← Quay lại trang sách

Chương 12 ĐỒNG TIỀN TAO NẠN

Khi mùa đông tới gần, chẳng còn lại bao nhiêu máy bay. Chỉ có một thứ rơi xuống từ bầu trời đó là mưa. Rồi một ngày nước trên trời trở nên lạnh hơn, nó thành tuyết. Đó là tuần lễ chúng ta chuyển từ Dương Châu đến Nam Kinh chỉ sau vài giờ di chuyển bằng xe tải. Cái ngày ở Nam Kinh ấy là lần đầu tiên ta nhìn thấy tuyết. Nó gợi ta nhớ đến những cái lông nhỏ bay lơ lửng trong không trung khi Gan và ta chơi cầu lông gà. Đó là cái cách mà ta cảm nhận, ở Nam Kinh, chúng ta cũng có một người giúp việc của căn cứ không quân, khác với người ở Dương Châu, ông này không điên, bao giờ cũng nói, “Đừng lo lắng quý bà. Nó không kéo dài lâu đâu. Ở Nam Kinh, tuyết chỉ như một sĩ quan cao cấp - không tới thường xuyên, không ở quá lâu”.

Huê Lan và ta nhìn tuyết rơi từ cửa sổ của tầng thứ nhất trong ngôi nhà lớn mà chúng ta đang trú ngụ. Nơi này đã từng là một tòa nhà đẹp của một thương gia nước ngoài, bây giờ nó là nơi dừng chân cho đủ mọi loại người. Khu nhà gồm có hai tầng, với bốn cái cột, những cái cửa sổ cao chạy suốt mặt tiền. Xung quanh nhà có nhiều cây - người giúp việc nói rằng chúng được mang từ Pháp sang. Nhưng khi lá cây trút xuống, dù là Pháp là Trung Quốc con cũng chẳng thấy có sự khác nhau. Ngôi nhà ở trong một khu vực sang trọng của thành phố, gần bức tường ở phía tây, đi bộ một quãng ngắn thì tới hồ Hạnh phúc. Vì thế nó cũng không quá xa trung tâm nhưng cũng không quá gần. Nhưng tuy vậy nếu con nhìn vào bên trong tòa nhà thì đó lại là một chuyện khác. Khi con bước vào con có thể nhìn thấy ngay: Những chiếc ghế sofa nhàu nát bởi không biết bao nhiêu cái mông người ịn lên, những thấm thảm đã mòn xơ ra bởi vô số bước chân vào, ra từ năm này qua năm khác. Ở mỗi phòng, giấy dán tường chỗ thì nhăn nhó chỗ thì rách nát. Bếp thì có một cái lỗ rò chảy ra từ 2 góc. Con có thể nói ngôi nhà giống như một cô nhi viện chẳng một người nào ở đây mà yêu quí nó. Cũng trong buổi chiều ngắm nhìn tuyết rơi ta chỉ cho người giúp việc vét sạch lò than, để nó không bốc lên quá nhiều khói vào lần tới. Về đến nhà Văn Phú nói, “Nếu em làm điều đó thì cũng chỉ để cho người khác hưởng thôi”, rồi hắn nói thêm rằng hắn được thông báo sẽ rời khỏi Nam Kinh trong vòng hai tuần hoặc có thể sớm hơn.

“Chúng ta có thể không ở đây đến một tuần”, ta bắt đầu nói. Văn Phú không cười, ta biết điều hắn muốn nói: người Nhật sẽ tới sớm.

Hôm ấy ta ra bưu diện của không quân để đánh đi 2 bức điện khẩn về Thượng Hải. Một cho nhà băng của ta hướng dẫn họ rút 400 tệ, gửi cho chị của Văn Phú, một bức điện cho chị chồng bảo chị nơi gửi tiền đến cho ta. Cô điện thoại viên giúp ta thêm những tín hiệu khẩn cấp. Cuối bức điện gửi cho chị Văn Phú ta thêm. “Nhanh lên, chúng ta sắp tao nạn”.

Ta thêm chữ tao nạn để khiến chị dâu ta khẩn trương, để coi lời yêu cầu của ta là nghiêm túc. Có lẽ quá phóng đại, có thể không phải vậy. Dù sao ta cũng đặt nó vào đây vì nó là một từ có thể làm cho mọi người chạy quýnh lên.

Tao nạn là gì? Ồ không có một từ Anh Mỹ nào có một nghĩa tương đương với nó. Nhưng trong tiếng Hoa chúng ta có rất nhiều từ khác nhau để miêu tả cái cấp độ của nó. Không, “tị nạn” không có cái nghĩa đó, hoàn toàn không. Con là một người tị nạn sau khi con đã tao nạn, vẫn còn sống sót. Nếu con còn sống sót thì con không muốn nói đến cái gì đã làm cho con tao nạn.

