← Quay lại trang sách

Chương 13 HƠI THỞ CỦA THIÊN ĐÀNG

Vài năm trước, ta nói chuyện với Helen những điều đã xảy ra ở Nam Kinh, dì ấy vẫn than vãn về ngón tay, như một cái gì nhắc nhở ta.

Ta nói, “Chị có nhớ chị đã lấy trộm cái xe vào cái ngày máy bay rải truyền đơn như thế nào không?” Con xem, chưa bao giờ ta cảm ơn cô về cái ơn cứu sống. Chúng ta đã chạy bán sống bán chết, hoảng loạn đến mất trí, chẳng còn có thời gian để tỏ ra lịch sự. Thế là 50 năm trôi qua ta vẫn chưa cảm ơn cô ấy đến bây giờ ta mới có dịp nói cảm ơn.

Helen cười, “Em chẳng nhớ gì cả”. Dì ấy nói, “Dù sao chị cũng không buộc tội em tội ăn cắp chứ? Em chưa ăn cắp bất cứ cái gì cả”.

Ta nói, “Nhưng đây là thời chiến, chị đã đẩy một người đàn ông ra làm dập ngón tay của mình, cũng cái ngón tay mà bây giờ chị đã phải chịu chứng viêm khớp. Rồi sau đó chị tìm thấy tôi, đưa tôi về nhà. Lúc ấy tôi có bầu sáu tháng”. Nhưng Helen vẫn không nhớ ra. Dì ấy chỉ nhớ láng máng về cuộc sống ở Nam Kinh, về món cật vịt mà dì đã ăn ở đấy, mà không bao giờ được ăn lại, về cái bàn mà dì không bao giờ muốn bỏ lại lúc bỏ chạy. Tất nhiên dì ấy nhớ Vân Betty. Dì ấy nghĩ Betty là bạn của dì ấy. Điều ấy không lạ lùng sao? Chúng ta ở cùng chỗ vào cùng một thời điểm. Với ta đó là thời gian khó khăn nhất trong đời. Ta nhớ tất cả mọi thứ. Với Helen, trừ những cái cật vịt chẳng có gì đáng để dì ấy giữ lại trong đầu. Tại sao con không hiểu đó là cái gì? Thời vui tươi, thời gian khó - chỉ có những điều đó làm ta nhớ. Chẳng có ai nhớ cả. Một cảm giác vô cùng trống trải.

Dù sao khi Helen than phiền về bệnh viêm khớp ngày hôm ấy, ta bảo với dì ấy rằng ta sẽ tự làm những vòng hoa. Ta không nói gì để cảm ơn dì ấy đã cứu sống ta ở Nam Kinh nhưng ta biết ta đang làm gì.

Bây giờ ta sẽ kể cho con nghe chúng ta đã trốn thoát, cứu được mạng sống của mình mà thậm chí không biết gì về điều đó.

Mỗi người một cái valy, đó là tất cả những gì chúng ta có thể mang. Chỉ một tiếng sau chúng ta đã phải rời Nam Kinh. Đây là những điều đã xảy ra - chúng ta quyết định, chúng ta không thể ở lại phía sau, tất cả chỉ có một tiếng. Không có thời gian để bán bất cứ cái gì. Cả thành phố này là điên cuồng tao nạn. Ta hết sức sợ hãi.

Nhưng Văn Phú thậm chí cũng không biết an ủi ta. Khi ta bắt đầu kể cho hắn nghe chuyện gì đã xảy ra ở chợ, hắn xua đi. “Không có mắt à?” Chồng ta nạt nộ, “Anh có nhiều việc quan trọng để làm hơn là nghe những chuyện mua bán của em”. Đoạn hắn bỏ đi nói chuyện với một người đàn ông trên xe tải. Hắn mồi lửa một điếu thuốc lá, thở khói ra hai lỗ mũi sau đó nhìn đồng hồ rồi giập điếu thuốc trước khi châm một điều khác. Vì thế ta biết là hắn cũng sợ.

Gia Huy là người bảo ta và Huê Lan rằng mỗi người chỉ được mang một valy. “Thế còn cái bàn mới của em? Hai cái ghế của em?” Huê Lan kêu lên.

Vài ngày sau khi tới Nam Kinh, Huê Lan và ta đã mua thêm một vài đồ gia dụng, nghĩ rằng chúng ta sẽ ở Thủ đô lâu hơn. Trong khi bàn ghế của Huê Lan rất rẻ, không phải loại tốt, chúng cũng còn sang chán so với bất cứ thứ gì Huê Lan đã từng có.

“Đừng tiếc rẻ làm gì”, Gia Huy nói, ngoắc Huê Lan ra một bên thì thầm gì đó với cô ta. Ta không thể nghe thấy nhưng có thể nhìn thấy mặt Huê Lan giống như khuôn mặt cô gái nhỏ, xị ra vào phút này tươi lên vào phút sau.

“Nhanh lên”, Huê Lan nói với ta bằng cái giọng quyền thế mới mẻ. “Không có thời gian để cà kê, tiếc nuối”. Ta muốn nói với cô ta, “Tôi không phải là người ưa than vãn”. Nhưng chúng ta không có thời gian để tranh luận. Trong khi chúng ta đóng gói đồ đạc, Cần vũ binh đi tới đi lui trong phòng mang những thứ chúng ta yêu cầu ông ta tìm. Những bộ quân phục không quân của Văn Phú, giỏ đồ khâu của ta. Vì thế ta chỉ có thể mang đi mấy cái kim, hai cái tô, hai đôi đũa, một cho Văn Phú, một cho ta. Người giúp việc thì thào một cách căng thẳng với chúng ta trong suốt thời gian đó. “Nếu ông bà nghe radio, nếu ông bà đọc báo, ông bà sẽ chẳng biết gì về chuyện bọn Nhật sắp tới, chẳng biết gì”, ông ta nói, “nhưng tất cả những điều người ta phải làm là nhìn vào mặt mọi người trong thành phố”.

Ông ta càng nói bao nhiêu thì việc đóng gói đồ đạc càng khẩn trương bấy nhiêu. Ông ta nói là những người lính bỏ chạy đã cướp bóc, thậm chí còn giết người để ăn cắp quần áo của họ mặc vào người giả làm thường dân trước khi quân Nhật kéo vào Thủ đô. Bất cứ ai có tiền hoặc có những mối liên quan với giới chức đều bỏ chạy. Thậm chí cả thị trưởng - một người mà Tưởng Giới Thạch đã bổ nhiệm bởi vì ông ta hứa là ông ta sẽ bảo vệ Nam Kinh mãi mãi, ông này cũng bỏ trốn với nhiều tiền bạc.

