nhà băng, cũng cái nơi đã bị cướp trước đây 2 tuần. Một con ngựa Anh tên là Đi thêm một dặm đường đã thắng trong cuộc đua lần trước. Một quảng cáo cho loại thuốc Jellow có thể chữa được bệnh trầm uất, đầu óc chậm phát triển. Thím Lớn đã từng mua cho chú một chai thuốc lớn như thế. Không có nhiều tin về chiến sự, chỉ có một tuyên bố của Tướng Tưởng huênh hoang rằng Trung Quốc sẽ không nhượng bộ bất cứ điều gì với Nhật Bản dù chỉ một tấc đất.
Trong khi đọc báo ta giơ tay với cái giỏ đựng thức ăn vẫn còn nguyên từ trước tới giờ. Có lẽ mối âu lo của ta về chiến tranh đã làm ta chán ăn. Ta thường không nuốt được gì cho đến khi ta thấy đói bụng. Phút này ta thèm ăn một thứ nhưng một phút sau đó ta đã không thể nuốt nổi miếng thứ hai, vào một phút khác ta lại muốn ăn một món gì khác! Thế là ta tích trữ mỗi thứ một ít, ta ăn tất cả mọi thứ, nếm náp chút đỉnh tùy theo sự thèm ăn, tình trạng tiêu hóa của mình: một miếng cá khô mặn chát, một lát thịt bò ướp đường, dưa chua ngọt thậm chí cả bắp cải muối cay chặn đứng việc ăn uống bằng cách làm mắt ta cay xè cho đến khi nước mắt trào ra. Những món đồ ăn ở đây các con gọi là snach.
Khi cả những món đồ ăn này cũng chưa đủ ta bảo Huê Lan mang theo chút gì để ăn nếu như cô ấy có món gì mằn mặn, giòn giòn. Đó là lúc Huê Lan bảo là ta đã có bầu.
“Em biết rõ mà,” cô ấy nói cứ như là cô ấy đã sinh hàng trăm đứa cho đời. “Đó là dấu hiệu chắc chắn về một cái gì đó trong người chị đang thèm nếm tất cả mùi vị trên đời. Chắc chắn là một đứa con trai căn cứ vào chuyện ăn dở của chị.”
Khi cô ta nói điều ấy, ta không tin. Ta mới 19 tuổi, vẫn còn ở tuổi đang phát triển. Huê Lan thậm chí còn ít tuổi hơn ta, làm sao mà cô ấy biết được? Không có gì hết, chẳng có đứa bé nào sẽ chui đầu qua núm ruột của ta hết. Tuy vậy ta vẫn cảm thấy một cái gì đó, có thể là thèm muốn cho một đời sống có thể ăn tươi nuốt sống ta.
Lúc đó ta nghĩ, không, đó chỉ là sự bất hạnh của ta, bao giờ cũng muốn một cái gì khác hơn nữa, chẳng bao giờ hài lòng với những điều mà cuộc đời đã trao tặng cho ta. Thím Lớn cũng đã một lần nói rằng mẹ ta cũng như thế trước khi bà chết. “Lòng dạ lúc nào cũng sôi sục,” thím chỉ tay vào bụng, “không bao giờ thỏa mãn, bao giờ cũng tìm một quả lê trong khi mẹ con đã có trong tay 10 quả mận đã được chọn lựa kĩ càng.”
“Đó chỉ là cảm giác bất an ở bao tử,” ta bảo Huê Lan, “tất cả những cái này báo hiệu điều gì xấu sắp xảy ra.”
“Em đã bảo chị mà, đó là một đứa bé.” Ta lắc đầu.
“Một đứa bé,” cô ấy khẳng định, gật đầu.
“Em nghĩ chị không biết gì về đứa con trong bụng mình sao?”
“Vậy thì nói cho em nghe xem kì kinh cuối của chị là vào lúc nào?”