Con thật may mắn con đã không bao giờ phải trải qua điều này. Nó có thể là mối hiểm nguy kinh khủng đang đến gần, không phải cho con mà cho nhiều người, vì thế mà mọi người chỉ có thể lo cho riêng mình. Đó là nỗi sợ hãi theo đuổi con như một căn bệnh, chính xác như một con bão nóng rát trong đầu con vì thế ý nghĩ duy nhất con là, “chạy trốn, chạy trốn” - chẳng có gì khác ngày, đêm. Đó là khi tóc con dựng đứng trên đầu, bởi vì dường như con có thể cảm thấy một lưỡi dao kề vào cổ con, hơi thở của một kẻ thù giấu mặt nào đó chỉ cách con hai bước. Nếu con nghe thấy một tiếng hét hoặc nhìn thấy đôi mắt của ai đó mở to, thế là đủ. Cơn sốt nóng sẽ trở thành sốt rét chạy suốt sống lưng con rồi chạy xuống chân con. Con chạy rồi té ngã lại vùng dậy chạy, trượt chân, cứ thế.

Con thật may mắn là con đã không biết ý nghĩa của nó. Nhưng ta sẽ bảo con nó là như thế nào, nó suýt xảy ra cho ta ra sao.

Sau khi viết xong bức điện, điện tín viên hỏi ta, “Chị có nghĩ là chúng ta sắp tao nạn không?”

Ta không muốn làm cô sợ, vì thế ta nói. “Tôi chỉ nói thế bởi vì chị chồng tôi rất đãng trí. Từ này sẽ làm chị ta khẩn trương nếu không chị ấy lại quên hết mọi chuyện”.

Cô gái cười khen ta khôn ngoan. Ta thích cô ấy lắm. Ta không biết tên thật của cô ấy, nhưng cô ấy có biệt hiệu là Vân Betty “Betty xinh đẹp” bởi vì cô ấy nom giống nữ nghệ sĩ Bette mà mọi người mến mộ. Cô ấy chải mái tóc đen cũng theo kiểu như thế, giọng cô hơi khàn khàn, đôi mắt to cụp xuống một chút, phía đuôi, hơi lồi - ta nghĩ có thể bệnh tuyến giáp hay bệnh thận, chứng bệnh đã làm cho cô có đôi mắt ra như thế.

Cô đúng là con gái Nam Kinh điển hình. Cô có một cuộc “hôn nhân chớp nhoáng” - gặp một phi công, cưới anh ta thật lẹ. Chồng cô ta cùng một khóa với Văn Phú, nhưng ta không biết nhiều về anh ta. Anh chết 2,3 tuần sau khi cưới, nhưng cũng đủ để lại một mầm sống trong người cô.

Bốn ngày sau ta trở lại bưu điện. Chị chồng ta - thật là tệ hại - đã gửi tiền ngay tức thì, 2 ngày sau đó, nhưng không phải cho ta mà cho Văn Phú! Đó là điều Vân Betty nói. Nếu Văn Phú đến lãnh tiền thì cô ta biết sao? Tên anh ta trên giấy tờ gửi tiền.

“Đó là tiền của tôi!” Ta bảo Vân Betty. “Đó là khoản tiền tản cư của chúng tôi cần đến để sinh tồn.

Betty rót trà từ trong phích mời ta. “Thật kinh khủng. Sao những chuyện như thế bao giờ cũng xảy đến cho phụ nữ. Như em đây chẳng có một xu hồi môn. Bốn trăm tệ là cả một món tiền lớn”.

“Tất cả là bốn ngàn đồng”, ta sửa lại, miệng cô ta há ra kinh ngạc, “cùng với nhiều đồ đạc nữa, đồ gỗ quý rất nhiều, rất nhiều thứ khác nữa - nhưng bây giờ tất cả thuộc về gia đình anh ta. Họ chiếm hết”.

“Chuyện này cũng xảy ra với em đấy”, cô nói, lắc đầu. “Khi chồng em chết - tất cả những khoản tiền trợ cấp, tiền tử tuất đều vào tay gia đình anh ấy hết. Em chẳng có gì sất. Vì thế chị thấy đấy em phải đi làm để kiếm cái bỏ vào mồm, nuôi đứa con trong bụng”. Cô đập dẹp những lá thư đang phân loại, “Còn bây giờ thì gia đình chồng nói em phải về Nam Sơn đẻ con, để lại đứa cháu nội cho họ. Rồi sau đó em có thể cút, làm cái gì em muốn. Em hỏi chị, tại sao em lại phải đến đấy để họ đối xử tàn tệ với em như vậy? Họ nghĩ em là con gà mái chắc - đẻ trứng để cho họ xơi à?”