“Chúng ta không bỏ chạy”, Huê Lan gắt lên với người giúp việc. “Khóa thứ 2, thứ 3 có công việc mới ở Côn Minh, một việc rất quan trọng đó là lí do tại sao chúng ta bỏ đi”. Ta tự hỏi cô ta có thực sự tin vào điều đó, có phải đó là điều Gia Huy đã bảo cô ta không. Công việc gì quan trọng ở Côn Minh, nhiều năm trước đây Côn Minh là nơi người ta điều những sĩ quan vô kỉ luật tới. Nếu người ta không chặt đầu con thì họ sẽ điều con tới Côn Minh là nơi sơn cùng thủy tận một nơi chỉ có các tộc người mọi rợ. Tất nhiên, không còn những trường hợp như thế nữa, nhưng đôi khi điều đó vẫn xảy ra. Ta còn nhớ câu thành ngữ mà chúng ta thường nói về Côn Minh. “Sống ở Côn Minh như kẹp trong kẹp đá”. Có nghĩa là con bị đẩy ra khỏi cuộc sống loài người. Sống ở Côn Minh có thể ví như trốn vào một nơi bí mật nơi không một ai có thể tìm thấy, một nơi an toàn, một nơi mà ta nóng lòng muốn đến.

Sau khi thu xếp xong quần áo cho Văn Phú, ta bắt đầu chuẩn bị cho mình, ở dưới đáy, trong một cái túi, ta có thể sờ thấy 10 đôi đũa bạc trong số của hồi môn, ta cho tất cả đồ trang sức, chiếc lọ nước hoa màu xanh vào trong một chiếc hộp đựng bánh bích quy rồi phủ quần áo lên trên. Sau đó ta thấy ta chỉ sửa soạn một ít quần áo ấm như thể ta không thể sống sót qua mùa đông vậy. Thật là một ý nghĩ xui xẻo! Đã thế vào phút cuối ta lại bỏ áo len ra, cho vào đấy hai cái áo đầm mùa hè.

Nồi, xoong, những đôi giày cũ đều được cho người nấu bếp, người con gái của bà ta. Còn những thứ khác thì ta nghĩ ra ngay lập tức người mà ta có thể tặng những món này, Vân Betty đang đi trên đường, ta gọi cô ta dừng lại một vài phút.

“Em định đi đâu?” Ta hỏi. “Trở về Nam Sơn quê chồng hả?”

Cô ấy lắc đầu. “Họ không cần em, em cũng không cần họ”, cô nói mạnh mẽ, can đảm. “Em sẽ ở lại đây”.

“Vậy thì hãy mang giúp chị những thứ này nhé”, ta nói. Ta bảo người giúp việc mang quần áo còn lại, radio của Vân Phú, chiếc máy khâu đen nhỏ, ta hướng dẫn ông ta đặt những món này vào chiếc xe vẫn còn đậu trước cửa nhà.

“Em hãy mang những thứ này về nhà”, ta bảo Vân Betty. Sau đó ta nhìn thấy Huê Lan bặm môi nhìn người giúp việc mang cái máy khâu đi. Ta thấy rằng cô ta thèm cái máy khâu ấy làm sao mặc dù chúng ta không có chỗ cho nó.

Vân Betty lắc đầu từ chối, nhưng ta chặn cô ấy lại: “Chúng ta không có thời gian đưa đẩy lịch sự đâu”.

Cô cười, nói, “Vậy thì thôi em sẽ dùng cái máy khâu này để kiếm sống nuôi em, con em”. Cô nắm tay ta xiết chặt. “Đó là một quà ơn nghĩa mà em sẽ mang nợ chị suốt đời”, cô nói. “Thậm chí nếu em có thể trả lại 10 lần, em sẽ vẫn tiếp tục trả nợ chị mãi mãi”.

Ta biết đó là một mong ước may mắn, tốt đẹp. Rằng cả hai chúng ta còn sống, gặp lại nhau, đến đấy cô nhanh chúng lôi một cái gì từ trong ví ra. Đó là bức ảnh có trong ngày cưới, một tấm ảnh rất cải lương chụp cô trong chiếc xoarê xa tanh dài màu trắng, người chồng phi công mặc quần đen áo khoác trắng thắt cà vạt. Đó là những bộ quần áo giống nhau mà người ta mượn từ những tiệm chụp hình đám cưới theo kiểu phương Tây. Ta cảm ơn cô về tấm hình. Ta nghĩ cô thật can đảm khi quyết định ở lại, bởi vì ta nghĩ cô có thể yêu cầu lực lượng không quản đưa cô đi sơ tán.

Bây giờ Gia Huy hét lên, “Lên đường”. Sau đó thì Văn Phú cũng kêu lên tương tự, người giúp việc giục giã lên đường. Chúng ta ném những cái valy vào cái thùng xe đã mở của cái xe tải quân sự, trèo lên thùng xe, cao ngất nghểu. Văn Phú kéo ta lên trong khi Huê Lan đẩy ta lên từ phía sau. “Nhanh lên!” Gia Huy hét lên với cái giọng cao chói lói. Bất thình lình tim ta bắt đầu đập loạn lên, nghĩ rằng chúng ta chưa kịp rời khỏi đây thì quân Nhật đã kéo tới. Mọi người dường như cũng có chung nỗi sợ ấy. “Chúng ta đi thôi!”, mọi người hét lên, “nhanh lên”.

Cái thùng xe tải nhanh chóng bị lấp đầy bởi chín con người, chúng ta là một đám đông đứng ngồi chen chúc chạm cả khuỷu tay vào nhau. Chỉ có ta, Huê Lan là phụ nữ. Ngoài chúng ta, hai ông chồng còn có hai phi công thuộc khóa 3, hai sĩ quan mà mỗi người đều hành xử như mình quan trọng hơn người kia, một ông già trả rất nhiều tiền để đi theo xe, tất nhiên người lái xe, một người mà chúng ta gọi là ông già Mã. Anh ta không già. Đó chỉ là cách gọi trịnh trọng. Anh ta có trách nhiệm đưa chúng ta đến Côn Minh.

Khi ông già Mã hét lên một câu chửi bằng cái giọng khàn khàn thì cũng là lúc chiếc xe khởi động bằng một tiếng gầm ầm ĩ, chúng ta lên đường bỏ lại sau lưng những ngôi nhà đã mất đi vẻ quí phái của nó cũng giống như ngôi nhà mà chúng ta đã ở. Chúng ta quẹo sang đường khác rồi đi về cửa Tây.