Mặt ta lập tức nóng bừng lên! Cô ấy nói to cái từ ấy, đơn giản cứ như là nói về bệnh ho, nhức đầu hay là chuyện một hạt bụi bay vào mắt.
“Chuyện này thì có liên quan gì đến con cái chứ?”, ta nói, Huê Lan cắn vào môi dưới cố nén cười.
“Mẹ của chị không nói gì với chị sao?” Ta cố gắng nhớ lại những điều thím Lớn nói với ta vào cái buổi sáng ta thấy kinh. Ta thức dậy, cảm thấy dinh dính trong người, vén cái áo ngủ lên nhìn xuống chân. “Có ai đó đã đâm tao mày ạ!” ta thì thầm với Peanut, nghĩ rằng đang sống trong một cơn ác mộng. Peanut nhìn thấy máu trên người ta, la lên. Nó nhảy xuống giường chạy ra ngoài sân, kêu choe chóe “Nhanh lên! Vi Vi bị giết rồi cũng giống như mẹ nó. Nó sắp chết rồi! Cứu nó, cứu nó mau.”
Thím Lớn chạy ra khỏi phòng sau đó là thím Nhỏ, hai người đầy tớ, mấy đứa con trai em họ ta, sau họ là người phụ bếp, vung vẩy con dao phay trong tay. Thím Lớn bước lại gần nhìn ta từ đầu đến chân, nhưng không có vẻ quan tâm lắm. Thím vẫy tay cho mọi người ra ngoài.
“Im mồm đi,” Thím Lớn nạt ta khi chúng ta còn lại trong phòng. Thím Nhỏ quay lại phòng với Peanut, nhìn ta với đôi mắt mở to.
“Xem đấy, nó không chết đâu.” Thím Nhỏ nói, đưa cho ta miếng vải xô.
“Hãy nghe cho kĩ, cả hai đứa nghe chưa,” thím Lớn nói. “Chảy máu là một dấu hiệu, khi một đứa con gái bắt đầu có những ý nghĩ không trong sạch thì cơ thể tự nó sẽ phải tẩy rửa. Đó là lí do tại sao máu lại chảy ra nhiều như vậy. Sau này, nếu đứa con gái đó lấy chồng, bước chân vào một gia đình tử tế, nếu nó là một người vợ tốt, yêu chồng thì máu sẽ ngưng chảy.” Đó chính là những điều thím Lớn đã nói với ta. Như bà tiên đoán, một khi ta đã là một người vợ tốt thì ta không thấy kinh nữa.
“Úi da!” Huê Lan kêu lên, nhổ toẹt xuống sàn khi ta kể cho cô ấy nghe điều đó, “ngớ ngẩn!”
Mưa vẫn rơi xối xả xung quanh mái đình. Buổi chiều hôm ấy Huê Lan bảo ta những điều kì cục nhất mà ta không thể tin. Làm sao ta tin được chứ. Cô ta là người ưa tin vào những điều lố bịch nhất. Cô ta nói rằng cơ thể một người đàn bà xây cái tổ trong nó mỗi tháng một lần. Cô ta nói rằng một đứa trẻ sơ sinh sẽ được chào đời qua con đường mà người đàn ông đã đi vào người đàn bà, những lời lẽ mới ngu xuẩn làm sao.
Sau đó cô ấy bảo cho ta biết cô ấy đã biết điều đó như thế nào. Cô ấy nói một lần cô ấy đã đỡ đẻ cho một cô gái. “Em nói với chị sự thật đấy,” Huê Lan nói. “Em đã chứng kiến cảnh một đứa bé ra đời vào năm ngoái.”