Ta bật cười. Vân Betty là như thế đấy, bao giờ cũng rất trung thực, nói thẳng hết cả ruột gan ra, cùng với một sự đắng cay trong mỗi lời nói. Chẳng bao lâu ta thấy mình cũng nói y chang như thế, “Chị sẽ yêu cầu anh ấy đưa tiền lại cho chị”, ta nói.

“Đúng thế”, cô nói “Điều đó hoàn toàn đúng. Tiền là của chị mà. Tiền này là để cho tao nạn”.

“Tiền này của chị, cho tao nạn”.

“Không có cớ gì”.

“Không có cớ gì”.

Rất nhiều lời đao to búa lớn. Ta trở về nhà để lí sự với Văn Phú. “Chúng ta cần tiền để tao nạn”, ta nói “Chúng ta không bao giờ biết được là chuyện gì sẽ xảy ra”.

“Ai bảo em là chúng ta tao nạn”, hắn nói, nghiến chặt hàm răng lại. “Dù như thế đi nữa, thì đó cũng là tiền hồi môn của em”, ta nói một cách nghiêm nghị.

Vào lúc đó Văn Phú ngoác cái miệng hắn ra, trông thật xấu xí. “Em làm gì với quá nhiều tiền như vậy - để trở thành một góa phụ giàu có, hạnh phúc à?” “Đừng có nói như thế!” Ta kêu lên.

“Vậy em nói những lời như thế mà được à?” hắn rống lên. Như thế, tất cả những lời lẽ ghê gớm của ta không còn có ý nghĩa gì nữa. Cứ như thế là cái phần đen tối nhất trong tim hắn có thể nhìn thấy cái phần tăm tối nhất trong tim ta. Tất nhiên, ta không nghĩ là hắn có thể chết. Nhưng một khi ý nghĩ này đã nảy ra, một khi hắn lại nhét vào thì khuôn mặt đỏ của ta không thể che giấu được trái tim đen. Làm sao mà con có thể nói phải quấy với người chồng như thế được?

Tối hôm ấy, ta nhận thấy lời lẽ của mình thực sự là vô ích. Văn Phú đã xài hết số tiền này. Một phi công người Quảng Đông ở khóa thứ 4, để lại một chiếc xe hơi ở sân bay sau đó thì bị chết vì tai nạn. Văn Phú bây giờ sở hữu chiếc xe đó.

Ôi thật là một điều xui xẻo! Làm sao mà Văn Phú có thể nghĩ đến việc mua lại đồ đạc của một phi công đã hi sinh! Như thế hắn vẫn tiếp tục cách làm ăn của gia đình hắn, biến cái thảm kịch của người phi công thiệt mạng thành ra lợi lộc cho hắn. “Nếu chúng ta thực sự tao nạn”, hắn nói “chúng ta có thể dùng chiếc xe để tẩu thoát”. “Nào bây giờ em thấy là em có một người chồng khôn ngoan như thế nào chưa?”

Ta chẳng nói gì, tất nhiên rồi.

“Chiếc xe chạy nhanh lắm”, hắn nói thêm vẫn tiếp tục mơ mộng về nó.

“Nhưng nếu họ đưa chúng ta trở lại đảo?”, ta nói “Vậy thì chúng ta không thể mang xe theo”. “Thì chúng ta có thể bán đi - giá gấp đôi, mà bằng vàng nhé chứ không phải là tiền giấy đâu”.

Ta bắt đầu nghĩ có thể là ta nhầm. Có thể đó là một ý tốt, ta không nên bướng bỉnh.

“Chắc nó là một chiếc xe tốt”, ta nói. “Hừm! Tất nhiên là nó rất tốt”, hắn nói “Em nghĩ rằng anh không biết làm ăn sao?”

Nhưng buổi chiều hôm ấy ta nhìn thấy hắn lái cái thứ gì trở về, một cái xe thể thao cũ kĩ không mui, hiệu Piat ta nghĩ thế. Có từ Anh - Mỹ nào dùng để chỉ một chiếc xe tồi tàn như thế - một cái xe cà tàng, chính thế đấy. Đó là một chiếc xe cà khổ nhỏ bé, bụi bặm, móp mép, không có mui để che mưa, tuyết hay gió lạnh, cái cửa dành cho khách thì không mở được. Tất nhiên xe hơi một món rất hiếm trong chiến tranh, đó là một thứ đồ xa xỉ. Vì thế Văn Phú không bận tâm đến việc hắn đã trả cho gia đình người phi công nọ 10 lần cao hơn giá trị thật của nó.