Chúng ta quẹo nhiều lần đi vào những con đường nhỏ giấu mình dưới những rặng cây cao. Khi chúng ta bỏ lại thành phố phía sau thì cũng là lúc chúng ta đi qua hồ Hạnh phúc. Thậm chí ngay trong mùa đông nó cũng vẫn đẹp, yên tĩnh, trầm mặc với những đám sậy đung đưa, ngã rạp bên hồ. Dường như nó không thay một chiếc lá nào kể từ triều đại của vị hoàng đế đầu tiên. Ta cũng thấy tiếc là ta đã không đến đây đi dạo để cảm thấy một sự bình yên không bao giờ thay đổi ngấm vào lòng ta. Lúc ấy ta nhìn thấy một đứa bé đứng bên cạnh hồ. Nó đứng xa nhưng chúng ta vẫn có thể thấy nó đang vẫy. Nó nhảy lung tung, kêu lên một cái gì đó. Chúng ta nghĩ nó đã nhìn thấy bộ quân phục không quân, bây giờ đang chào đón những người anh hùng vì thế chúng ta cũng vẫy lại. Nó bắt đầu chạy về phía chúng ta rồi lại nhảy tưng tưng quơ quơ cả hai tay trên đầu. Nó muốn chúng ta dừng lại. Tất nhiên chúng ta không thể dừng lại. Khi xe chạy ngang nó dậm chân bành bạch. Chúng ta nhìn thấy nó nhặt vội hòn đá bên bờ hồ, ném xuống mặt hồ yên tĩnh làm mặt nước vỡ ra xao động. Nó vung tay lên trời, giang rộng như là biểu hiện một sự bùng nổ “bùm” nó hét lên. “Bùm! Bùm!”. Sau đó thằng bé nhặt một hòn đá khác ném về phía chúng ta. Mặc dù hòn đá bị trượt nhưng chúng ta vẫn nghe thấy nó hét, “Bỏ chạy à, quân hèn nhát!”

Chúng ta lái xe về phía cảng sông Dương Tử ở ngay bên ngoài thành phố. Chúng ta được lệnh tới đây để đón một chuyến tàu đến trạm dừng chân trên đường đi Hán Khẩu - Vũ Xương, ở vùng trung tâm của đất nước, một vùng có biệt danh là “Hỏa diệm sơn” - nóng đến nổi có một chuyện đùa về vùng này rằng cách tốt nhất để trốn cái nóng là tắm mình trong một vạc dầu sôi. Nhưng tất nhiên, bây giờ thì không hẳn là như thế, bây giờ đang là mùa đông, đang lúc chiến tranh, chẳng có chuyện đùa gì hết.

Chúng ta ở trên tàu chừng vài ngày có thể là đến một tuần. Ta không nhớ là nó kéo dài bao lâu bởi vì chúng ta đón cả những chuyến tàu khác, đôi khi ta trở nên lẫn lộn.

Dù vậy sau khi chúng ta xuống tàu ở Hán Khẩu - Vũ Xương, chúng ta nghĩ lại một đêm ở khách sạn. Sáng hôm sau chúng ta tìm thấy ông già Mã đã sẵn sàng cho tất cả hành lí lên thùng một chiếc xe tải quân sự cùng một loại mà chúng ta đã đi ở Nam Kinh. Chiếc này tuy vậy vẫn có thêm một cái rơ moóc chở một thùng xăng lớn. Đó là một cách duy nhất để tới Côn Minh. Không có những trạm xăng ở dọc đường. Chúng ta cũng không đi trên những đường cao tốc lớn với vận tốc tối thiểu 70 dặm một giờ. Khi chúng ta rời Hán Khẩu, chúng ta rong ruổi trên những con đường hẹp bụi bẩn, chỉ có hai làn xe, đôi khi chỉ có một làn xe. Chúng ta đi với vận tốc 20 dặm một giờ, bởi vì đó là vận tốc nhanh nhất của xe này vì thế nếu như có bất cứ một tên Nhật nào trên đường, tất cả những việc hắn có thể làm là đuổi theo xe tải và tống chúng ta xuống.

Ngày đầu tiên ta lo lắng rằng chúng ta bỏ chạy chưa đủ nhanh. Ngày thứ hai ta vẫn còn hơi lo lắng. Nhưng sau đó, ta quên đi nỗi sợ hãi của mình, ta trở nên buồn chán. Chúng ta đi sâu vào hậu phương, cách xa cuộc chiến. Cũng giống như đi ngược lại thời gian, đến một thế giới khác, một nơi đã xảy ra trong quá khứ, trước chiến tranh. Không một ai trong chúng ta bận lòng về điều đó. Chúng ta sẽ an toàn. Trên con đường hướng về phía tây đến Trường Sa, chúng ta đi dọc theo bờ sông, qua những xóm làng với nhiều đường mương nhỏ chằng chịt chảy qua, ở một nơi chúng ta nhìn thấy cá dầy đặc trong dòng nước - Huê Lan nói trông nó giống như một tô súp đặc. Ở cái vùng lạc hậu, nghèo nàn này, con không thể nghĩ là Trung Quốc đang có chiến tranh với những kẻ ngoại bang. Dân ở đây không biết đến báo chí. Họ không biết đọc. Mặc dù chiến sự đã bắt đầu, những người ở đây không nghĩ là mảnh đất của họ đáng cho kẻ khác giành giật. Họ chẳng có thời gian để lo lắng về bất cứ cái gì ngoại trừ giá gạo, giá thóc giống cho vụ mùa năm tới, làm thế nào họ có thể tồn tại khi hết tiền.

Dọc đường chúng ta không gặp bất cứ một tên Nhật nào. Kẻ thù duy nhất của chúng ta là một thân cây đổ nằm chắn ngang đường, một ổ gà lớn giữ bánh xe của chúng ta lại, những sự việc đại loại như thế.

Một lần có một con heo nhất định không chịu tránh đường, ông già Mã nhấn còi nhiều lần, từ từ lái về phía trước, ủi con heo với cái chắn bùn, nhưng con heo quay lại húc đầu tấn công cái xe như thể cái xe cũng là một con heo. “Oa!” chúng ta cười đau cả bụng. Hồi Văn Phú nói hắn có cách giải quyết vấn đề. Hắn nhảy xuống xe, lôi khẩu súng ra khỏi bao quàng ngang ngực.

“Đừng bắn nó”, ta gào lên, “nó sẽ đi ngay thôi”. Nhưng Văn Phú đâu có nghe ta hắn bước lại chỗ con vật lúc này đang dí mũi vào cái bánh xe. Huê Lan nhắm mắt lại. Gia Huy nói, “Hắn chỉ đùa thôi”. Còn Văn Phú nhắm bắn về phía con heo. Tất cả chúng ta đứng lên nín thở, cũng giống như con heo ấy. Đôi tai dỏng lên, cái đuôi cứng ngắc chỏng lên trời, nó quan sát Văn Phú với đôi mắt cảnh giác.

Bất thình lình một ông già chạy từ bên đường tới kêu lên, “Thế là mày ở đây đấy, cái con vật thối tha kia”, ông già chạy đến vung vẩy ngọn roi có một núm tua rua. “Con heo xấu xa!” ông nựng nó, “tới đây con vật xấu xa”. Ta nhẹ cả người, thở dài nhẹ nhõm. Tất cả chúng ta phá ra cười, nhưng đúng lúc đó Văn Phú đã quay lại phía con heo bóp cò chỉ một phát đúng vào giữa bụng. Con vật đáng thương rống lên, máu túa ra. Nó chạy loạng choạng sang bên kia đương rồi lăn xuống một cái rãnh chổng bốn vó lên trời.