Cô gái ấy, Huê Lan nói, đã đem lòng yêu một trong những phi công ở Lạc Dương gần cái làng mà Huê Lan và gia đình cô sống. “Cô gái khốn khổ này chỉ tìm kiếm một cơ may để thay đổi cuộc đời cô,” Huê Lan kể, “Nhiều cô gái làm như thế hi vọng kiếm được một ông chồng để thoát khỏi làng quê nghèo đói. Cô gái này như mọi cô gái khác trong làng, không lấy gì xinh xắn, đã có hôn ước hoặc với một lão nông hoặc một người thợ hàn nồi một mắt ở cuối làng, một cuộc sống được biết trước là sẽ phải làm lụng vất vả cả đời, chẳng có một hi vọng gì về hạnh phúc. Vì thế khi cô gái này gặp một phi công, tất nhiên cô ta trao thân cho hắn – với một hi vọng thậm chí chỉ là một hi vọng mong manh để bấu víu.”
Huê Lan có thể thấy rõ là ta không tin điều đó. “Em biết là chị khó mà tin nổi điều đó. Hoàn cảnh của chị khác. Chị bao giờ cũng tin chắc rằng chị sẽ cưới một người tốt, chẳng có gì phải lo lắng cho tương lai cả.” Cô ta nói như thể trách móc, buộc tội ta. Điều này làm cho ta nghĩ có thể cô ấy chính là người con gái ấy, người đã hiến dâng tất cả cho Gia Huy để kiếm lấy một cơ hội. May mắn thay cho cô ta, cái người đàn ông ấy đã trở thành chồng cô.
“Khi người con gái ấy sắp có con,” Huê Lan tiếp tục, “cô ấy nhờ em đi với cô ấy đến doanh trại phi công. Cô ấy đau đến nỗi chúng em phải dừng lại nhiều lần trên đường đi. Cuối cùng chúng em cũng đến doanh trại. Người tình phi công rất giận dữ khi gặp cô ấy. Hắn ta la hét om sòm đến nỗi những người khác phải yêu cầu họ ra ngoài. Em đừng bên ngoài, nhưng em nghe thấy hết.
“Cô ấy nài nỉ người phi công làm đám cưới với cô ấy. Hắn không chịu, cô ấy hứa đứa trẻ sẽ là con trai. Hắn ta nói hắn ta cóc quan tâm. Cô ấy nói anh ta có thể lấy cô ta làm thiếp, vai chính thất để lại dành cho người khác. Hắn cũng từ chối. Cô ấy kêu gào, trở nên điên loạn, chẳng còn biết mắc cỡ gì hết. Cô ta gào lên rằng cô ta chẳng còn trông mong gì trên đời nữa. Cô ta đã trao hết tất cả cho hắn ta. Rằng bây giờ cô không còn cơ hội lấy ai nữa, mọi người trong làng đều biết sự mua bán bẩn thỉu của cô. Gia đình sẽ đuổi cô đi. Đứa bé trong bụng cô sẽ không có bất cứ một cơ hội nào hết, một tương lai không có tương lai.
“Sau đó cô ấy hành động như một người điên, kêu gào, la hét om xòm chửi mắng hắn. “Mày đã giết cả hai mẹ con tao. Còn độc ác hơn là để chúng tao chết dần chết mòn. Nhưng sau khi chúng tao chết, chúng ta sẽ sớm gặp mày. Chúng ta sẽ kéo mày ra khỏi máy bay!”
Người phi công rất phẫn nộ khi nghe những lời nguyền chết chóc của cô gái. Hắn đánh cô ta làm cô ta ngã xuống va cái bụng bầu vào tay ghế và lăn xuống sàn. Cái tát ấy không giết cô. Cái tay ghế cũng không giết nổi cô ấy. Nhưng trong khi cô ấy nằm lăn trên sàn thì đứa bé lại đòi ra. Cô ấy gào khóc, rên rỉ bò ngang như một con cua. Cô ấy khóc với đứa trẻ, “Đừng có ra bây giờ. Không có lí do gì để ra đời con ơi!” và em chạy đến bên cô ấy. Em vén váy cô ấy lên và nhìn thấy chỏm đầu đứa nhỏ, sau đó cả cái đầu nó ló ra với một sợi nhau cuốn cổ. Mặt nó xanh như tàu lá, đôi mắt nhắm nghiền. Em cố gắng lôi đứa bé, lôi cái nhau ra. Em cố gắng dữ lắm. Nhưng cô gái cứ vặn vẹo liên tục. “Nằm im!” người phi công hét lên. Còn cô ấy nắm lấy tóc hắn, không để cho hắn đi.