Hắn bóp còi inh ỏi, cười vang, kêu lớn, “Nào bây giờ em thấy thế nào?” Ta cười với hắn, để cho hắn nghỉ là ta tự hào rằng hắn đã làm một việc mua bán rất hời với người chết. Sau đó hắn bảo ta trèo qua cửa xe hư. Con tưởng tượng được không, ta vác cái bụng sáu tháng, áo đơn áo kép một đống trên người vì đang vào lúc rét nhất của mùa đông. Ta phải vất vả lắm mới cho được một chân vào trong. Hắn cười nhăn nhở lại bóp còi inh ỏi. Hắn nóng lòng muốn biểu diễn.

“Nhanh lên! Đồ lười biếng!” Hắn hét lớn đoạn đạp khá mạnh vào pêđan làm cho động cơ rồ lên khiến ta nghĩ là hắn sẽ lái đi trước khi ta cho nốt chân kia vào trong xe. Ta để cho hắn lượn một vòng, đi xuôi xuống đại lộ chính, ra khỏi cửa ô phía Đông, vượt qua những chiếc cầu nhỏ buốt giá, sau đó đi xuống những con đường dài bẩn thỉu dẫn chúng ta đến chân núi Tím và Vàng. Tóc tai quật vào má ta phần phật. Gió lạnh như kim châm thổi qua tai làm cho đầu óc ta tê dại.

“Ngồi cẩn thận nhé”, Văn Phú kêu lên rồ ga mạnh hơn. Trong khi ta hét lên, nhắm nghiền mắt lại, hắn cua thật gấp, để lại những vết bánh xe lún sâu xuống mặt đường.

“Thật là một chiếc xe hết xảy, còn ngon lành lắm!” Hắn thét lên.

Hắn lại bẻ tay lái lần nữa theo hướng này rồi lại theo hướng khác, qua một ổ gà lớn đầy bùn rồi qua một chiếc xe lừa chậm chạp. Hắn bóp còi về phía một cậu bé làm cho nó phải nhảy vào một cái rãnh đầy nước mưa. Hắn chạy qua một đàn sáu con vịt con, thật non nớt trên đời này để biết chúng phải sợ hãi điều gì. Mỗi khi ta chỉ cái gì đó nguy hiểm một cái xe chạy quá nhanh hoặc tai họa đang từ từ xảy đến, khi ta la hét hoặc bịt mắt lại thì Văn Phú lại cười phá lên. Ta nghĩ đó là khoảng khắc vui vẻ nhất mà hắn có với ta.

Ngày hôm sau ta bảo hắn là ta quá mệt không thể đi xe với hắn. Thế là hắn mời Gia Huy, họ đánh xe đi như những chú bé vô tư. Khuya hôm đó. Văn Phú về nhà mặt hắn chảy dài một đống. “Anh có vui không?” ta hỏi. Hắn không trả lời ta. Ta hỏi tại sao hắn lại giận dữ làm vậy. Hắn vẫn không chịu nói, hắn châm một điếu thuốc, rót ra một li uýtxki.

Vậy là ta nghĩ, “Kì cục làm sao, mình không nghe tiếng xe hắn quay về.” Ta nhìn qua cửa sổ, bước ra cửa. Ta nhìn xuống lối đi tối om về phía đường cái. Không có cái xe.

“Cái xe mới đâu rồi?” Ta hỏi hắn, ngồi xuống cái bàn bên cạnh hắn. Hắn vẫn nốc rượu mạnh tì tì, phun khói thuốc mờ mịt, mãi mới mở miệng: “Đồ vứt đi”. Hắn nguyền rủa sự vô giá trị của cái xe: “Như là con một con chó mẹ động đực với một con quỷ”.

Sáng hôm sau Huê Lan kể ta nghe chuyện gì xảy ra theo lời kể của Gia Huy.

Họ lái xe ra vùng ngoại ô qua cửa Nam, qua một ngọn đồi nhỏ, xuống một con đường dài, hẹp rồi đến một chỗ mà Văn Phú nghĩ là một cánh đồng trống. Hắn lái xe rất nhanh đuổi theo một con thỏ, giả vờ nó là một chiếc máy bay của Nhật. Nhưng con thỏ nhanh hơn thoắt ẩn thoắt hiện. Nó chạy lên một gò đất, chiếc xe bon theo. Đó là lúc gầm xe động mạnh xuống đất - lên những tảng đá, úp lên nhau như những con rùa nằm xếp lớp. Hắn cố lái xe vượt qua. Gia Huy nhảy ra ngoài phụ đẩy chiếc xe. Rồi Văn Phú vào số mạnh nhất, làm cho bánh xe quay nhanh hơn, nhanh hơn, làm cho động cơ gầm lên to hơn, to hơn cho đến khi - oa! - một cụm khói đen phụt ra dưới gầm xe, nó bốc cháy.

