← Quay lại trang sách

Chương 11 TAN ĐÀN XẺ NGHÉ

Con có nhớ cái cô gái hợm hĩnh, cái người mà ta và Huê Lan đã múc nước tắm cùng? Cô ta là người nói cho chúng ta biết những chuyện xảy ra ở Thượng Hải, nơi lực lượng không quân bay đến để cứu đất nước.

Cô ta bước vào phòng ăn, nơi chúng ta đang ngồi quanh chiếc radio. Chúng ta đã nghe tin các ông chồng vẫn sống, bây giờ chúng ta nghe những tin chiến thắng. Tai mọi người dỏng lên hết, sẵn sàng thu nhận tất cả các mỹ từ của cái tin tốt lành này.

“Các chị đang nghe,” cô ta nói với một giọng chua chát, “những điều dối trá.” Mọi người quay lại nhìn cô ta.

Chúng ta thấy đôi mắt đỏ hoe như mắt quỷ.

Sau đó cô ta thông báo với chúng ta. Người phi công bao giờ cũng nhường cái ghế ở gần cái quạt trần nhất cho chồng ta đã chết. Người thanh niên mà chồng ta đã hét lên trong cái trò đùa giỡn của hắn, cũng chết nốt. Chồng của cô gái hợm hĩnh này cũng đã sang thế giới bên kia. “Các chị nghĩ là các chị may mắn bởi vì chồng các chị vẫn còn sống sót,” cô ta nói, “đừng vội mừng.”

Rồi cô ta kể những chiếc máy bay đã bay đêm khuya hôm qua về phía cảng Thượng Hải, về những cái tàu Nhật Bản. Quân ta dự định gây cho quân Nhật một sự bất ngờ. Nhưng trước khi họ kéo đến thì máy bay Nhật đã bổ nhào xuống từ bầu trời đen kịt phía trên – rõ ràng đã biết trước là máy bay của ta đang bay tới. Chỉ có những phi công của ta là bị bất ngờ, hoảng hốt, vội vã ném bom xuống. Một sự vội vã tai hại, ném bom ở cự li rất gần với mặt đất. Thế là bom trút xuống Thượng Hải đêm hôm ấy, rơi lên những mái nhà, những cửa tiệm, những chiếc xe chạy trên đường, lên hàng trăm người, toàn người Trung Quốc. Còn quân Nhật – những tàu chiến của địch vẫn bình an dập dềnh trên sóng.

“Chồng các chị không phải là anh hùng. Tất cả những thường dân vô tội, những người phi công ấy, cũng như chồng tôi đã chết một cái chết oan uổng,” cô ta nói, rồi bỏ đi. Tất cả chúng ta đều câm lặng.

Huê Lan phá vỡ sự im lặng. “Làm sao chị ấy biết chuyện gì đã xảy ra chuyện gì không xảy ra?” Cô ta hỏi giọng giận dữ, rồi lại nói tiếp, giọng nhẹ nhõm vì Gia Huy của cô ta vẫn sống sót. “Ít nhất thì điều đó cũng đúng,” cô ta nói.

Con tưởng tượng được không? Trước mặt mọi người cô ta để lộ ra nỗi vui mừng của mình, chẳng coi ai ra gì. Sao mà cô ta lại có thể không ngại ngần phô ra những ý nghĩ ích kỉ như thế.

Nhưng ta không trách Huê Lan về cách cư xử vô ý thức. Ta cố gắng chỉnh cô ấy, vẻ đàn chị: “Nếu chị ta nói thật, thì chúng ta nên suy nghĩ về thảm kịch này. Nhưng ta nên tỏ ra nghiêm túc, không để lộ niềm vui của mình ra.”

Cái vẻ hạnh phúc lồ lộ trên mặt Huê Lan nhanh chóng biến mất. Miệng cô ta há ra để cho ý nghĩ này lọt qua, chui vào đầu. Ta nghĩ tốt, dù cô ấy vô học nhưng cô ấy cũng nhanh chóng học được một điều gì mới.

Nhưng sau đó với đôi lông mày cau lại, khuôn mặt cô sa sầm như một áng mây giông. “Cái kiểu suy nghĩ ấy – em thực không hiểu,” cô ấy nói. Vì thế ta lại giải thích: “Chúng ta phải quan tâm đến toàn cục, không chỉ nghĩ đến chồng chúng ta. Một cái gì đó tệ hại hơn có thể xảy.”

“Ái da! Đạo mai!” cô ta kêu lên, lấy tay bịt miệng. “Sao chị có thể dùng những từ xui xẻo như vậy để đầu độc tương lai của mọi người?”

“Đó không phải là chuyện xui xẻo,” ta cự lại. “Tôi chỉ nói rằng chúng ta phải thực tế. Đang là chiến tranh. Chúng ta cảm nhận bằng trái tim mình, nhưng cũng phải dùng cái đầu của mình một cách sáng suốt trong mọi hoàn cảnh. Nếu chúng ta giả vờ rằng nguy hiểm không còn nữa, làm sao chúng ta tránh được chứ?”

Nhưng Huê Lan không còn nghe ta nữa. Cô ta kêu khóc, “Em sẽ không bao giờ nghe những lời lẽ độc địa như vậy nữa. Nghĩ như vậy thì ích gì chứ những ý nghĩ xấu chỉ kéo theo những việc xấu”.

Cứ thế cô ta lu loa như một mụ điên. Bây giờ nhớ lại điều này, ta biết rằng tình bạn của chúng ta đã có những rạn nứt, những lợn cợn từ ngày đó. Huê Lan đã hủy hoại sự tương hợp giữa hai người. Con phải biết rằng ngày ấy cô ta đã cho ta thấy con người thật của cô ấy. Cô ta chẳng phải là người bộc tuệch, bộc toạc dễ thương như cô ta làm cho mọi người tin là như vậy đâu. Cô gái này có thể ném ra những lời bỏng rát, cắt ngọt như bất cứ lưỡi dao nào.

“Chị nói là thảm họa cũng sẽ xảy ra đến cho chúng ta. Chị nói là một người nữa có thể chết,” cô ta hét lên. “Tại sao chị không thể hạnh phúc với những cái chị đang có trong tay?”