Miệng há hốc, ông già chạy lại nhìn con heo, rồi đập cái tua rua xuống đất trước khi giơ lên chỉ vào mặt Văn Phú, “Mày có phải là một con quỷ điên khùng không?” ông già gào lên. Văn Phú cau mày, đoạn nhắm khẩu súng về phía ông già, đôi mắt ông mở to như hai đồng xu. “Này” Gia Huy đứng dậy hét, “Dừng lại!” Văn Phú hạ súng xuống, nhếch mép cười với Gia Huy. “Tất nhiên tôi chỉ đùa thôi” hắn nói, bỏ súng vào bao rồi nhanh nhẹn trèo lên thùng xe. Nhưng ta có thể cảm thấy mọi người xung quanh ta sợ hãi như thế nào, không ai mở miệng suốt ngày hôm ấy. Tới Trường Sa chúng ta đi qua những ngọn đồi tới những thửa ruộng bậc thang trồng lúa. Đó là nước Trung Quốc mà người Mỹ các con thường nhìn trên phim ảnh, một vùng quê nghèo nàn, dân quê đội những chiếc nón rộng vành để tránh nắng. Không, ta không bao giờ đội những cái nón như thế. Ta là người Thượng Hải. Một cái nón như thế, cũng giống như ý nghĩ một người ở San Francisco, đội nón cao bồi và cưỡi ngựa. Thật lố bịch!

Dù sao dân ở vùng này rất giản dị, trung hậu, và thân thiện nữa. Ban ngày chúng ta dừng lại ở một làng nhỏ, bọn trẻ con lập tức vây quanh nhìn không chớp mắt. Tuy vậy chúng không bao giờ chạm vào khách hoặc hỏi han gì cả. Người giúp việc sẽ mua đồ ăn cho chúng ta ở những quán ven đường. Đó là những món ăn địa phương vừa được nấu xong - một tô mì dương - dương hoặc là mỡ heo hầm với bắp cải. Một lần chúng ta còn được ăn món đậu hũ chiên với tiêu cay sè tuyệt ngon, món ăn ngon nhất mà chúng ta nếm trong vòng 200 dặm. Khi đêm đến, chúng ta nhanh chóng tìm một chỗ nghỉ trên chặng thiên lí vì đường đi rất tối, một người lái xe gà gật sẽ dễ dàng lao xuống ruộng, cũng giống như Văn Phú đã làm với chiếc xe nhỏ của hắn ở nghĩa trang. Vì thế khi trời lặn chúng ta cũng nghỉ, đó là khi chúng ta chiêm nghiệm sự may mắn của chúng ta là gì.

Một lần nó nằm ở một chỗ trú ẩn dễ thương, một khách sạn đơn giản với những cái giường sạch, phòng tắm dùng chung. Một lần khác nó là một cái mái che trên đầu, một ngôi trường hoặc là một trạm y tế trên đồi. Lần khác đó là những thanh gỗ dựng lên trong chuồng heo, suốt đêm những con vật đáng thương này cứ hằm hè ỉn ỉn ở bên ngoài, cố gắng đuổi cổ những kẻ chiếm nhà.

Chúng ta không kêu ca gì. Người Trung Quốc biết cách phù hợp với hầu hết ngoại cảnh. Hoàn cảnh xuất thân của con giàu hay nghèo không thành vấn đề nữa. Chúng ta luôn luôn ý thức được rằng tình cảnh của chúng ta thay đổi từng phút từng giờ. Con thật may mắn được sinh ra trên đất nước này. Con không phải lo lắng về điều đó.

Trên những chặng đường tao loạn, chúng ta đi qua đủ các vùng đất của những người dân tộc với những chiếc nón bẩn thỉu đội trên đầu. Họ chạy ra chỗ chiếc xe, cố gắng chèo kéo bán đồ cho chúng ta, thuốc lá, diêm, một cái li làm từ hộp thiếc, những món đồ linh tinh như vậy. Khi họ mời chào những món ăn ngon nhất, hảo hạng nhất thì điều mà con nên làm là nhìn chằm chằm vào hai miếng thịt khô nằm trên chốc bát cơm, tự hỏi không biết nó là từng là thịt con gì?

Ta nhớ cuối cùng chúng ta cũng đến thành phố lớn Quế Dương. Chúng ta ở lại đây vài ngày để người ta có thể sửa lại xe, lấy thêm xăng cho một chặng đường dài đầy khó khăn đến Côn Minh. Văn Phú biết một câu thành ngữ về Quế Dương, một câu đại loại như thế này “Trời không bao giờ có ba ngày đẹp, đất không dầy quá ba phân.” Đó là bởi vì mưa thối trời thối đất. Thành phố lổn nhổn những tòa nhà, những con đường lên lên xuống xuống như vẩy rồng. Đằng sau thành phố là những đồi núi đá sắc nhọn đứng sừng sững trông như những người thượng cổ đứng im không nhúc nhích.

Mọi người ra khỏi xe, mệt đừ sau một ngày dài rong ruổi trên đường. Ông già Mã chỉ vào một quán ăn bên kia đường nói rằng chúng ta có thể ăn cơm ở đây trong khi anh ta tìm cho chúng ta một cái khách sạn. Thế là chúng ta bước sang đường. Ngay trước cửa nhà hàng chúng ta nhìn thấy một thùng gỗ khổng lồ. Nhìn vào trong chúng ta thấy lúc nhúc lươn trắng vẫn còn sống, đang bơi lội. Ở Thượng Hải, món này rất hiếm, cực đắt. Ở đây chúng ta biết được rằng lươn trắng nhiều đến nổi có thể gọi nó như một món ăn thông thường - sáng, trưa, tối.

Người đầu bếp thọc cái vợt vào thùng, vớt lên những con lươn trơn trượt, hỏi chúng ta. “Tươi hỉ?” Đêm ấy chúng ta xơi mất mấy đĩa lớn cao có ngọn thịt lươn xắt khúc dầy như ngón tay. Chúng ta đồng ý với nhau rằng đây là bữa ăn ngon nhất từ trước đến nay. Vì thế khi ông già Mã nói rằng anh ta đã tìm cho chúng ta một khách sạn hạng nhất trong thành phố, thì chúng ta nghĩ ngay đến một cung điện.

Để ta nói con nghe, nó thật sự kinh khủng - mông muội, bẩn thỉu. Khi ta hỏi buồng tắm ở đâu họ nói “bên ngoài”. Ta đi ra ngoài không có buồng tắm, không có nhà cầu, thậm chí không có một bức màn che. Khi họ nói bên ngoài thì có nghĩa là bên ngoài vậy thôi - một chỗ vô cùng bẩn thỉu nơi mà việc làm vệ sinh của mọi người diễn ra ngay trước mắt con. Ta có thể cười về điều đó lúc này, nhưng hồi ấy ta tự nhủ, chẳng thà ta nhịn còn hơn. Ta trở về phòng, nhịn cho đến lúc ta gần như xịt cả ra ngoài. Nước mắt, mồ hôi chảy thánh thót trên mặt ta. Thật thế, ta đợi thật lâu cho đến lúc ta buộc phải ra bên ngoài.