Cả hai cùng nhảy ra xa và đứng đấy nhìn ngọn lửa thiêu cái xe trên một đống đá. Ngọn lửa bốc cao dần, họ phải lùi ra xa hơn. Sau khi kiếm cách dập tắt đám cháy họ đứng nhìn mảnh đất khô cằn chung quanh được soi sáng bởi ngọn lửa. Họ nhìn thấy cả cánh đồng được bao phủ bởi bao nhiêu những hòn đá như vậy - hàng trăm con rùa mắc cạn trên một cái biển đã cạn nước. Trước khi Huê Lan kể thêm nữa, ta đã biết Văn Phú làm cái gì - hắn lái xe vào nghĩa trang một làng quê nghèo!

Huê Lan vung tay, “Tất nhiên, lỗi một phần là do Gia Huy. Anh ta đã quá vô ý, không chịu hướng dẫn chồng chị cẩn thận hơn”.

Ta muốn bật khóc khi Huê Lan bảo ta là Văn Phú đã phá hỏng cái xe. Ta muốn điên lên vì giận dữ vì hắn đã làm mất toi 400 tệ theo cách ngu xuẩn ấy.

Thay vì thế ta lại cười. Huê Lan nghĩ ta phát khùng. Ta cười như điên, nước mắt tuôn lã chã trên mặt, ta không nói được một lời nào.

Vì thế ta không thể giải thích được điều ta cảm thấy. Ta có thể nhìn thấy vẻ mặt chồng ta lúc đang đứng trong nghĩa trang, khi nhận ra hắn đang ở đâu. Ta có thể nhìn thấy chiếc xe nhỏ bốc cháy trên những phiến đá. Bây giờ ta cảm thấy vui sướng vô cùng khi cuối cùng người phi công quê ở Quảng Đông đã thiệt mạng nhưng lại được bay thẳng lên thiên đàng với cái xe hơi một lần nữa lại là của anh. Sáng hôm ấy, Huê Lan và ta vào trong phố. Ta mặc áo khoác dài màu xanh lá cây đi đôi giày hàng ngày bởi vì từ chỗ chúng ta ở vào đến trung tâm xa khoảng ba, bốn dặm Trung Quốc áng chừng hai dặm Anh. Ta đã đi bộ suốt quãng đường ấy. Không như con, thượng ngay lên trên xe với quãng đường bằng hai dãy nhà để mua rau. Trên đường đi ta dừng lại ở bưu điện gởi đi một bức điện lần này thì cho Peanut, người lúc này đã lấy một người chồng giàu có ở Thượng Hải, người mà bà bói đã chọn cho nó. Ta bảo Vân Betty viết đúng cái câu trước vào cuối bức điện “chúng ta sắp tao nạn”. Tuy nhiên lần này ta thêm vào, “gửi 400 đồng trực tiếp cho Giang Vi Vi”. Betty không hỏi chuyện gì đã xảy ra với 400 đồng kia. Nhưng ta nghĩ cô ấy biết.

Sau khi gửi bức điện, Huê Lan và ta ra chợ mua rau quả. Sáng hôm ấy trời lạnh, ta nhớ ta đã nhìn lên bầu trời xám xịt, đầy mây mù, nói “Có lẽ sắp có tuyết”.

Huê Lan cũng ngẩng lên nhìn trời, “Không nhiều mây. Dù sao thì em cũng nghe nói rằng chỉ có tuyết rơi một hay hai lần trong suốt mùa đông, hai trận không cách nhau có một ngày”.

Chúng ta đi vào trong chợ. Lúc ấy khoảng 10 giờ, người ta dọn hàng từ sáng sớm. Người ta đang nóng lòng tiến hành các cuộc mặc cả để làm máu nóng lên. Ở ngoài chợ, mấy đứa bé trai đang lom khom chơi đáo trước mấy quầy bán rau. Trong chợ có hàng dãy bàn phô đầy những xô đậu hũ cùng những chiếc cân với hàng đống cà chua chín mọng, cả củ cải trắng, những giỏ nấm rơm, chậu cá sống, những con cua đồng lột từ miền Nam mang đến, bột mì trắng, miến gạo.

Đoàn người di chuyển thành hàng rồng rắn qua những quầy hàng thở ra những làn mây mỏng vì lạnh. Vào cái giờ khắc ấy ai cũng rất hào hứng vui vẻ, họ còn chưa mệt mỏi sau một ngày làm việc và đang bận tâm về thực phẩm dành cho bữa ăn tối.

Huê Lan và ta đi theo làn khói ngọt ngào của hạt dẻ nướng, bây giờ thì chúng ta đang đứng trước một quầy bên lối đi. Ông chủ đang quấy vào một chiếc xô đầy những quả gì đen đen. Chúng ta ăn sáng đã được ba tiếng rồi, vì thế Huê Lan và ta đồng ý: Một nắm hạt dẻ làm ấm đôi tay, ấm bụng thì sẽ rất tuyệt.