Con tưởng tượng nổi không? Cô ta buộc tội ta trước mặt mọi người. Ném ra một câu hỏi chỉ có thể có một câu trả lời sai được thôi, khiến mọi chuyện xoay ra ta là người đã ăn nói bậy bạ. “Tôi không nói thế,” ta trả lời ngay. “Chị bao giờ cũng mong những điều tệ hại nhất.”

Lại ăn nói láo lếu! “Không phải như vậy,” ta đáp. “Tính thực tế không phải là những ý nghĩ xui xẻo.” “Nếu như có năm cách để nhìn nhận một sự việc,” cô ta nói tiếp xòe năm ngón tay ra, sau đó thì lấy bàn tay còn lại đấm vào như thể đó là một cây củ cải thối, “chị bao giờ cũng nhìn theo cách xấu nhất.”

“Không phải như vậy. Tôi chỉ muốn nói rằng hạnh phúc của chúng ta không có gì đảm bảo trong suốt cuộc chiến tranh này. Nó chẳng là gì cả. Nó không ngăn cản được chiến tranh.” Ta giận sôi lên không còn hiểu là mình đang nói gì nữa.

Huê Lan và những người phụ nữ khác nhìn ta chằm chằm. Không một ai trong số này bước ra can ngăn, “Các chị ơi. Các chị đều đúng. Các chị hiểu lầm nhau.” Ta có thể thấy rằng những lời lẽ mạnh mẽ của Huê Lan rõ ràng đã ảnh hưởng xấu đến suy nghĩ của họ, để lại những hố lớn mà không sự hiểu nào có thể lấp đầy. Chẳng ngạc nhiên gì là họ đã không thấy được luận điểm của Huê Lan lố bịch như thế nào.

Vì thế ta nói, “Toán liễu – Quên điều đó đi!” Ta bỏ về phòng mình. Nhớ lại điều này, ta vẫn còn giận lắm, đó là bởi vì cô ta không hề thay đổi. Con có thể thấy rõ điều đó. Cô ta vặn cho mọi thứ xoay quanh cái cách nghĩ của cô ta. Nếu một cái gì đó tồi tệ cô ta có thể làm cho nó như là tốt đẹp. Nếu một cái gì đó tốt cô ta sẽ làm cho nó thành xấu. Cô ta cự lại bất cứ những gì ta nói. Cô ta làm cho ta cảm thấy mình là một người làm gì cũng sai. Sau đó ta lại cãi cọ với chính mình để hiểu điều gì thực sự là đúng.

Dù vậy sau buổi cãi nhau hôm ấy, ta giận dữ đến nỗi chỉ có thể ngồi trên giường mà nghĩ về những lời móc máy của Huê Lan. Ta tự nhủ cô ta là người bao giờ cũng nói những lời ngu xuẩn. Cô ta là người để cho mọi người cười nhạo sau lưng. Khi không muốn nghe bất cứ lời nào của cô trong đầu nữa, ta tìm một cái gì đó để làm. Ta mở một cái ngăn kéo, lấy ra một miếng vải mà thím Nhỏ đã cho ta đó là một loại vải côtông dệt của cha ta. Một miếng vải màu xanh nhạt có những vòng tròn nhỏ màu vàng, một loại vải sợi nhẹ, phù hợp may một cái áo đầm mùa hè. Ta nghĩ ra một mẫu áo trong đầu, rất mốt trong kí ức của ta, một cái áo đầm mà ta đã thấy ở Thượng Hải phất phơ trên người một cô gái vô tư.

Thế là với hình ảnh ấy trong đầu, ta bắt đầu cắt miếng vải. Ta hình dung cô gái ấy bồng bềnh trong chiếc áo màu xanh lá cây tất cả bạn bè ngưỡng mộ thì thầm với nhau rằng áo của cô cũng tuyệt vời như phong cách của cô. Nhưng sau đó ta lại thấy Huê Lan chỉ trích cái áo, với cái giọng oang oang, “Chồng vừa chết đã lo ăn diện.”

Ngay lập tức ta phạm sai lầm, cắt cái ống tay áo quá rộng. Đó là vì ta vẫn còn giận dữ. Xem cô ta đã làm gì! Ảnh hưởng đến sự tập trung của ta. Tệ hơn – xoắn lấy đầu óc của ta, đặt một suy nghĩ tồi tệ vào đấy. Một suy nghĩ rất tệ hại như vậy, chưa bao giờ ta tưởng tượng trong đầu! Chưa bao giờ - nhưng bây giờ nó đã xảy ra, đuổi theo ta. Ta hình dung một lúc nào đó, không quá xa, Huê Lan sẽ nói với ta, “Xin lỗi, chồng chị đã bị chết. Thật xui là anh ta đã bị rơi máy bay.”

“Ồ không, không,” ta tự nói với mình. “Phật bà sẽ không bao giờ để cho anh ấy chết.” Nhưng ta càng cố đẩy ý nghĩ ra khỏi đầu bao nhiêu thì nó càng đấu tranh ở lại bấy nhiêu. “Anh ấy đã chết,” Huê Lan nói. Cô ta chắc chắn sẽ mỉm cười khi nói với ta điều đó. Ta sẽ giận dữ, la hét như cô gái hợm hĩnh mới mất chồng.

Nhưng sau đó ta nghĩ: có lẽ ta sẽ khóc, và trông buồn cười lắm, cảm thương cho đứa trẻ mất cha của ta. Phải điều đó thích hợp hơn.

Một lúc sau ý nghĩ của ta lại chạy sang hướng khác. Ta có nên trở về đảo sống với thím Lớn, thím Nhỏ không. Có lẽ không, nếu ta cưới một người khác. Sau đó ta quyết định, lần sau ta sẽ tự chọn bạn đời cho mình.

Ta ngừng tay khâu – ta đang nghĩ cái gì vậy? Đó là lúc ta nhận ra rằng ta thực sự mong muốn Văn Phú chết. Ta không nghĩ đến điều đó bởi vì ta căm ghét hắn. Không phải thế. Đó là sau này khi hắn trở nên ngàn lần xấu xa hơn. Nhưng đêm ấy, trong căn phòng của ta, trong suy nghĩ của ta, ta tranh luận với chính mình. Đôi khi một cô gái có thể mắc sai lầm. Thỉnh thoảng một sai lầm có thể được cứu vãn, một cuộc chiến tranh sẽ thay đổi nó mà không ai có lỗi hết. Một sự việc không may có thể được thay đổi. Và thế là ta hoàn thành việc may áo. Ta cắt những sợi chỉ lược. Ta tròng cái áo qua đầu và lúc đó, bụng và ngực ta bắt đầu to ra vì đứa bé. Ta xỏ một tay vào trước khi nhận rằng ta đã bị kẹt.