Bên trong khách sạn cũng tồi tệ như thế. Họ dùng đủ thứ để làm nệm - những cọng rơm bẩn thỉu vẫn còn lổn nhổn đá dăm, lông gà, những thứ mà con cũng chẳng thể hình dung là cái gì. Vỏ nệm vừa mỏng vừa chưa từng nhúng vào nước nóng để làm chắc những thớ vải vì thế đối với những con rận việc trốn vào trong tấm nệm dễ dàng như là đi qua một cái cửa mở. Suốt đêm chúng bò ra để hút máu mủ trong khi chúng ta đang ngủ. Thật đấy ta nhìn thấy chúng trên lưng Văn Phú. Ta bảo hắn, “Vết gì thế này, chỗ này, giống như những chấm ban đỏ.”

Hắn với tay ra sau chạm vào mấy con rận rồi la “oai oái”. Hắn nhảy cà tưng, đập vào lưng cố rũ cho rận rơi xuống. Ta cố gắng nín cười. Cuối cùng khi hắn bình tĩnh lại, ta giúp hắn bắt những con kí sinh trùng, nơi miệng chúng cắn vào bây giờ có những vết đỏ thẫm dưới da. Đến lượt Văn Phú hét lên rằng ta cũng có một con trên gáy. Ta cũng bắt đầu nhảy, kêu la, hắn cười vang chỉ cho ta cái mà hắn bắt được sau đó lấy móng tay giết. Những con rệp hôi thối! Cái mùi mới kinh khủng làm sao!

Ngày hôm sau, ta nghe mọi người đều có vấn đề tương tự. Trong bữa ăn sáng chúng ta than phiền với ông Mã một cách đùa cợt. Sau đó Gia Huy vào phòng thông tin mới nhận được. Quân Nhật đã chiếm thủ đô: Nam Kinh bây giờ bị phong tỏa hoàn toàn. Anh ta không bảo cho chúng ta biết là người ta có kháng cự hay không, dân chúng có được bọn xâm lược đối xử như đã hứa hay không. Không ai biết điều gì đã xảy ra.

Ta nghĩ về Vân Betty, những lời mạnh mẽ của cô. Liệu cô có cúi đầu chịu thua trước bọn Nhật? Ta chắc rằng những người kia cũng có những suy nghĩ tương tự mặc dầu trong chúng ta không ai nói về những cảm xúc của mình. Chúng ta yên lặng, không ai còn than phiền về cuộc sống của chúng ta ở Quế Dương nữa, thậm chí dù chỉ là đùa cợt.

Sau khi rời Quế Dương chúng ta đi lên cao hơn về miền sơn cước. Huê Lan và ta ngồi nhìn ra những vùng đồi núi lặng lẽ. Chỉ nhìn những vách đá dựng đứng cũng đủ làm cho chúng ta cảm thấy chúng ta đã muốn lộn nhào xuống đất. Con đường ngày càng trở nên nhỏ hẹp hiểm trở hơn. Mỗi lần xe gặp phải chướng ngại vật hoặc một cái hố và chúng ta lại kêu lên, “Oa,” sau đó chúng ta cười khúc khích rồi lấy tay bịt miệng. Tất cả chúng ta đều ngồi trên thùng xe này tưng tưng trên những chiếc vali, cố gắng vịn vào một cái gì đó để chúng ta không dễ dàng trượt ngã, đập lưng xuống sàn.

Lâu lâu ông già Mã để ta ngồi phía trước với anh ta bởi vì ta đang có bầu. Anh ta không nói lí do. Anh ta không bao giờ đưa ra một lí do nào với bất cứ ai. Anh ta sẽ nhìn mọi người vào mỗi buổi sáng trước khi lên đường, khi anh ta gật dầu với ai thì điều đó có nghĩa là người ấy được ngồi trong khoang lái.

Trên đường đi ông già Mã trở thành người có quyền nhất trong nhóm chúng ta, giống như một vị hoàng đế. Cuộc sống của chúng ta tùy thuộc vào anh. Tất cả chúng ta đều biết rằng cái ghế phía trước được coi như một vương miện. Nó có một cái nệm, nếu con mệt con có thể duỗi chân dài phía trước, ngã đầu ra phía sau mà ngủ. Nó không giống như ở thùng sau của xe tải nơi mọi người bao giờ cũng phải tranh nhau một vài phân để tránh đầu gối người khác thúc vào mình. Một cơ hội được ngồi lên phía trước. Ngoài ra tất cả mọi thứ khác thậm chí cả những thứ trong valy đều là vô giá trị. Tất nhiên, chúng ta có nhiều lí do đưa ra để chúng ta được ngồi phía trước. Người ta nói về những lí do này trong bữa ăn vì biết ông già Mã lắng nghe, một ông già than phiền về chứng viêm khớp, một người khác bị bệnh ở Quế Dương không lây nhưng anh ta vẫn còn yếu lắm. Một người khác ngụ ý nhiều lần rằng anh ta là một sĩ quan quan trọng như thế nào. Gia Huy thú thật rằng anh ta là một phi công cao cấp một đội trưởng vừa mới được bổ nhiệm. Huê Lan hết lời khen ngợi sự nhanh trí của ông già Mã trong khi lái. Còn Văn Phú đưa cho anh ta những bao thuốc lá hoặc là mời anh ta chơi những ván bài mà ông Mã bao giờ cũng thắng.

Vào ban ngày đường lên núi bao giờ cũng đông nhưng không phải vì xe cộ, không có phương tiện giao thông ở đây, chỉ có những bọn trẻ con với bao gạo lớn trên lưng hoặc một người đàn ông đi bên cạnh cái xe bò kéo hoặc là dân làng với những cái quán dựng tạm để buôn bán. Khi họ nhìn thấy chúng ta đi tới họ sẽ đứng ép sát vào chân núi để nhường lối cho chúng ta qua, nhìn chúng ta không chớp mắt sau đó nhìn xuống con đường mà từ đó chúng ta xuất hiện.

“Bọn Nhật sẽ tới đây sớm đấy,” Văn Phú đùa với họ. Và những người dân đáng thương này cảm thấy sợ hãi. “Chúng còn cách đây bao xa?” một ông già hỏi. “Không có gì phải lo lắng về điều đó,” Gia Huy kêu lên với họ “y chỉ đùa thôi, không có ai tới đâu.” Nhưng dân làng hành động như họ không nghe thấy Gia Huy. Họ vẫn nhìn xuống dưới đường.