“Các cô đến vừa đúng lúc”, người bán hàng rong nói, “tôi vừa thêm mật vào nữa giờ trước khi vỏ hạt dẻ vừa mới mở ra”. Ông ta đổ sáu hạt dẻ vào mỗi cái bù đài bằng giấy.

Ta vừa mới tách ra một hạt dẻ, chuẩn bị cho một hạt dẻ nóng hổi vào miệng thì có một tiếng kêu lớn trên đường phố, “Máy bay Nhật! Thảm họa đang tới”. Sau đó chúng ta nghe thấy tiếng máy bay ì ầm ở xa, giống như tiếng sấm đang vọng đến.

Tất cả những người đi chợ, những người bán hàng xô nhau chạy. Giỏ hạt dẻ để tung tóe. Gà vịt kêu quàng quạc mổ nhau để thoát khỏi lồng.

Huê Lan nắm tay ta, chúng ta co chân chạy cứ như là chúng ta có thể chạy nhanh hơn những chiếc máy bay trên đầu. Tiếng máy bay càng lúc càng to hơn, cho đến khi chúng ở ngay trên đầu gầm lên như những con voi. Chúng ta biết là bom đạn sẽ dội xuống. Lúc đó mọi người đều ngã dúi dụi xuống cùng một lúc như là một cánh đồng lúa mì ngã rạp xuống cùng một lượt trong một trận cuồng phong, ta cũng ngã xuống luôn. Huê Lan đẩy ta ngã xuống. Nhưng tôi vì cái bụng quá to, ta phải nằm nghiêng sang một bên. “Chúng ta sẽ chết bây giờ sao?”, Huê Lan mếu máo.

Mặt ta úp xuống đất, hai tay ôm đầu. Nếu mọi người có la hét thì chúng ta cũng không thể biết vì tiếng máy bay gầm rú ở trên đầu. Tay Huê Lan run lẩy bẩy khi cô ta nắm lên vai ta. Hoặc có thể là cơ thể của ta đã làm cho tay cô ta run rẩy. Cho đến khi tiếng động cơ máy bay xa dần ta mới cảm thấy trái tim ta đập thùm thụp trong lồng ngực, nhờ thế ta biết rằng mình vẫn còn sống sót. Lúc ngẩng đầu lên cũng là lúc mọi người cùng nhỏm dậy. Ta cảm thấy may mắn hết sức. Lòng ta tràn ngập cảm giác biết ơn. Ta có thể nghe mọi người khóc lên vì vui sướng. “Cảm ơn Phật Bà! Tạ ơn Người!” Sau đó chúng ta nghe tiếng máy bay quay lại, tất cả những lời tạ ơn trời Phật lại thành những câu chửi rủa. Chúng ta lại chúi đầu xuống, ta nghĩ rằng những lời nguyền rủa này sẽ trở thành kí ức cuối cùng của ta. Máy bay quần đảo trên đầu tới, lui, đầu mọi người ngẩng lên, gục xuống, lên, xuống cứ như thể chúng ta cúi lạy những chiếc máy bay này.

Ta vô cùng giận dữ. Ta vô cùng sợ hải. Ta muốn đứng dậy, bỏ chạy nhưng toàn thân tê dại. Mặc dù trong ta cháy bỏng khát vọng được sống, ta lại chỉ nghĩ đến cái chết, có lẽ bởi vì mọi người chung quanh ta đang khóc, cầu kinh “Amitaba, Amitaba!” - sẵn sàng cầu đức Phật đưa đường sang thế giới bên kia.

Ta nghĩ có lẽ tất cả chúng ta đã chết. Làm sao ta biết? Có vẻ như hơi thở của ta đã tắt, tuy những ý nghĩ trong ta vẫn chạy đua, tay ta vẫn có thể cảm thấy mặt đất cứng, lạnh. Ta vẫn có thể nghe thấy tiếng máy bay bấy giờ - ờ có vẻ đã xa hơn, xa hơn.

Tiếng cầu kinh tắt hẳn. Nhưng tất cả chúng ta vẫn nằm đờ không nhúc nhích, lát sau ta nghe có tiếng thì thào. Ta cảm thấy mọi người xung quanh đang duỗi thẳng người ra. Có ai đó rên rỉ. Một đứa trẻ khóc - ta không muốn nhìn lên xem có chuyện gì xảy ra. Huê Lan lay ta “Chị có đau không? Dậy đi!”. Ta không thể nhúc nhích. Ta không còn tin vào các giác quan của mình.

“Dậy di!” Huê Lan kêu lên thảng thốt. “Có chuyện gì vậy?”