Ta nghĩ – ôi chắc con buồn cười lắm nhỉ, mắc kẹt trong cái áo của ta, mắc kẹt với chồng ta, mắc kẹt với Huê Lan bạn của ta. Đôi khi ta tự hỏi tại sao cô ấy vẫn là bạn ta, làm thế nào chúng ta vẫn làm ăn với nhau được.

Có thể là bởi vì chúng ta đã đấu tranh với nhau quá nhiều trong những ngày ấy, có thể chúng ta không có ai khác để bầu bạn thế là chúng ta bao giờ cũng tìm ra được lí do để làm bạn. Có thể những lí do này vẫn còn. Dù sao thì đây là những điều xảy ra trong lần cãi nhau ấy. Vài ngày sau lực lượng không quân thông báo rằng họ sẽ đưa chúng ta đến Dương Châu nơi chúng ta sẽ sum họp với chồng. Nghe cái tin này vào bữa ăn sáng mọi người tỏ ra nghi ngờ. Chúng ta nghĩ rằng bom sẽ rơi xuống ngay chỗ chúng ta ngồi. “Một chuyện gì xấu đang đến gần,” ta nói, “đó là lí do họ đưa chúng ta đi khỏi.” Một trong những phụ nữ khác, Lý Dung nói, “Vậy tại sao chúng ta phải đi ngay. Tại sao chúng ta không dời lại hai hôm?”

Một người phụ nữ khác Mai Ly nói tại sao lại đến Dương Châu, bom đạn cũng có thể trút xuống đó.

“Dương Châu không phải là nơi quan trọng,” ta nói ra những suy nghĩ của mình, “một thành phố mà quân Nhật không bao giờ muốn đến sẽ là nơi an toàn.” Con thấy ta suy nghĩ logic như thế nào. Ta không nói ta không thích Dương Châu. Sao ta lại nói thế? Ta đã đến đó bao giờ đâu.

Ngay lập tức Huê Lan nói ngược với ta, “Tôi nghe nói rằng Dương Châu đẹp lắm, nhiều thứ để xem,” cô ta nói, “nổi tiếng vì phụ nữ đẹp, mì thì ngon hết xảy.”

Ta biết chắc rằng ta sẽ không bao giờ gặp những phụ nữ đẹp như thế cũng không bao giờ nếm món mì như thế. “Tôi không nói rằng nó không phải là thành phố đẹp,” ta giải thích cặn kẽ, “tôi chỉ nói rằng đó không phải là thành phố tốt đối với người Nhật. Cái mà người Nhật muốn không giống với cái mà người Trung Quốc muốn.”

Thế là chúng ta chuyển đến Dương Châu vào cuối mùa hè, vài tuần sau khi chiến tranh nổ ra. Chúng ta đi đường thủy bởi vì ở nhiều nơi đường bộ và đường tàu hỏa bị phá hủy. Đến nơi ta đã nhìn thấy một thành phố đúng như ta đã hình dung, một nơi mà phát xít Nhật không bao giờ muốn đặt chân tới. Nhà mới của chúng ta cách Thượng Hải nửa ngày đường về phía tây bắc. Thượng Hải, thành phố tốt nhất thế giới rất hiện đại, còn Dương Châu thì hoàn toàn trái ngược, một nơi mông muội không có lấy một ngôi nhà cao tầng, chỉ có những ngôi nhà một tầng, có thể có vài ngôi nhà hai tầng ở những khu vực quan trọng. Ai mà biết được tại sao Đỗ Phủ và những nhà thơ cổ điển lại viết và làm thơ về nơi này? Với ta, thành phố này dường như làm toàn bằng bùn và bụi.

Lực lượng không quân tìm cho chúng ta một ngôi nhà tương tự trong thành phố, bùn đất và bụi bẩn, chia làm bốn phòng, một cái bếp dùng chung với bốn cái bếp xài than đá cổ lỗ sĩ. Khi chúng ta nhìn thấy chốn này tất cả chúng ta đều sững sờ.

“Chiến tranh mà,” cuối cùng ta nói với những người khác, “tất cả đều phải hi sinh thôi.” Lý Dung, Mai Ly ngay lập tức gật đầu biểu đồng tình. Huê Lan quay mặt đi.

Sau đó cô ta bắt đầu xem xét mọi thứ, chê bai tất cả những gì nhìn thấy. “Úi,” cô ta chỉ tay vào một chỗ tường bị rạn nứt. “Ối” cô ta chỉ vào một bức tường khác nơi những con bọ đang đậu xung quanh điểm mặt trời chiếu vào. “Eo ơi,” cô ta dậm chân lên sàn nhà, “nhìn xem bụi bốc lên trên sàn, đuổi theo chân em như thế nào.”

Ta nhìn qua, tất cả mọi người đều nhìn. Ta muốn la lên, các chị xem cô ta thế nào đấy. Cô ta luôn than phiền còn tôi thì không. Nhưng ta thấy rằng ta không cần phải nói một lời, Mai Ly, Lý Dung, họ có thể nhìn rõ Huê Lan như thế nào.

Buổi chiều một cô gái nấu bếp, và một người phục vụ tới. Lực lượng không quân chỉ cung cấp một người phục vụ, vì thế chúng ta phải chia sẻ với nhau. Người đầu bếp là một cô gái địa phương, với khuôn mặt to, hồ hởi. Công việc của cô ta là giữ cho những cái lò than rực lửa, thái rau, giết gà, làm cá, dọn dẹp mọi thứ khi chúng bắt đầu bốc mùi.

Người giúp việc thuộc về lực lượng không quân, một người đàn ông đứng tuổi mà chúng ta gọi là Cần vũ binh một từ thông thường gọi một người lính thông thường, cái người chỉ đánh nhau bằng chổi, chỉ chống lại ruồi nhặng. Ông ta là một người nhỏ thó, mỏng mảnh trông như thể chân tay ông ta sẽ bị gãy nếu như ông phải mang cái gì quá nặng. Ông ta cũng hơi điên điên. Khi làm việc ông ta thường nói chuyện một mình; tưởng tượng rằng ông ta là một sĩ quan cao cấp buộc phải nhận một cái lệnh quái gở. “Đập nệm giường! Rửa sạch cái này!”