“Lúc ấy thì cả ba chúng em đều la hét, chia nhau nỗi đau đớn này. Đứa bé lại thụt vào. Em phải cố lôi nó ra, trong khi cô ấy nắm tóc người phi công. Sau đó thì dường như không ai chịu đựng nổi cảnh giằng co này nữa, cô gái ngã lăn ra và bắt đầu cào cấu. Cô ta lăn lộn quằn quại. Cả thân hình cô run lên từng đợt. Cô hít một hơi dài, há miệng hớp hớp như thể cô không có đủ không khí để thở. Cô ấy thở hắt ra, rồi lại hít vào thật sâu một lần nữa, nhưng không, thế là hết, không có một hơi thở nào nữa. Thật là kinh khủng! Trước khi một cuộc đời bắt đầu, thì một cuộc đời khác lại kết thúc. Thế là cái đầu xanh như chàm chui ra khỏi cơ thể cô gái trở nên tím đen lại và chết.”
Huê Lan ngừng lại. Cô ấy vò nát một vạt áo, cắn môi. Ta nghĩ câu chuyện đã hết.
“Thật đáng buồn,” ta nói “chị nói đúng, chúng ta là những người may mắn.” Nhưng Huê Lan chưa kể xong. Cô khóc, “Em không biết là con trai hay con gái. Mẹ em không lôi nó ra để biết là trai hay gái. Bà nhất định không chịu để con gái bà sang thế giới bên kia với một cái bụng mở toang. Bà cũng không muốn cái đứa cháu ngoại đầu tiên bị cắt đầu. Thế là bố mẹ em chôn chị ấy với đứa trẻ nằm nửa trong nửa ngoài cơ thể mẹ nó.”
Huê Lan nhìn vào mặt ta, “Đó là sự thật,” cô nói vẫn còn khóc. “Đó là chị em. Người phi công ấy là Gia Huy, quá sợ hãi lời nguyền rủa của chị em mà phải cưới em.”
Ta nhìn cô, không thể thốt lên lời. Cuối cùng chính Huê Lan lại nói, lần này đã bình tĩnh hơn. “Em biết hắn cưới em chỉ vì sợ hãi, sợ chị ấy sẽ quay lại lôi máy bay của hắn xuống. Dù sao thì em cũng lấy hắn, nghĩ rằng em sẽ trả thù cho chị em. Tất nhiên bố mẹ em rất giận dữ với việc làm của em. Em phải nói đi nói lại với họ là em lấy hắn để làm cho hắn đau khổ trong mỗi một ngày còn lại của đời hắn, một sự nhắc nhở trường kì về chị em, nỗi bi thảm của chị ấy do hắn gây ra.
Nhưng làm sao mà em biết được rằng Gia Huy lại trở thành một người tốt, một người dễ chịu đến như vậy? Chị biết đó, chị đã biết rõ tính cách của anh ấy. Ảnh rất hối hận, rất buồn. Ảnh rất tử tế đối với em, mua cho em những bộ quần áo đẹp, dạy dỗ em cách sống và không bao giờ cười em. Làm sao em biết được ảnh lại tốt thế?” Huê Lan nhìn ra, bên ngoài trời vẫn còn mưa. “Đôi khi em tức anh ấy lắm”, cô lặng lẽ nói. “Đôi khi em lại nghĩ khác đi. Thật ra ảnh đâu giết chị ấy. Chị ấy dù sao cũng chết trong lúc sanh con dù có cưới hay không cưới. Thỉnh thoảng em lại nghĩ chị ấy giận em, con chị ấy thò một nửa ra ngoài đời, chị ấy nguyền rủa em vì đã cưới cái người mà lẽ ra phải là chồng chị.”