Rồi một đêm ông già Mã dừng xe ở một bên đường, nhảy xuống, bảo chúng ta không có người dân nào đến đây trong vài giờ nữa. “Chúng ta sẽ ngủ ở đây”. Anh ta nói thế, nằm dài trên cái ghế tài xế không thảo luận thêm gì nữa. Con không thể nói là con đường chấm dứt ở chỗ nào cũng như chỗ nào là vách đá, chỗ nào là bầu trời. Không ai dám đi quá xa chiếc xe. Chẳng mấy chốc, bọn đàn ông đã làm một cái bàn nhỏ từ những chiếc valy chồng lên nhau, họ bắt đầu đánh bài dưới ánh sáng của một ngọn đèn cầy. Đứa bé trong bụng ta bây giờ đã nặng lắm, ta thường cảm thấy nhức nhối mỗi khi lê chân bước đi. “Tôi phải đi vệ sinh một chút chị có đi không?” Ta hỏi Huê Lan, cô ấy gật đầu. Thế là ta nghĩ ra một cách rất khôn ngoan. Ta cầm tay Huê Lan bảo cô ấy đi theo ta, tay kia ta lần theo sườn núi với những vách đá. Trong khi ta lần tay theo sườn núi, chúng ta rời xa khỏi những người đàn ông đến một chỗ khuất, tại đây cả hai chúng ta đều đi vệ sinh. Ta đã thay đổi nhiều kể từ khi Huê Lan và ta gặp nhau lần đầu tiên - ta đã không ngượng ngùng về những vấn đề này nữa, không phải như cái kiểu ta hành động trong nhà tắm ở Hàng Châu, cảm thấy mệt, chúng ta tựa vào vách núi nhìn lên bầu trời. Chúng ta không nói gì trong vòng vài phút, không cần một ngôi sao sa trên bầu trời.

Bỗng Huê Lan phá tan im lặng, “Một lần mẹ em chỉ cho em những vị thần tiên của bầu trời đêm. Bà nói trông họ rất khác nhau tùy thuộc vào đường đi của các vì sao. Đôi khi có thể nhìn thấy trước mặt, đôi khi nhìn thấy sau gáy.” Ta chưa từng nghe những chuyện như vậy. Ta không chắc điều này có đúng ở trong vùng cô ở hay không, vì thế ta chỉ hỏi, “Loại nào?”

“Ồ em quên bẵng mất rồi,” cô ta buồn rầu nói, lại lặng im. Sau một vài phút cô ta đột nhiên nói. “Em nghĩ có thể một trong những vị thần có tên là cô gái rắn. Nhìn kìa, trông nó không giống một con rắn với một đôi mắt đẹp trên đầu à? Còn cái này nữa với một đám mây lớn trôi qua em nghĩ đó là thiếu nữ chăn bò trên thiên đình.” Ồ ta đã nghe chuyện này. “Người con trai mới là người chăn bò, cô ấy là cô gái vẫy tay,” Ta sửa lại “một trong bảy cô con gái của ông Táo.”

“Có lẽ thế hoặc giả em nhớ đến chị của người chăn bò.” Ta không cãi lại, Huê Lan nhớ hay quên hoặc là cô ta bịa ra cũng không thành vấn đề. Ta quá mệt, ta để cho đầu óc ta lang thang, ta cùng nhìn lên những ngôi sao trên bầu trời. Ta tìm thấy một ngôi nhà mà ta gọi là người yêu ngỗng bị xa cách, một cái nữa ta đặt tên là người đàn bà chết đuối với mớ tóc xõa ra, sau đó chúng ta bịa ra những câu chuyện theo những hình tượng đó, những câu chuyện bao giờ cũng được bắt đầu bằng câu ngày xửa ngày xưa, tiếp theo là nơi chốn, dựa theo kí ức của tuổi thơ. “ở vương quốc kia có một nữ hoàng với một cái đầu ngừa hoặc ở mắt của ngọn núi thiên đàng”.

Ta không nhớ những chuyện này một cách chính xác, chúng rất ngớ ngẩn, những câu chuyện của Huê Lan còn ngớ ngẩn hơn nữa. Chuyện của cô ta bao giờ cũng kết thúc với kết cục nhân vật chính bất ngờ cưới một con vật xấu xí, con vật này cuối cùng hóa ra lại là một công chúa xinh đẹp, tốt bụng. Ta nghĩ những câu chuyện của ta liên quan đến những bài học mà ta học được trong trường đời - không ăn quá nhiều, không nói quá to, không lang thang ban đêm một mình. Dù sao thì bao giờ chúng cũng nói về những người rời khỏi mặt đất bay lên bầu trời bằng cách thức khôn ngoan của họ. Mặc dầu, ta không còn lưu những hình ảnh đẹp đẽ trong đầu, ta vẫn nhớ cái cảm giác của tình bằng hữu khi chúng ta nhìn lên bầu trời.

Chúng ta đã bám lấy những điều nhỏ nhặt như thế đấy - một câu chuyện tưởng tượng, một ngôi sao xa xôi đã trở thành một cái gì gần gũi hơn trong lòng chúng ta. Suốt chặng đường, chúng ta tìm thấy những dấu hiệu của một sự mãn nguyện của tự nhiên, một sự bình yên không bao giờ thay đổi. Chẳng còn gì khác để nhìn ngắm. Một lần chúng ta nhìn thấy một con chim đậu trên lưng một con bò đang gặm cỏ. Chúng ta hình dung chúng là một đôi bạn một nhỏ, một to mãi mãi bên nhau. Một lần chúng ta nhìn thấy một thằng bé gầy dơ xương ở trong làng vẫy chúng ta với một nụ cười thân thiện, không giống như thằng bé ở bên Hồ ngoại ô Nam Kinh, nó cũng khôn ngoan nữa - nó gợi chúng ta nhớ đến những cậu em họ của chúng ta, những đứa mà giờ đây trong ký ức của mình chúng cũng trở nên ngoan ngoãn. Ngày ấy chúng ta cảm thấy có gì trong tim làm cho chúng ta quên hết thảy những khổ đau chúng ta đã trải qua, có những khó khăn chưa biết vẫn còn nằm phía trước.

Chúng ta nghĩ đêm tại một làng có tên gọi là Hai mươi bốn sự đổi thay. Nơi bắt đầu của một đoạn đường đèo qua núi. Một dân làng nói rằng tốt nhất là nên qua đèo ngày hôm ấy, bởi vì ngày hôm sau một chiếc xe quân sự sẽ đi qua từ hướng khác, bắt đầu từ một làng trên đỉnh đèo tên là Hơi thở của Thiên Đường. Nếu chúng ta gặp họ đi lên thì thật là tai họa. Không có chỗ cho hai chiếc xe quân sự tránh nhau. Xe của chúng ta đang xuống dốc, sẽ phải chạy giật lùi một đoạn dài cho đến khi chúng ta tìm được một chỗ tránh. Điều đó thật nguy hiểm: Nếu lái xe của chúng ta mất tập trung hoặc thậm chí chỉ phạm một sơ suất nhỏ thế là lộn xuống vách đá, đi đời nhà ma!