Đó là lúc ta biết được Huê Lan ra lệnh cho Cần vũ binh trộn sáu cái lòng trắng trứng vào trong một xô bùn.

“Lấy công thức kì cục này từ trong không khí,” ta nghe ông ta lẩm bẩm một mình, ta nghĩ vậy. “Phết cái chất này lên sàn, cô ta bảo thế, chắc là gió đã thổi não cô ta ra ngoài! Chắc nghĩ là cô ta ăn sàn nhà hẳn. Chắc nghĩ là nó giống như một cái bánh to ngon lành hả!”

Ta bảo Lý Dung, Mai Ly điều mà Cần vũ binh đã nói. Ta phải làm vậy. Điều gì sẽ xảy ra nếu Huê Lan điên rồ đến mức quyết định thiêu cháy nhà? Những người phụ nữ khác cũng có những điều kì lạ báo lại mấy ngày sau, Huê Lan ra lệnh cho Cần vũ binh đổ món súp trứng này lên sàn trong ba ngày liền. Khi các loại súp này đã khô mặt, cô ta lại bắt ông già nấu hồ bằng gạo, bùn. “Đổ lên tường trong phòng cô ta ấy. Nói là nó được nấu xong xuôi rồi,” ông nói. Hết thảy chúng ta đều le lưỡi. Huê Lan đáng thương!

Nhưng vài ngày sau Cần vũ binh chẳng nói năng gì nữa. Ông ta thực hiện công việc của mình một cách lặng lẽ, chỉ than rằng người bán hàng đã lừa ông, bán cho ông ta một con ngỗng quay được bơm phồng lên khi ông ta chặt nó, nó xì xuống chỉ còn một nửa.

“Đừng lo lắng về chuyện con ngỗng,” ta nói. “Đó không phải là lỗi của ông.” Bởi vì không thể nhịn được vì tò mò, ta thăm dò, “Còn hơn là món súp bùn phải không?”

Cần vũ binh cau mày nhìn ta, “Xin lỗi cô,” ông ta thận trọng đáp. “Tôi nghe không rõ.”

Ta gật đầu về phía phòng Huê Lan ở dãy bên kia, “Cái món súp cô ta bắt đầu nấu ấy, chắc là chẳng ngon lành gì phỏng?”

“Tôi xin lỗi cô,” ông ta nói. “Ngày hôm nay tai tôi có vấn đề, tôi chẳng hiểu gì hết.”

Vì thế ta nghĩ ra cớ đi tìm Huê Lan, để tận mắt xem cô ta điên rồ như thế nào. Ta nhặt cái kim móc tốt nhất trong giỏ khâu của mình lên.

“Đây là cái kim của chị phải không?” Ta nói khi cô ta bước ra cửa, “tôi tìm thấy trên sàn bên tôi, không biết có phải của chị không?” Trong lúc Huê Lan nhìn cái kim móc, ta quan sát cô ta đã làm gì với trứng trộn, sáp bùn. Sàn nhà có một màu vàng cứng ngắc, bóng lộn như men sứ, không một vết bụi. Các bức tường trước cũng lồi lõm, nứt nẻ như tường bên nhà khác – bây giờ thì láng bóng, sạch sẽ, không một con côn trùng nào có thể đậu lên.

Trong lúc ta chú mục vào sự thay đổi này, Huê Lan tuyên bố, “Chị nói đúng. Đây là cái kim móc của em. Em đã đi tìm đúng cái này mấy hôm rồi.” Chiều hôm đó, Huê Lan giúp ta làm lại tường, sàn nhà. Ta để cho cô ta vá víu mọi chuyện giữa chúng ta theo cách này: sửa chữa một chuyện này để có thể hàn gắn một chuyện khác. Cô ta biết là ta sẽ để cô ta làm điều đó. Bởi vì cô ta lấy cái kim móc mà cả hai chúng ta đều biết nó là của ai.

Ta không biết vì sao ta nói quá nhiều về Helen. Đây không phải là câu chuyện về dì ấy, mặc dù dì ấy là lí do ta kể cho con nghe về đời mình. Nếu Helen kể cho con nghe về ta, dì có thể nói là ta đã không cố gắng hết sức để vun đắp một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Để ta nói con nghe. Ta đã cố gắng nhiều lắm.

Một hai tuần sau khi đến Dương Châu, các ông chồng trở về nhà, ta nấu cho Văn Phú một bữa ăn thịnh soạn. Một bữa tiệc không chỉ mừng Văn Phú mà còn cả những bạn bè phi công của hắn; năm, sáu người từ khóa hai, khóa ba.

Những người này thích tính rộng rãi của Văn Phú, cái cách hắn nói. “Đến chỗ tôi nghe! Các anh có thể ăn bất cứ món gì các anh muốn!” Hắn mời họ đến có cả Gia Huy. Vì thế tất nhiên ta mời cả Huê Lan, Lý Dung, Mai Ly cũng như là chồng họ. Như vậy ta làm một bữa tiệc cho 14 người. Huê Lan ngỏ ý muốn giúp ta đi chợ, nấu nướng. Bởi vì có rất nhiều việc phải làm, ta từ chối một cách chiếu lệ trước khi vui lòng để cô ta giúp một tay.

Ta dùng một phần trong số tiền hồi môn, tiền mà cha ta cho trong ngày cưới mua sắm thức ăn. Không, gia đình Văn Phú không cướp mất của ta số tiền này. Cha ta rất khôn ngoan. Ông đã mở một tài khoản đứng tên ta trong ngân hàng, 4000 tệ. Sau đám cưới ta rút ra 2000 tệ. Lúc ở Dương Châu ta vẫn còn lại 100 tệ.

Văn Phú kiếm được 70 tệ một tháng. Đó là mức lương cao có thể là gấp hai lần một thầy giáo phổ thông. Nhưng Văn Phú chỉ tiêu tiền của hắn cho những việc ngớ ngẩn – mua rượu uytxki, chơi mạt chược, đánh cuộc là thời tiết sẽ thay đổi theo ý muốn của hắn.