Huê Lan và ta bắt đầu kể cho nhau nghe mọi chuyện, và giữ gìn những bí mật cho nhau như vậy đấy. Ta kể cho cô ấy trước về sự bàng quan của ta đối với thân thể ta. Cô ấy bảo cô ấy ao ước được trả thù như thế nào, mà cuối cùng lại được hưởng hạnh phúc. Ta kể cho cô ấy nghe về Peanut, làm thế nào mà lẽ ra nó mới là người cưới Văn Phú.
“Thế là cả hai số phận của chúng ta, đều thay đổi đúng thời điểm,” Huê Lan kêu lên. Ta chẳng nói gì. Ta mới chỉ nói cho Huê Lan nghe một nửa sự thật, bởi vì ta không biết là ta có may mắn không nữa.
Ta đợi cho đến nửa đêm mới nói cho Văn Phú biết về đứa bé. Chúng ta đã lên giường nằm. Hắn ôm lấy ta.
“Bây giờ chúng mình phải cẩn thận, em đang có bầu đấy”.
Hắn cau mày. Thế đấy, đầu tiên hắn không tin vào cái tin này. Thế là ta bảo hắn về chuyện ăn dở của ta, về những cơn nghén, bao nhiêu những dấu hiệu khác của một sự sống mới bắt đầu. Hắn vẫn không nói gì.
Có lẽ Văn Phú không muốn nói về những gì hắn cảm thấy. Dù sao thì hắn cũng không cho ta biết là hắn nghĩ gì. Có lẽ đại đa số các ông chồng sẽ đi đi lại lại như một con gà trống khoe khoang với mọi người. Nhưng Văn Phú chỉ hỏi, “Có thật không?” Hắn bắt đầu cởi quần áo.
Bất thình lình hắn cúi xuống, ôm chặt lấy ta, hôn lên trán ta phà hơi thở vào tai ta. Lúc đó ta đã nghĩ là hắn sẽ bảo ta là hắn quả thực rất hạnh phúc, rất hài lòng với đứa trẻ. Lúc đó ta cảm thấy rốt cục thì ta cũng đã làm cho hắn vui lòng, ta rất sung sướng được là cái tổ cho những đứa con tương lai của hắn.
Nhưng cảm giác đó chỉ kéo dài một, hai phút. Văn Phú sờ vào đùi non của ta, tốc váy lên. Hắn nghĩ cái quái gì thế? Ta chống cự một cách nhẹ nhàng, điều đó chỉ càng làm cho hắn vội vãn hơn. Hắn cố gắng bạnh chân ta ra.
Ta nói, “Một đứa trẻ đang lớn lên trong bụng em, chúng ta không thể làm như vậy nữa.”
Tất nhiên, ta thật ngây ngô khi nói thế. Nhưng hắn không hiểu ta hoặc thông cảm với ta. Hắn chỉ cười và bảo ta là con bé quê mùa ngớ ngẩn.
“Anh chỉ muốn chắc chắn nó là thằng con giai,” hắn nói đoạn đẩy ta nằm ngửa ra giường, trèo lên người ta. “Đừng!” ta kêu lên. Sau đó thì ta kêu lên nữa to hơn, to hơn, “Dừng lại! Dừng lại!” Văn Phú ngưng lại, cau mày nhìn ta. Ta chưa bao giờ la hét chồng như thế. Có thể đó là vì đứa trẻ trong bụng ta. Có thể nó làm ta muốn tự bảo vệ. Nhưng hắn vẫn tiếp tục nhìn ta với ánh mắt đe dọa khiến ta cuối cùng phải nói “Em xin lỗi.” Không nói thêm một lời, hắn thực hiện nốt cái việc mà ta nài xin hắn dừng lại.
