← Quay lại trang sách

Chương 14 MẮT HỎNG

Bây giờ ta sẽ nói con nghe khi nào thì tất cả những vận may của ta thay đổi, từ chỗ xấu đến xấu hơn, rồi nói ta nghĩ xem đó có phải lỗi của ta không.

Lúc đến Côn Minh thì ta đã có bầu bảy tháng, bụng chè bè ra với một đứa bé mà ta nghĩ sẽ chui tọt ra ngoài mỗi khi xe tải vượt qua một ổ gà. Chúng ta đã ra khỏi vùng núi, người tài xế xem ra rất vội vã. Anh ta phóng nhanh trên con đường đồng bằng, còn ta thì hai tay ôm bụng mỗi khi chúng ta xô nghiêng ngã vào nhau. “Này,” Gia Huy hét lên với ông già Mã, “nếu anh phóng nhanh hơn một chút nữa thì anh đưa thẳng chúng tôi xuống địa ngục đó.” ông già Mã ngoái lại, “Nhanh hơn hả?” anh ta hét lên át cả tiếng động cơ, đoạn cất tiếng cười. Trước khi Gia Huy có thể nói gì, chiếc xe lại lao về phía trước với một sức mạnh mới.

Không thành vấn đề. Tất cả chúng ta đều nôn nóng về nhà mới. Không còn phải leo lên thùng xe mỗi buổi sáng, không còn những thôn làng tồi tàn với thức ăn không sao nuốt nổi. Nhưng vẫn còn là mùa đông. Tuy những làn gió thổi vào mặt chúng ta không còn lạnh buốt nữa. Có vẻ như tất cả chúng ta đã đến một vùng đất có một mùa hoàn toàn khác: một mùa xuân vĩnh cửu.

Huê Lan quay sang ta, “Nhìn kìa”. Côn Minh cũng giống như trong câu thơ non xanh nước biếc như tranh họa đồ. “Bầu trời mới đẹp làm sao!” Tất nhiên vào lúc ấy chúng ta mới chỉ nhìn thấy vùng ngoại ô thành phố. Khi chúng ta tiếp tục tiến lên, phong cảnh hữu tình biến mất.

Chiếc xe đi chậm lại, bác tài bóp còi bim bim, chúng ta đi qua hàng trăm người, tay xách nách mang vẻ mỏi mệt, Văn Phú hét lên bảo họ “Đi dẹp vào bên lề! Tránh đường!” Khi họ không nhảy lên theo lệnh hắn thì hắn chửi họ “Louyi!” một câu chửi rất tục, gọi những con người đáng thương này là đồ con sâu cái kiến.

Chỗ này chỗ kia chúng ta nhìn thấy những người làm phu làm đường nạy những tảng đá lớn trên đường ném lên những xe goòng. Xa hơn nữa, chúng ta đi qua một cái xe tải quân sự nữa rồi một cái khác, cái khác nữa.

Văn Phú vẫy họ khi đi qua, chỉ vào ngực và kêu lên, “Không quân, Hàng Châu, khóa 2.”

Sau đó chúng ta đi vào thành phố đông đúc, nhộn nhạo, một thành phố lớn, lớn hơn ta hình dung nhiều. Chúng ta đi ngang qua một ga xe lửa, xuôi xuống một con đường rộng với những ngôi nhà xám, chẳng ra cổ điển cũng chẳng ra tân kì. Rồi đường phố trở nên hẹp hơn, đông đúc, ồn ào với khách đám đông bộ hành, xe cộ. Bác tài bấm còi liên tục. Không khí trở nên nặng nề hơn với những mùi khó ngửi. Ta đau đầu lắm. Ta nhìn thấy những ngôi nhà bằng gạch chen chúc bên nhau, một số khác nom quê kệch, xiêu vẹo đến nổi con không hiểu tại sao nó vẫn còn đứng được. Nhiều khuôn mặt đứng lại nhìn chúng ta không phải là mặt người Hán. Họ là những dân tộc ít người mới dời từ trên núi xuống. Con có thể thấy là họ không phải là dân sở tại. Họ không bận những chiếc áo chùng và quần của những người nghèo vùng Giang Nam hoặc những áo dài của người buôn bán, hoặc âu phục của người có học. Họ mặc những chiếc váy sặc sỡ, có những đường viền tươi màu ở cổ tay, khăn xếp quấn quanh đầu hoặc nón trông giống như những thố rơm lèn chặt. Dù có phải là người Hán hay không thì người qua đường cũng nhìn chúng ta với khuôn mặt đăm đăm. Họ lặng lẽ quan sát chúng ta kĩ lưỡng, tất cả những biểu hiện của chiến tranh bây giờ đã kéo đến ngưỡng cửa; cái thành phố vốn yên tĩnh hàng trăm năm nay vụt trở nên náo động từ đầu này đến đầu kia.

Chúng ta tạm đến ở một khách sạn vài ngày, trong khi các nhân viên của lực lượng không quân tích cực tìm một ngôi nhà phù hợp cho chúng ta. Cuối cùng chúng ta dọn đến một ngôi nhà hai tầng ở vào quãng giữa của Đông và Bắc. Gia Huy và Helen cũng sống ở đây cũng như một cặp vợ chồng khác, những người mà chúng ta gặp trong ngày dọn nhà.