Ta sẽ dùng tiền hồi môn để mua đồ dùng gia đình, mà chúng ta cần trong cuộc sống nay đây mai đó. Ta không mua gì nhiều. Ta dùng tiền để mua thức ăn ngon hơn là thức ăn của không quân cung cấp, cho bữa tối hôm ấy. Ta mua thịt heo ngon, cỏ bốn nhánh để làm món bánh bao nhồi thịt, rượu ngọt khai vị, tất cả đều rất đắt đỏ trong thời chiến, hết cả thảy 50 tệ.

Ta không tiếc số tiền này. Khi mua những thức ăn ngon lành như vậy ta chỉ nghĩ về những người khách, những người phi công cũng như Văn Phú. Nếu như vận may rời bỏ họ thì những người đàn ông này không chắc đã trở về nhà để ăn bữa tiệc thứ hai. Với những ý nghĩ rầu rĩ đó, ta hấp tấp đặt tay lên những miếng thịt heo dày nhất với lớp mỡ béo trong suốt.

Sau đó ta quyết định nghĩ ra những cái tên tươi vui cho những món ăn này. Đấy là những món ăn ta nhớ thím Lớn đã nấu trong dịp Tết – sò hấp cho sự giàu có, tôm chín tới cho tiếng cười và tài lộc, bào ngư đen hầm cho vạn sự may mắn, rất nhiều sứa, bởi vì, cái da giòn giòn của nó bao giờ cũng gây nên những âm thanh vui tai mà ta rất ưa.

Huê Lan nhìn ta chọn đồ ăn. Cô ta thèm rỏ dãi khi thấy ta lựa toàn bộ hảo hạng. Ta không nghĩ là cô ta đã từng được nếm những món ăn như vậy.

Về nhà ta bảo cô nấu bếp đun một nồi nước sôi, thái đủ rau, thịt để làm hàng ngàn cái bánh bao, tất cả đều nóng sốt với nhiều gừng tươi, sốt đậu, dấm ngọt để làm nước chấm. Huê Lan giúp ta nhào bột, cán ra thành từng miếng bột nhỏ. Ta phải thừa nhận rằng lần đầu tiên tài nấu nướng của cô gây cho ta một ấn tượng tốt. Cô làm rất nhanh, miết thật mạnh trong khi nhào bột với một cái cây tròn. Cô có khả năng cuốn được ba lần da cho mỗi cái bánh trong khi ta chỉ cuốn được hai vòng, lúc nào cũng lấy đủ số lượng bột mì khi bột chảy xuống bề mặt của vỏ bánh, không bao giờ nhiều hơn hoặc ít hơn. Với một cái xoắn cô làm xong một cái bánh bao.

Ta cũng phải thừa nhận ta rất vui với sự có mặt của cô trong suốt buổi chiều hôm ấy. Cả hai chúng ta đều rất hạnh phúc. Những người phi công trở về ai nấy đều phấn khởi, làm cho những người vợ ở nhà cũng vui như Tết. Hôm ấy Huê Lan và ta không chỉ trích nhau. Chúng ta không phàn nàn về nhau. Chúng ta cũng không phải tránh né để chỉ nói những vấn đề lịch sự. Tất cả lời lẽ của chúng ta đều tự nhiên trào ra từ những ý nghĩ vui vẻ phấn khởi.

Ta bảo Huê Lan “Xem này, chị làm mọi việc nhanh như thế nào. Với đôi tay của chị chúng ta có thể làm 10.000 cái bánh bao ngon ơ nếu chúng ta muốn; chẳng thành vấn đề”. Tất nhiên sau đó ta tìm ra rằng cô ta chỉ khéo tay trong những vấn đề nấu nướng có tính kĩ thuật: nhào bột, cuốn bột, nhồi nhân và nặn bánh. Về khẩu vị của cô ta chỉ có thể nói là ý kiến của ta có thể không giống với ý kiến của người khác? Có thể con bảo ta hãy trung thực nói xem ai là người nấu ăn giỏi hơn? Con xem ta không hề tự mãn. Đó chỉ là sự thật. Ta biết cần bao nhiêu sốt đậu cho món thịt, để cái vị đậm đà của nó không phải là vị đậm đà của gia vị. Ta biết không bao giờ nên cho thêm dù là một dúm đường, không thêm bất cứ thứ gì và con có thể có một món ăn Quảng Đông ngon tuyệt. Ta biết làm thế nào để nấu món nào cũng ngon trong khi mỗi món có một hương vị riêng, không phải món nào cũng giống nhau về độ mặn nhạt hoặc độ chín.

Các thực khách sẽ nói với con điều đó, nếu họ có mặt ở đây. Những người phi công kể cả chồng của Huê Lan ai cũng khen tài nấu nướng của ta, bảo Văn Phú may mắn như thế nào. Họ nói rằng một người đàn ông không thể có một người vợ vừa đẹp lại vừa nấu ăn khéo léo trong khi đó mắt họ, lưỡi họ còn khen ngợi nhiều hơn thế. Ta quan sát họ ăn uống, động viên họ ăn thêm nữa, chọc họ rằng ta sẽ gay go to với chồng nếu còn thừa dù chỉ mười cái bánh bao. Cuối bữa ăn chỉ còn lại bốn cái! Thật là một bữa tối tuyệt vời. Ta đã nấu nhiều bữa tiệc chiêu đãi như thế. Mỗi khi Văn Phú, các bạn phi công của hắn trở về nhà sau nhiều ngày vắng mặt, họ bao giờ cũng muốn ăn món bánh bao nhân thịt của ta đầu tiên – dù là hấp luộc hay chiên thì họ lúc nào cũng nghĩ đó là một món ăn tuyệt vời.

Trong những ngày này ở Trung Quốc việc quê quán của con ở đâu không quan trọng. Mọi người đều ăn uống, vui đùa với nhau như người trong một nhà. Con tìm thấy bất cứ một cớ nào để sống một cuộc đời no đủ như cái bụng con có thể chứa được. Trong những ngày ấy ta vẫn cố gắng chiều lòng Văn Phú, làm tất cả mọi việc như một người vợ tốt, vẫn cố gắng hết sức mình để tìm hạnh phúc lứa đôi. Ta luôn cố gắng nấu những bữa ăn ngon dù rằng những người này trở về không báo trước – thỉnh thoảng họ trở về với lượng quân số ít hơn.