Ngày hôm sau ta lại giãi bày tâm sự với Huê Lan một lần nữa. Ta nghĩ cô ta sẽ lắng nghe ta với đôi ta của chị em ruột thịt. Vì thế mà ta kể với cô ta rằng chồng ta có những “dục vọng bất bình thường,” một cái “ham muốn của con đực” không thể chịu đựng được. Hắn ta làm như thế hàng đêm, ngay cả sau khi ta đã bảo hắn là ta đang mang trong bụng đứa con của hắn. Ta hết sức lo lắng, bấn loạn – ta xin lỗi cô vì đã làm cô ấy bận lòng về những rắc rối của ta.
Huê Lan nhìn ta không biểu lộ điều gì qua nét mặt, Có thể cô ấy bị sốc vì những lời thú thật của ta. Cuối cùng cô ấy nói, “Hừm! Đó không phải là một vấn đề. Chị phải vui lên. Chị sắp có con rồi, phải không?” Giọng cô ta có vẻ mai mỉa. “Điều đó không làm hại gì đến đứa bé. Chỉ là một chút khó chịu đối với chị thôi. Chị không nên làm thế đối với chồng. Chị nên sung sướng vì anh ấy vẫn thèm muốn chị! Khi anh ấy không còn thấy hứng thú với chị, anh ta sẽ tìm đến chỗ khác. Lúc đó thì chị sẽ thực sự biết thế nào là bất hạnh trong đời sống vợ chồng.”
Bây giờ thì đến lượt ta sững sờ. Ta đã nghĩ cô ta phải tỏ ra cảm thông với ta, thế mà cô ta lại trách móc ta chứ. Mà cô ta đâu có thôi cho.
“Tại sao chị lại nghĩ một việc tốt thành việc xấu vậy?” cô ta nói. “Nếu chị nghĩ đến một món ăn nào đó nấu sẽ không ngon, thì tất nhiên, khi nếm chị sẽ thấy là nó chẳng ra gì.” Con không bao giờ nhìn thấy mặt này ở dì Helen phải không? Bây giờ thì con biết dì ấy cũng có thể trở nên ác độc! Dì ấy chỉ biểu lộ điều đó với ta. Ta không biết tại sao. Hoặc có thể ta là người duy nhất để cho dì bộc lộ cái nét tính cách đó.
Con biết ta nghĩ gì rồi? Ta nghĩ cô ta nói thế khi có một cái gì làm cô ta bực mình mà không thể nói ra. Cô ta giấu nó đi bằng cách trở nên độc đoán, hống hách. Ngày hôm đó, khi cô ta nói điều đó ta cảm thấy đau đớn lắm. Cô ta làm cho ta cảm thấy mình nhỏ nhoi đến mức chả là cái gì cả. Ta không phát hiện ra được mãi cho đến mấy năm sau, cái lí do cô nói thế. Ta không biết rằng cô ta đang giữ một bí mật trong lòng, chỉ để cho nỗi giận dữ thoát ra. Nhưng ta sẽ kể cho con chuyện đó sau.
Cũng ở trên cái đình nhỏ này, một tuần sau đó, ta biết chắc rằng chiến tranh đã bùng nổ.
Huê Lan bắt đầu gà gật sau bữa trưa. Một cơn mưa lớn sẽ bắt đầu, ta quyết định một mình đi lên đình viết thư cho Peanut. Ta sẽ kể về những điều dễ chịu: những cảnh thú vị mà ta đã chứng kiến, những chiếc thuyền trên hồ, những đền chùa ta đã viếng thăm. Ta nói có thể chúng ta sẽ sớm quay về nhà, có lẽ là vài tháng nữa. Ta nói có thể trở về Thượng Hải vào năm mới lúc ta hi vọng sẽ khoe với mọi người đứa con trai bé bỏng.
Đúng lúc đó ta nhìn thấy Huê Lan chạy về phía đình, bộ quần áo ướt dán chặt vào thân hình mập mạp của cô có vẻ gì trông rất tục.