Huê Lan giúp ta đứng lên. Tất cả chúng ta từ từ vươn dậy như một cánh đồng lúa mì sau trận gió, không ngã rạp xuống nữa. Tất cả chúng ta đều thì thầm, “Không có máu”. Sau đó thì Huê Lan kêu lên: “Không có máu! Chỉ có tuyết!” ít nhất thì đầu tiên cô ta cũng nghĩ là như thế. Bởi vì cô ta nói thế, thoạt tiên ta cũng nghĩ thế. Những bông tuyết lớn phủ trên đường phố, trên lưng những con người nằm phủ phục trên mặt đất. Khi nhìn lên, ta thấy tuyết rơi từ trên trời xuống, mỗi một bông tuyết lớn như một tờ giấy. Một người phu xe tay trước mặt chúng ta nhặt lên những bông tuyết này, hóa ra nó là một mảnh giấy mỏng. Anh ta đưa cho ta, “Nó viết gì vậy?”

Tờ giấy vẽ một bức tranh vui vẻ, một người lính công kênh trên vai một cô gái Trung Quốc bé nhỏ, “Chính quyền Nhật”, ta đọc, “tuyên bố nếu chúng ta không kháng cự thì chúng ta sẽ được họ đối xử tốt, không việc gì phải sợ hãi. Nếu chúng ta kháng cự, rắc rối sẽ đến với tất cả mọi người”.

Sau đó ta nghe một người lính Trung Hoa kêu lên trên đường phố. “Nói láo! Nói láo. Đó là điều chúng đã rêu rao ở Thượng Hải. Xem chúng đã làm gì với chúng tôi! Đây là những gì còn lại của quân đội chúng ta. Chỉ có những miếng giẻ để lau sạch máu người dân Trung Hoa”.

Một bà già cất tiếng mắng y, “Im đi. Mi cứ ăn ở cho phải phép, nếu không chúng ta sẽ gặp rắc rối”. Nhưng người lính vẫn tiếp tục la hét. Bà già nhổ vào chân hắn, nhặt túi của bà lên, vội vã bỏ đi. Bây giờ thì mọi người đều rào lên nói chuyện, vài người khác la hét, chẳng mấy chốc cả đường phố dậy lên những giọng nói sợ hãi, hoảng loạn.

Ta cho con biết là ngày hôm ấy, khi nổi sợ hãi bệnh hoạn lan ra mọi người đều trở thành một con người khác. Con không biết có một con người khác ẩn náu bên trong con cho đến khi con gặp tao nạn. Ta nhìn mọi người cướp đồ ăn, ăn trộm. Những người bán hàng đi xa khỏi những cái nơi thức ăn đang bốc khói. Ta chứng kiến những cuộc đánh lộn, cải vã, trẻ con bị lạc, kêu khóc, người lớn xô nhau lên xe buýt sau đó lại ùa nhau chạy xuống khi họ nhìn thấy đường phố nhốn nháo đầy người.

Huê Lan bảo người phu xe ở phía trước đưa chúng ta về nhà. Nhưng ngay khi anh ta đứng lên giúp chúng ta ngồi lên xe, một người bự con hơn đánh anh ta gục xuống, nhảy lên xe, phóng đi. Trước khi ta cố thét lên: “Ôi kinh khủng quá!” một người ăn mày chạy đến chỗ ta, cố gắng giật lấy cái bóp ra khỏi tay ta. Huê Lan đánh hắn.

Bất thình lình một người kêu lên, “Chạy đi! Chạy đi”. Sau tiếng kêu đó mọi người bỏ chạy tán loạn rồi cả đám đông ùa chạy về một hướng. Một cái thùng to đựng cá xô để như thể nó là một cái bình nhẹ bỗng. Một người đàn bà ngã xuống, khóc - một tiếng khóc rợn người kéo dài cho đến khi nó tắt lịm dưới hàng trăm bước chân, Huê Lan túm tay ta, quay người ta lại, đẩy ta theo cùng hướng với đám đông. Chúng ta bị nuốt chửng trong dòng người bị dồn ép bởi vai của những người khác. Ta có thể cảm thấy khuỷu tay, đầu gối mọi người thúc vào lưng ta, vào cái bụng bầu của ta. Sau đó khoảng không giữa chúng ta bị thu hẹp lại, chúng ta bị ép vào nhau, di chuyển từng phân một.

Huê Lan đặt một tay lên vai ta và đẩy ta về phía trước “Nhanh lên, nhanh lên!” Cô ta nói trong khi nhích lên từng bước một. Bất thình lình đám đông túa sang một đại lộ lớn, ta không còn bị ép giữa dòng người, bây giờ người ta ào đi các hướng.

“Lối này, lối này”, Huê Lan nói. Ta cảm thấy tay cô trượt khỏi vai ta.

“Lối nào?” ta gọi, “Huê Lan!”

Không có câu trả lời.

“Huê Lan! Huê Lan!” Ta la lên. Ta quay lại, mọi người xô vào ta, nhưng không phải Huê Lan. Ta quay lại lần nữa. Cô ta không ở đây.