Đó bao giờ cũng là một chuyện đau lòng. Gia Huy là người đứng ra nhặt nhạnh những đồ đạc còn lại của những người phi công mới qua đời. Anh ta sẽ gói ghém cẩn thận trong một miếng vải mềm, sau đó viết một lá thư dài tả người con hay người chồng này đã chết như một vị anh hùng chân chính như thế nào. Ta đã thấy những gói như thế đặt trên bàn may của Huê Lan, chờ được gửi đi. Ta luôn tự hỏi bàn tay vui vẻ nào sẽ mở gói ấy nghĩ rằng đó là món quà, đôi mắt buồn nào sẽ rơi lệ khi nhìn thấy món đồ bên trong. Thế là bữa tiệc của chúng ta trở nên ngày càng nhỏ đi trong những lần kế tiếp. Ta có thể hình dung về điều này, dường như đối với ta khi một phi công chết đi thì người khác lại có được cái sự thèm ăn của anh ta. Những người phi công này ăn uống như thể họ sẽ không bao giờ được thưởng thức những món ăn ngon như vậy thêm một lần nữa.

Ta nhớ rằng một đêm thường một người ăn 30 cái bánh bao, nới thắt lưng của anh ta ra, thở dài, sau đó chén thêm 30 cái nữa. Ta cứ chạy tới chạy lui tiếp cho họ hàng đĩa bánh lớn, kể cả Huê Lan, người biết ních cho thật nhiều cũng vậy. Sau khi trò chuyện cười đùa, những người này lại nới thắt lưng một lần nữa, lại xơi tiếp, xơi tiếp cho đến khi một người cuối cùng pha trò. “Để tỏ lòng kính trọng hơn với đầu bếp, tôi phải tụt quần xuống”. Người đàn ông nói câu đùa ấy là một người cao, gầy tên là Gan. Anh ta bao giờ cũng cười một cách lặng lẽ. Tuy điều anh nói hơi thô, nhưng ta không giận thậm chí cũng không xấu hổ. Anh là người pha trò rất khéo không bao giờ đẩy người khác đến chỗ làm trò cười cho mọi người. Với những câu đùa của mình, anh tự biến thành một kẻ ngốc nghếch một kẻ tự làm trò cười cho tất cả những người khác. Thực ra anh nhắc ta nhớ đến một diễn viên thượng thặng của Mỹ. Không phải là một một nhân vật quan trọng ồn ào như John Wayne, giống với Danny Kaye hơn, một người ai cũng thích. Anh ta giậm chân, lộn nhào trước khi anh ta bước lên ba bước. Đó là cách của anh – thậm chí không cần cố gắng, anh làm cho mọi người cảm thấy mình tốt hơn. Khi không nói hay không cười anh thường lặng lẽ ngắm nhìn ta cố nghĩ ra một điều gì để nói. Một lần, sau khi nghĩ một lúc, anh nói với ta bằng một giọng nhỏ nhẹ thành thực, “Món này – thậm chí mẹ tôi cũng không thể nấu ngon hơn”.

Ta rầy anh, “Anh đừng bao giờ nói như vậy về mẹ mình!” Mặt anh đỏ bừng lên. “Em gái tha thứ cho tôi nhé!” Sau đó anh ăn thêm hai cái bánh nữa, nói cũng bằng cái giọng nhỏ nhẻ ấy, “ngon hơn là bánh mẹ tôi làm”.

Ta nhớ khi anh nói thế, Văn Phú cười phá lên nói, “Đó là lí do tại sao anh gầy như một cây tre còi phải không?” Ta không thể biết được câu hỏi đó là để làm nhục mẹ anh hay là nhắm vào ta. Ta tự hỏi mình, “Tại sao chồng ta không có gì giống với Gan một chút?” Điều này nhét vào đầu ta một ý nghĩ khác, ta cũng có thể lấy một người tốt. Chẳng có ai giống Văn Phú cả. Tại sao ta không biết rằng ta còn có một cơ hội? Ta thấy rằng những phi công khác đều tử tế, tốt lành. Họ đối với ta rất tốt. Họ chẳng bao giờ đề cập đến việc ta đang mang bầu, dù họ biết, họ chạy đến giúp ta mang rau quả khi họ thấy ta tay xách nách mang. Một người, thường lái chiếc xe tải của không quân đề nghị chở ta đến bất cứ nơi đâu mà ta cần đi. Gan, người đàn ông nhút nhát rất thích món bánh bao ấy thường chơi đá cầu với ta trong khi Văn Phú và những người khác đánh bài hoặc chơi bài mạt chược vào buổi tối.

Ta nhớ những buổi tối ấy. Chúng ta chơi dưới ánh trăng và ánh sáng hắt ra từ các cửa sổ gần đấy, đánh quả cầu lông bay qua bay lại một cái lưới, cười vang khi chúng ta cố vụt vào cầu. Khi ta đánh hụt, Gan nhất định nhặt quả cầu lên để ta không phải cúi nhặt làm khổ cái bụng bự. Khi Văn Phú ra khỏi thành phố Gan mời ta đi ăn chỉ là một tô mì. Có thể chúng ta đi đến một tiệm mì bình dân chẳng có gì đặc biệt. Rồi anh tiễn ta về nhà, bao giờ cũng cư xử như người bạn thân thuộc của gia đình hoặc như một người anh trai, xin lỗi nếu anh vô tình chạm vào khuỷu tay ta.

Một lần Huê Lan nhìn thấy chúng ta nói chuyện ở bàn ăn trong bếp. Sau khi Gan đi về cô chọc ta, “Cẩn thận đấy.” “Chị muốn nói gì?” ta hỏi. “Không có gì”, Huê Lan bang quơ, “em chỉ bảo chị cẩn thận bây giờ để không có chuyện gì sau này.” Vớ vẩn, ta nói còn cô ta thì cười.