“Họ đang bay đi! Sẵn sàng rời khỏi đây!” cô ta hét lên thậm chí trước khi chạy đến bên ta. Chennault đã ở căn cứ không quân, những người lãnh đạo Trung Quốc sẽ từ miền Bắc, miền Nam bay đến. Tất cả các phi công đã được tập trung. Ai cũng nói một điều: Không có thời gian để chuẩn bị nữa. Phải sẵn sàng lên đường. Huê Lan, ta nhanh chóng trở về thiền viện vẫn ướt như chuột, chuẩn bị đồ đạc cho chồng. Ta cẩn thận cho quần áo sạch của Văn Phú cùng vớ, cái mền đẹp đẽ, tốt nhất vào một cái túi du lịch. Tay ta run run. Tim ta đập loạn lên. Chiến tranh đã nổ ra. Văn Phú có thể chết. Ta có thể không được nhìn thấy hắn lần nữa. Ta tự hỏi không biết ta đã yêu Văn Phú chưa, hay chỉ bây giờ mới nhận ra điều đó.
Một chiếc xe tải bấm còi inh ỏi, báo cho chúng ta biết đã đến giờ lên đường đi đến căn cứ không quân. Ta chạy đến phòng Huê Lan gọi cô ta. Ta thấy cô ta còn chưa chuẩn bị xong. Cô ta đưa tay sờ soạng ngăn kéo bàn, sau đó là mái tóc mình. Cô ta khóc lóc, bối rối, lẩm bẩm một mình: “Bức ảnh cô dâu xinh đẹp của tôi đâu? Cái bùa may mắn đâu? Cuốn sách mà anh ấy hay bỏ quên đâu rồi?”
Ở phi trường không ai nói cho chúng ta biết là các ông chồng sẽ bay đi đâu. Tuy vậy chúng ta có thể nhìn qua màn mưa: bầu trời xanh, những làn mây trắng. Chúng ta rất phấn khích, tự hào. Một người dẫn chúng ta vào một căn phòng nhỏ ẩm thấp với một cái cửa sổ nhỏ xộc xệch làm cho mọi thứ bên ngoài trông nhỏ bé, nguy hiểm. Mưa như trút xuống phi đạo nhỏ hẹp. Phi công đứng dưới cánh máy bay. Một ai đó chỉ vào cánh quạt.
Một người đàn ông chạy đến mang theo một cái hộp đồ nghề. Gia Huy đi từ chiếc máy bay này đến chiếc khác, tay cầm một tờ giấy lớn, có lẽ là một tấm bản đồ bay phần phật trong gió, lúc này dường như muốn bay lên khỏi mặt đất.
Sau đó chúng ta thấy chân vịt bắt đầu quay, động cơ kêu to hơn. Ta cố gắng đấu tranh thật găng để không nhìn vào ai khác, không nói điều gì, không để bất cứ một từ không đúng chỗ nào bật ra khỏi họng, một lời có thể mang xui xẻo đến cho mọi người. Ta nghĩ ai cũng thế, im lặng, không nhúc nhích, chẳng chắc chắn về điều gì.
Nhưng khi những chiếc máy bay từ từ cất lên khỏi mặt đất Huê Lan bắt đầu vẫy tay. Mưa gió, hơi nước, khói cuộn chung quanh vì thế những chiếc máy bay trông như là chuyển động trong một giấc mơ kì quặc: Huê Lan vẫy tay mạnh hơn mạnh hơn, nước mắt trào ra dàn dụa. Những chiếc máy bay chạy xa dần trên phi đạo. Lúc đó cô ấy vẫy tay kịch liệt hơn, điên cuồng, giống như một con chim bị thương cứ như thể cái nỗ lực ấy cùng tất cả ước muốn, hi vọng của cô sẽ nâng họ lên khỏi mặt đất một cách an toàn, hết chiếc máy bay này đến chiếc máy bay khác, đưa họ đến thắng lợi.
Tất nhiên, sáng ngày hôm sau chúng ta được tin về những chuyện xảy ra.