Trong đám đông ấy, tất cả nỗi cô đơn, nỗi sợ hãi dồn nén bấy lâu nay trào ra. Ta bắt đầu bơi ngược lại dòng người, nhìn phải nhìn trái, ngó ngược ngó xuôi. Cô ta đã biến mất.

“Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Ta bật khóc. Ta ngạc nhiên với những tiếng kêu bật ra khỏi miệng mình, “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”, cứ như thể mẹ có thể cứu sống ta, người mẹ đã bỏ rơi ta nhiều năm về trước.

Ta thật ngu ngốc trong cái ngày hôm ấy. Ta có thể ngã xuống, bị đạp lên, chết như nhiều người đã bị như vậy. Ai đó có thể đánh bật đứa trẻ ra khỏi bụng ta. Vậy mà ta vẫn xuyên qua đám đông gọi tên mẹ ta, tìm Huê Lan.

Nếu con hỏi ta chuyện này kéo dài bao nhiêu phút, bao nhiêu giờ cho đến khi ta được tìm thấy, thì ta không thể trả lời được. Khi ý thức trở lại, tất cả những điều ta biết là: ta, ngồi trên một chiếc ghế nhìn vào một hạt dẻ trong tay ta. Ta thấy nó ở trong tay ta, cũng cái hạt dẻ mà ta đã bóc trước khi máy bay đến. Ta dở khóc dở cười với cái mà ta còn nắm chặt trong tay vào lúc ta suýt chết. Ta đang định ném đi thì ta nhận ra rằng ta vẫn còn đang nắm nó trong tay. Vô số ý nghĩ hỗn độn mà con có khi thế giới của con thay đổi một cách đột ngột. Cả thành phố đang lên cơn điên, Huê Lan biết mất - con có giữ một hạt dẻ nguội trong tay hay không? “Ê bà chị! Em hi vọng chị có một cái cho em!” Giọng nói đó đã đánh thức ta dậy từ một cơn ác mộng.

Ta nhìn thấy Huê Lan đi về phía ta trên một chiếc xe. Tưởng tượng được không? Cô ta vẫn đùa được sau một cơn kinh hoàng như vậy, đùa khi ta nghĩ là cô ta đã chết. Ta chạy về phía cô ta với một tiếng kêu vui mừng.

“Lên nhanh lên!” Cô ta nói đưa tay kéo ta lên. Ta ném hột hạt dẻ đi rồi ngã người ra lưng ghế. Huê Lan đạp xe, cô ta đưa một cái gậy cho ta, chân của một chiếc ghế dựa hay ghế đẩu.

“Nếu bất cứ ai muốn cướp cái xe này, chị cứ đánh nó cho em”. Cô la lên. “Chị phải làm thế, hiểu chưa? Đánh lui bọn chúng đi”.

“Đánh bọn họ”, ta lặp lại. Tim ta đập như trống làng. Ta ngó dáo dác giơ cái gậy về phía một người đàn ông đang nhìn ta.

Cho đến tận khi về gần đến nhà ta mới hỏi cô ta làm sao cô ta tìm ra chiếc xe này.

“Thật là một thế giới kinh tởm!” Cô nói. “Cuối cùng khi chúng ta chạy đến đại lộ, cuối cùng em mới thở ra và nhìn quanh được. Ngay lúc đó em nhìn thấy người đàn ông đã cướp cái xe của người phu đứng cạnh chúng ta. Y đang đạp qua chỉ cách vài mét, thậm chí em cũng chẳng có thời gian nghĩ nữa. Em chạy tới cố hết sức lôi hắn ra khỏi ghế. Khi hắn ngã xuống, em nhảy lên, đạp đi tìm chị. Em nhìn thấy cái áo khoác xanh lá cây của chị, nhìn thấy chị đang kiếm em nhưng trước khi em có thể gọi chị thì một người chạy đến chỗ em. Ối cha! Hắn vung vẩy cái gậy, sẵn sàng đánh em để cướp lấy cái xe cũng như em đã làm thế với gã đàn ông trước đó. Nhưng em đã sẵn sàng, khi hắn vung lên em bèn chộp lấy cái gậy, rồi dùng nó để đánh đuổi hắn đi”. Cô chìa tay về phía ta. Một ngón tay bị dập. “chị xem thế giới trở nên tồi tệ như thế nào, đời là thế”.

Ngày hôm ấy, chúng ta rời khỏi Nam Kinh. Con xem ta vẫn còn may mắn chán, ta chưa bao giờ thật sự tao nạn, chỉ mới xém đến đó thôi. Tất nhiên ta sợ đến nổi quên cả bức điện gởi cho Peanut quên cả số tiền 400 tệ cho đến khi quá trễ.