Thật là lạ lùng khi nhớ về điều này. Ta đã không nghĩ gì về Gan suốt 50 năm qua. Vì thế nhớ lại kỉ niệm này cũng giống như ta tình cờ khám phá ra một góc bí ẩn trong trái tim mình, cái niềm vui ta không thể khoe, cái nỗi buồn ta không thể tiết lộ với ai. Vậy tại sao ta có thể nói với Huê Lan được? Chính ta đã nói rằng chúng ta không thể sống những ngày hạnh phúc trong chiến tranh. Ta đã nói điều đó trước khi ta biết hạnh phúc có thể là gì. Thế là ta có thể thú thật điều này với con bây giờ. Gan đã có một ý nghĩa đặc biệt đối với ta. Chúng ta không biết nhau lâu. Nhưng ta lại tỏ tường trái tim của anh hơn trái tim của chồng ta, điều đó làm ta cảm thấy đỡ cô quạnh. Một lần anh nói với ta anh rất thích đi dạo với ta vào buổi tối. Trước khi ta có thể hỏi tại sao anh đã trả lời: anh sợ ở một mình khi trời tối. Một lần nữa trước khi ta yêu cầu anh giải thích, anh nói. “Cô biết đấy, cô có thể nhìn thấy ở mọi vật vào ban đêm cái mà cô không thể thấy vào ban ngày”. Ta gật đầu, nói rằng ta bao giờ cũng cảm thấy như vậy. Sau đó anh kể cho ta thêm về nỗi sợ hãi ban đêm của anh. “Tôi chưa bao giờ kể chuyện này với ai khác,” anh bắt đầu, “chuyện xảy ra khi tôi là một đứa trẻ. Vào năm con hổ tôi đã nhìn thấy một con ma sáng nhờ nhờ trong bóng tối”.

Để đáp lại ta bắt đầu kể cho Gan nghe việc ta đã gặp ma nhiều lần khi còn là một đứa trẻ; rồi con ma lại trở thành mặt trăng nhòm qua cửa sổ hoặc chính là thím Lớn thức dậy vào giữa đêm vì bệnh khó tiêu, hoặc con ma lại là một cành cây khô đâm qua cửa sổ nhà chính.

Gan nói, “Tôi cũng nhìn thấy con ma như thế, chỉ là trí tưởng tượng tồi tệ. Nhưng con ma này khác. Con ma này nói rằng nó sẽ trở lại và bắt tôi trước khi tôi sống được đến năm Dần tiếp theo – trước khi tôi 24 tuổi”.

“Những giấc mơ thường hay lộn xộn và vô nghĩa lắm,” ta chêm vào. Nhưng Gan tiếp tục nói như thể anh đang sống trong một giấc mơ đáng sợ.

“Đừng lo lắng nhiều,” con ma nói, “cái chết của mi sẽ không đau đớn. Nhưng khi mi nhìn thấy ta, nghe tiếng ta gọi mi từ trong bóng tối mi phải đến với ta không kháng cự, thậm chí không nói một lời.” Tất nhiên tôi không tin nó. Tôi hét lên “Mày chỉ là giấc mơ ghê rợn. Cút đi.”

“Sau đó thì anh thức dậy,” ta nói cố làm cho anh và cả ta nữa bình tĩnh. “Anh vẫn sợ hãi, anh sẽ không bao giờ quên cái kỉ niệm này”.

“Còn tệ hơn nữa.” Gan nói, giọng anh ráo hoảnh. “Tôi thức dậy, điều đó đúng. Tôi thức dậy để thuyết phục mình rằng tôi không ngủ mê nữa. Nhưng khi đứng ở cửa tôi nhìn thấy con ma vẫn đứng đấy. “Mi không tin đó là số phận của mi sao. Ta có bằng chứng rằng điều đó sẽ xảy ra.” Rồi con ma kể tên chín điềm xấu sẽ xảy ra với tôi trước khi đời tôi chấm dứt. Chín, con số của sự hoàn thành. Khi con ma đi khỏi tôi vẫn đứng ở cửa”. “Ôi Gan, đó là một câu chuyện dễ sợ!” ta nói.

“Trong suốt 11 năm qua tôi đã cố quên đi giấc mơ này. Nhưng bây giờ tám điều xấu đã xảy ra, chính xác như con ma đã miêu tả. Bây giờ tôi nghĩ đến điều thứ chín sẽ đến. Trong bốn tháng nữa năm mới con Hổ sẽ đến”. Anh cười hoảng hốt, “bao nhiêu đau đớn chờ đợi một cái chết không đau đớn”.

Kể xong, Gan run run như thể mùa đông giá lạnh đang ở chung quanh chứ không phải sự ấm áp đầu thu. Ta có thể thấy anh tin vào câu chuyện này. Ngay cả ta cũng sợ. Ta sợ đến nỗi không dám mở miệng hỏi vậy tám cái điều xấu đã xảy ra kia là gì? Ta chỉ cười “Giấc mơ hồi bé của anh dễ sợ thật”.

Tại sao lúc đó ta nói thế? Đó không phải là cảm xúc đang tràn ngập trong ta, mà ngược lại. Sâu thẳm trong lòng ta, ta chỉ muốn ôm Gan vào ngực, khóc. “Con trai bé bỏng xinh đẹp của ta! Con có chắc về tám cái điều xấu đã xảy ra không? Chúng là gì? Điều thứ chín sẽ là gì mau nói cho ta nghe đi!” Nhưng bây giờ khi nhớ lại cảm xúc của mình, ta biết tại sao ta không nói điều đó với Gan. Ta sợ không phải bởi vì Gan mà vì lí do khác. Ta đã là gái có chồng, nhưng ta chưa bao giờ cảm nhận tình yêu từ một người đàn ông hoặc cho một người đàn ông. Nhưng đêm hôm ấy ta gần như cảm thấy điều đó, ta cảm thấy mối nguy hiểm như khi con cảm thấy yêu một người nào đó, một người vừa thổ lộ những ám ảnh, những sợ hãi của anh ta, còn con thì muốn làm gì đó để xoa dịu nỗi đau. Cùng một lúc bao nhiêu nỗi niềm sẽ trào dâng trong trái tim con, tất cả những gì trước đây được giấu kín, còn nhiều, nhiều nữa – nỗi đau, sự xấu hổ, sự cô đơn, tất cả những nhức nhối xưa cũ, tất cả được giải thoát cho đến khi trong con tràn ngập niềm vui là đã dứt bỏ được nó, cho đến lúc quá trễ để ngăn cái điều mới mẻ này đang dào dạt trong trái tim con. Nhưng ta đã dừng lại. Ta giấu kín mình. Ta chỉ cười với Gan, pha trò về con ma trong giấc mơ để trấn an mình. Có lẽ ta cũng không chú ý nhiều đến giấc mơ của anh, bởi vì cả hai chúng ta đều cảm thấy một cái gì rất xấu sắp xảy ra. Chúng ta đã không nói chuyện cởi mở như cái cách mà Gan đã làm.