“Còn bao nhiêu dặm trước khi chúng tôi kết thúc 24 thay đổi này?” ta hỏi một người dân sở tại. Người này cười, “không phải 24 cái cùng một lúc cô chủ trẻ ạ,” ông ta nói. “Có thể là 24 trong mỗi dặm. Phải, một người phải đi 48 dặm trước khi đầu, bụng hắn thôi không quay mòng mòng. Nhưng các cô chú phải để ý đến bóng ma của thiếu phụ áo trắng. Bà ta thích kéo mọi người ra khỏi con đường buộc họ ở lại lâu hơn, uống với bà 10 ngàn tuần trà. Đó là trà bất tử chúng tôi gọi nó như vậy. Nếu cô uống một ngụm, cô sẽ không bao giờ muốn rời ngôi nhà mây của bà, có thể cô sẽ quên đường về!”

Người đàn ông này có một khiếu hài hước thật kinh khủng! Những câu đùa sẽ thu hút hiểm họa! Ta không hiểu tại sao mọi người đều cười kể cả Huê Lan. Khi chúng ta bắt đầu qua đèo ngày hôm ấy con có thể nhìn thấy những đám mây lững lờ trôi trên đầu gió hú lên từng cơn dài “u u u” rồi lại im lặng. Chúng ta quấn chăn thật chặt quanh người, chiếc xe bắt đầu leo dốc. Sau 24 khúc cua thứ nhất, chúng ta đã ở ngay dưới những làn mây mỏng gió gào thét mạnh hơn. Sau 24 khúc quẹo nữa mây đã quấn ngang người chúng ta, đặc như sữa, rồi bất chợt cả thế giới biến thành màu trắng, lái xe của chúng ta hét lên rằng anh ta không thể nhìn xa được. Chiếc xe dừng lại. Mọi người nhảy xuống, trừ ta, miệng lầm bầm, “Thật lạ lùng!” Ta nghe giọng Văn Phú hét lên, “Sao chúng ta lại dừng lại? Không nghe người đàn ông nói gì ư, tiếp tục đi thôi!”

Ta nhìn Văn Phú, cái lỗ đen ngòm trong miệng hắn đang gào lên trong gió. Ta nhìn những người khác khuôn mặt họ mờ ảo sau lớp sương mù giống như mây, rất đẹp nhưng cũng rất đáng sợ. Ta tự hỏi có phải họ đã chết, chỉ mình ta biết điều đó. Ta nhìn xuống, không thấy con đường phía dưới.

“Cái gì sẽ đến với chúng ta đây?” ta gào lên. Những âm thanh dường như biến mất ngay khi nó được phát ra. Một lần nữa, ta lại có cảm giác là chúng ta đã chết. Ta tưởng tượng tiếng nói của ta chìm vào trong đám mây đầy những lời oán thán bi thương của những con ma cho đến khi những đám mây nặng hơn chúng rơi xuống thành những giọt nước mắt, giọt mưa.

Sau đó Huê Lan trèo trở lại thùng xe đặt phịch cái mông xuống một chiếc valy, ta biết rằng chúng ta chưa chết bởi vì một con ma thực sự không vụng về đến thế.

“Cũng giống như câu chuyện mà em đã kể cho chị.” Cô ta nói về cô gái chăn bò của thiên đình. “Đó là sữa của những con bò trên thiên đình đổ xuống từ bầu trời”. Ta tự nhủ một con ma thật không bao giờ nói những điều ngu xuẩn như thế.

Cô ta mở valy của mình, thọc tay vào bên trong cho đến khi cô ta lôi ra một cái gì trông như một cái áo cưới màu đỏ kiểu cổ, cô ta làm cái gì thế vậy? Cô ta ném cái áo cho Gia Huy. Anh này rất bình tĩnh ra lệnh cho mọi người quay trở lại thùng xe ngay. Bây giờ ta có thể thấy Huê Lan bắt chước sáng kiến của ta mấy đêm trước. Gia Huy lần một tay theo sườn núi, sự thô ráp của nó cho anh biết rằng anh vẫn chạm vào thế giới thực. Tay kia anh cầm cái áo màu đỏ để nó bay phần phật trong gió làm cờ hiệu cho người lái xe có thể đi theo Gia Huy. Chiếc xe bắt đầu chuyển bánh rất chậm, nhưng ít nhất thì chúng ta cũng bắt đầu chuyển động. Nữa tiếng sau Gia Huy trèo trở lại thùng xe ướt sũng, kiệt sức sau cái lần lên dốc. Văn Phú thay thế anh, tiếp theo sau hắn là một phi công khác cho đến khi từng phân từng phân một, bầu trời trên đầu chúng ta trở nên sáng hơn, những đám mây mỏng hơn, có một màu xanh nhạt, chúng ta không cần đến cái váy cưới màu đỏ để vượt qua những hiểm nguy trên đường.

Chúng ta tiếp tục cua quẹo, bò lên - qua rất nhiều những khúc cua gấp mà con không thể thấy được cái gì phía trước hoặc là một khúc đường cong khác, cho đến khi cuối cùng chúng ta hoàn toàn ra khỏi gió, mây. Tất cả chúng ta vừa thở hổn hển vừa ngạc nhiên làm sao - sau đó thì thở dài xao xuyến bởi vì bây giờ chúng ta đang ở một nơi mà con chỉ có thể đọc được trong những câu chuyện cổ - chín tầng trời xanh biếc trên đầu, mây trắng quần dưới chân, tất cả những vấn đề lớn nhỏ trên đời đều bị bỏ lại phía dưới.

Suốt cả buổi chiều còn lại chúng ta đi lang thang trên những đỉnh núi này, cao cao trên những đám mây lòng thơ thới. Chúng ta giống như những người đã chết, biến thành những vị thần bất tử, hạnh phúc, cường tráng khôn ngoan, tốt bụng.

Người đàn ông bị ốm ở Quế Dương bây giờ nói là anh ta cảm thấy rất khỏe, ông già bị chứng viêm khớp giơ tay lên tuyên bố ông ta cảm thấy khá hơn trước rất nhiều. “Nơi này giống như một mùa xuân thần kì mà tôi từng gặp,” Huê Lan nói, “có thể chữa lành được mọi thứ. Nó giải phóng những năng lực bên trong mà anh cũng không biết là mình có.” Đó lại là một kiểu chuyện ngu ngốc nào đó mà cô ta kể ở Hàng Châu nhưng bây giờ mọi người đều đồng ý với cô, kể cả ta. Không chỉ có Huê Lan giải bày những cảm xúc của mình, ta thấy cả Văn Phú cũng phơi bày một góc trong tâm hồn hắn mà ta còn chưa biết.