Nếu một phi công nói đùa, “Đây là lần cuối cùng tôi mất tất cả tiền lương đánh bài với anh”. Thì những người khác sẽ la lên “Ấy! Đừng nói lần cuối cùng, đó là điềm gở. Bây giờ anh phải chơi tiếp để hóa giải điều đó”.

Những phi công này biết máy bay của họ vận tốc không nhanh như trước, dù vậy họ vẫn rời mặt đất. Họ biết họ không được huấn luyện đầy đủ, không có đủ khôn khéo để tránh những máy bay chiến đấu của Nhật mới hơn, nhanh hơn. Họ thường đứng thành một vòng tròn lớn trước khi bay, đồng thanh hô vang những khẩu hiệu khi họ ném một hòn đá vào mục tiêu. Đó là cách họ cười cợt về việc trở thành anh hùng. Đó là cách chúng ta biết họ rất can đảm. Đó là cách chúng ta biết họ đang hoảng sợ, làm sao họ có thể trở thành những người anh hùng thực sự khi họ không có sự lựa chọn, làm sao họ có thể không như thế khi họ biết họ không có cơ hội nào hết. Hai tháng sau một nửa số phi công dự những bữa tiệc đã chết. Chúng ta nghe nói rằng tất cả bọn họ đều chết như những vị anh hùng, tất cả bọn họ đều bị bắn bị giết trong những chiếc máy bay lộn nhào từ trên trời xuống – thật là một sự kinh hoàng khôn tả xiết. Con thậm chí không tìm thấy một thân thể nguyên vẹn để chôn cất. Con không có đủ niềm tin tôn giáo để cảm thấy ghê rợn về điều đó.

Một phi công quen biết trong chuyến bay đến thành phố Hồ Nam đã bay thẳng vào trong cửa ô, ôi thôi cả người lẫn máy bay đều bị nghiền nát trong đống gạch vụn. Máy bay của chồng Mai Ly đụng vào một đỉnh núi cao. Người phi công thường chở ta trên chiếc xe tải thì sao – anh ấy bị bốc cháy trước khi máy bay của anh ấy đáp xuống đất.

Còn Văn Phú? Hắn ta thậm chí không bị trầy da. Con biết tại sao không? Hắn là một kẻ hèn nhát. Khi bắt đầu vào cuộc, Văn Phú bèn quay đầu lại bay theo hướng khác. “Ồ”, hắn sẽ giải thích với Gia Huy, “Tôi đuổi theo những chiếc máy bay của Nhật tấn công từ hướng khác, anh không thấy đấy thôi. Thật xui là tôi đã không bắt được nó”. Huê Lan cho ta biết điều đó, rằng Gia Huy nghĩ rằng anh ta sẽ phải lôi chồng ta ra tòa án binh. Con có nghĩ là cô ấy không tìm ra cơ hội để nói với ta điều ấy không?

Ta biết được điều này vào lúc máy bay của Gan bị bắn rơi bên ngoài Nam Kinh. Họ đưa anh vào bệnh viện, vẫn còn sống. Tất cả chúng ta vội vã vào thăm anh, Văn Phú, Gia Huy, Huê Lan, những người đàn ông khác còn chưa chết.

Ôi ta thấy, mắt Gan nhìn vào một điểm trên trần nhà rồi anh cười, khóc. “Thế đấy, con ma kia mày ở đâu?” anh la lên. “Tao không cưỡng lại cái chết”.

“Anh ta điên rồi”, Văn Phú nói. “Anh ta mất trí rồi, may cho anh ta, chẳng còn cảm thấy đau đớn nữa”.

Nhưng ta cảm thấy nỗi đau của anh một cách nhục thể. Ta không thể nói điều gì. Ta không thể đặt tay ta lên trán anh. Nhưng ta muốn khóc, gào lên. “Anh ấy không điên! Đó là điều con ma đã hứa với anh ấy, cái chết của mi không đau đớn, mi chỉ việc đến khi ta gọi mi vào ban đêm”.

Nhưng mà con ma đã nói dối bởi vì sự đau đớn của Gan mới thật là kinh khủng, tất cả ruột của anh ấy bị lòi ra ngoài. Suốt hai ngày hai đêm, anh đã vật lộn với bao nhiêu là đau đớn trước khi anh rời bỏ cõi đời, đuổi theo con ma. Đó là cả một nỗi thống khổ đối với ta, khi ta không thể để lộ bất cứ điều gì. Trái tim ta nhức nhối cũng như khi ta mất mẹ ta. Chỉ có điều ta không đau khổ về một tình yêu mà ta đã từng có. Ta hối tiếc vì ta đã không đón nhận nó. Thế là lúc Gan chết, cũng là khi ta khẳng định tình yêu của anh, anh trở thành một người tình ma. Mỗi khi Văn Phú mắng mỏ ta, ta lại nhớ đến lần cuối cùng Gan đến nhà ta ăn tối. Anh đã quan sát cách mà Văn Phú đối xử với ta suốt buổi tối. Khi chồng ta ra khỏi nhà, Gan nhìn ta, nói nhanh, “Cô chỉ nhìn cô qua một tấm gương. Nhưng tôi nhìn cô qua cách mà cô không bao giờ nhìn thấy mình, tất cả những gì thuần khiết nhất, không xấu cũng chẳng tốt”. Ta nhớ về điều này rất nhiều lần. Sau khi chồng ta mệt mỏi, kiệt sức vì cưỡi lên người ta rồi nằm lăn ra ngủ, ta lặng lẽ bò dậy ra soi gương. Ta xoay mặt mình phải trái, cố tưởng tượng đôi mắt của Gan đang nhìn ta. Ta muốn khóc lên vì nhức nhối với câu hỏi, “Anh ấy đã nhìn thấy cái gì?”

Đôi khi mọi việc còn trở nên tệ hại hơn thế, khi ta tự hỏi ta đã làm gì để phải sống một cuộc sống khốn khổ như thế, ta thường nhớ những cuộc dạo chơi của chúng ta vào những buổi tối, câu chuyện mà Gan kể cho ta nghe. Mặc dầu ta không bao giờ biết được tám điều xấu kia là gì, ta biết điều thứ chín. Ta là điều thứ chín.