“Thế này cũng giống như là bay ấy,” hắn bảo ta. “Đó là một niềm vui, nhìn xuống, thấy những đám mây phía dưới - điều tốt đẹp nhất. Thỉnh thoảng anh hạ cánh trên ngọn những đám mây sau đó lại trở về với ánh nắng mặt trời, giống như là bơi trên những ngọn sóng bạc đầu ấy.” “Thật thế à? Bao giờ cũng thế à?” ta sốt sắng hỏi với một giọng đầy hứng khởi. “Thật thế. Bao giờ cũng như thế,” hắn nói, “đôi khi anh vô cùng hạnh phúc anh hát to lên.” Ta cười trong khi hắn cất tiếng hát - bài nhạc kiểu vui nhộn mà hắn đã hát, khi ta gặp hắn lần đầu tiên gần một năm về trước, ở sân khấu làng. Ta ngạc nhiên khi nhận ra giọng hát của hắn rất tốt. Bây giờ thì cả thế giới nghe tiếng hát của hắn, hắn đang hát cho ta nghe. Cái ngày hôm ấy ở trên núi, ta nghĩ con có thể đoán ra cảm xúc của ta. Thật may mắn khi đã được ở đây. Thật may mắn khi có những người bạn này. Thật may mắn khi có chồng bên cạnh. Trái tim ta ngập tràn hạnh phúc cho đến khi nó nhức nhối vì có quá nhiều xúc cảm, ta quên mất rằng ta sẽ phải rời chốn này. Chúng ta đến cái làng trên đỉnh, cái làng có tên Hơi thở của thiên đình. Ở đây, chúng ta đồng ý sẽ dừng lại sớm, ở lại suốt đêm. Cớ sao không làm cho cái cảnh thần tiên này kéo dài hơn. Sau đó chúng ta nhìn thấy một cái xe quân sự đang đi lên từ phía bên kia dốc. Nó đã ở đây, sẵn sàng đi xuống con đường mà chúng ta vừa đi. Tại sao không khoác lác với họ về những cảnh thần tiên mà chúng ta đã chứng kiến. Chúng ta sẽ bảo họ trước những cái gì phải nhìn ngắm. Chúng ta vội vã ra khỏi xe. Văn Phú nhấc bỗng ta lên nói đùa rằng ta bự như hai người vợ. Ta chẳng để tâm. Chúng ta bỗng trông thấy những người lính đang ngồi trên mặt đất, lặng lẽ âm thầm. Ngay khi nhìn thấy khuôn mặt họ, chúng ta biết rằng những người đàn ông này chẳng có bụng dạ nào nghe câu chuyện vui vẻ của chúng ta. Họ kể cho chúng ta nghe họ đang trên đường tới Trung Kinh góp một tay xây dựng thủ đô mới vì những điều đã xảy ra ở cố đô. Sau đó chúng ta biết những điều chúng ta không biết ở Quế Dương, những tin tức về Nam Kinh.

Ai mà biết được tại sao bọn Nhật bội ước? Có thể có ai đó đã ném đá vào chúng, có thể có ai đã từ chối cúi đầu trước mặt chúng. Có thể bà già đã cố ngăn người bên cạnh, la hắn. “Hãy cư xử tử tế! Anh muốn chúng ta gặp rắc rối à?”

“Chúng nói láo,” một trong những người ngồi ở dưới đất nói. “Hãm hiếp người già, phụ nữ có chồng, cả những đứa con gái nhỏ, hết thằng này đến thằng khác hết lượt này đến lượt khác. Giết chết họ bằng gươm sau khi đã hãm hiếp xong. Chặt những ngón tay họ để lấy nhẫn. Bắn tất cả bọn con trai để diệt cỏ tận gốc. Hiếp 10 ngàn người, chặt đầu 20, 30 ngàn người, không còn con số lớn hơn, không còn người sống nữa.”

Ta hình dung tất cả những điều đó trong đầu. Bà già nấu bếp cho chúng ta, Vân Betty, thằng bé ném đá bên hồ. Ta nghĩ, những điều này đã xảy ra khi chúng ta có chuyện vui buồn, trong khi ta ca thán về việc di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Ta nghe nói rằng không còn nguy hiểm cho ta tuy ta có biết bao nhiêu âu lo và sợ hãi trong lòng mà ta không thể tin được ta bảo người lính, “Chuyện đó không thể là sự thật. Chỉ là lời đồn đại thôi.”

“Thì cứ tin như thế nếu chị muốn,” y nói, nhổ toẹt xuống đất.

Sau này ta biết rằng ta đã đúng, những điều người lính nói chỉ là những lời đồn thôi. Bởi vì con số những người chết còn cao hơn rất nhiều lần. Một sĩ quan nói với ta rằng có thì có 100 ngàn người chết, mặc dù ta cùng chẳng rõ làm thế nào mà anh ta biết được? Ai có thể đếm được ngần ấy người trong một lúc. Họ có đếm được bao nhiêu xác người bị đẩy xuống sông không? Thế còn tất cả những người nghèo không bao giờ được tính đến cả khi họ còn sống thì sao?

Ta cố hình dung về điều này. Sau đó lại cố tống những ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Điều đã xảy ra ở Nam Kinh, ta không thể nói như là nổi bất hạnh của chính ta. Ta đâu có bị ảnh hưởng gì, ta đâu có bị giết. Tuy vậy nhiều tháng sau ta vẫn mơ những giấc mơ dữ. Ta nằm mơ chúng ta trở lại Nam Kinh kể cho bà bếp, Vân Betty về phong cảnh tuyệt vời ở làng Hơi thở của thiên đình, khoác lác về những món ăn ngon ở Quế Dương mà chúng ta đã xơi. Bà bếp thủng thẳng nói, “Các chị đâu có cần bỏ Nam Kinh đi để nếm những món ăn ngon lành đó. Chúng tôi cũng có những điều ấy ngay tại Nam Kinh này.”

Ngay trước mặt ta bà để ra một đĩa đầy những con lươn trắng, đầy như ngón tay, chúng vẫn còn sống, cố gắng bơi ra khỏi dĩa của ta.

Helen nói rằng có một nhà hàng vừa mới khai trương - họ cũng có đúng cái loại lươn ấy, nấu với tía tô, dầu cay. Dì ấy muốn chúng ta đến ăn thử xem họ nấu có ngon lành không. Nhưng ta từ chối. Ta chẳng còn hứng thú gì với cái loại lươn này nữa. Lưỡi ta cũng chẳng còn ham thưởng thức những món ngon vật lạ như ngày xưa. Ví dụ, ta không ăn cần tây nữa. Vậy mà cả đời ta đã thích cần tây. Bây giờ vừa ngửi thấy mùi cần tây ta đã tự nhủ là không. Ta không nhớ cái gì đã làm cho ta không thích nó nữa. Nhưng còn những con lươn này thì ta biết, con biết tại sao vài kỉ niệm chỉ sống trong lưỡi hoặc mũi con, lại có những kỉ niệm khác lại sống trong tâm không?