Người vợ lớn tuổi hơn Huê Lan và ta và có vẻ rất quyền hành. Chồng chị là một người có liên hệ với không quân, mặc dù anh ta không phải là phi công, mà là một thanh tra giao thông, cầu cống, đường sá, đường ray xe lửa. Lần đầu tiên nhìn thấy ngôi nhà, Huê Lan nói. “Nhìn những khuôn mặt gỗ dài thuỗn của nó kìa. Hai cái của sổ lớn như những con mắt nhìn ta.” Tất cả những ngôi nhà trên đường phố này nom đều giống nhau, nhà gỗ hai hoặc ba tầng. “Dương phòng, chúng ta gọi kiểu nhà nhái theo kiểu phương Tây như thế”.

Không có sân trước, không có gì ngăn cách nhà với đường phố. Con chỉ cần bước ra ngoài ba bước và bùm, con đã ở ngoài với những người khách bộ hành đi trên đường. Nhưng chúng ta có một sân sau có hàng rào bao quanh. Đó không phải là một chỗ để dẫn bạn bè đến, không phải cái loại sân ấy. Nó được đổ bê tông và rất dơ bẩn, một vài bụi cây rãi rác chung quanh chẳng ra một kiểu nào cả. Một bên hàng đậu là một máy bơm nước, một bồn nước dài để giặt quần áo. Phía trên là những sợi dây chăng qua đầu để phơi quần áo. Kế đó là một cối đá lớn để xay thóc, hạt mè hoặc ngũ cốc.

Hàng rào phía sau có một cái cống dẫn đến một lối đi nhỏ, vừa đủ rộng để những người thu nhặt rác ban đêm đẩy xe của họ đi qua. Thẳng xuống lối đi này, rẽ trái sẽ đi đến một con đường có nhiều bụi cây dẫn đến một cái hồ nhỏ của thành phố. Ta nghe nói rằng cái hồ rất đẹp, hoặc có lẽ nó đã từng có một thời rất đẹp. Nhưng khi tìm đến ta chỉ thấy những người nghèo nhất trong thành phố dùng đó làm nơi tắm giặt, mà đâu chỉ có thế, họ còn làm những việc kinh khủng khác mà ta không muốn nhắc đến ở đây.

Như ta đã nói ngôi nhà có vẻ bề ngoài là theo phong cách Tây phương nhưng bên trong nó vẫn giữ lối cảm nghĩ của người Trung Quốc.

Chúng ta có hai phòng sinh hoạt chung khá lớn ở tầng trệt. Một cái bếp rất rộng với hai lò than đắp bằng đất sét trông rất bề thế với nhiều bếp lửa. Chúng ta cũng có một bồn rửa có chỗ thoát nước nhưng không có vòi nước chỉ có những chân chạy của bọn đầy tớ. Đó là cách thức của người Hoa. Đầu bếp, người làm phải chạy ra sân bơm nước; khênh những thùng nước to, nặng vào bếp. Có thể họ phải khiêng nước lên cho chúng ta. Bây giờ ta cũng không nhớ nữa. Khi con không phải làm một việc gì cho chính mình con cũng chẳng nhớ đến cái người đã làm việc ấy cho con. Dù sao thì cũng phải có một ai đó mang nước lên trên gác. Bởi vì bao giờ ta cũng có đủ nước sạch đã nấu chín vào mỗi buổi sáng, buổi tối để rửa mặt mũi tắm một nửa người phía trên vào buổi sáng, nửa người phía dưới vào buổi tối. Với đứa trẻ trong bụng ta trở nên quá kềnh càng để tắm một lượt cả người. Hàng ngày người giúp việc phải đổ nước dơ từ những cái bồn, cái chậu cũng như là mang những cái bô ra lối đằng sau đổ đi, rửa sạch.

Hai căn phòng sinh hoạt chung dùng làm nơi ăn uống, trò chuyện, ở đây chúng ta có một cái bàn lớn, mấy cái ghế dựa, hai cái sofa rẻ tiền, một chiếc máy hát chạy bằng dây cót. Điều này không có có nghĩa là chúng ta thiếu điện để chạy máy hát. Thời chiến mà, con có thể tìm đâu ra một chiếc máy hát mới. Tất nhiên, đúng là hầu hết mọi người không có điện; họ sống trong những ngôi nhà lụp xụp làm bằng rơm trộn với bùn theo lối cũ. Nhưng trong ngôi nhà của chúng ta, trên đường phố của chúng ta mọi người đều có điện trên gác cũng như dưới nhà. Khi hầu hết thành phố trở nên tối đen, im ắng, chúng ta bật radio, bật quạt, bật đèn, chơi mạt chược cho đến khuya. Chúng ta bao giờ cũng sẵn sàng chộp lấy cơ hội nào để tiêu khiển. Chúng ta thích tỏ ra giống người đang sống ở Berlin. Chúng ta nghe rằng đó nơi điên rồ, nơi mọi người không ai nghĩ đến chiến tranh chỉ nghĩ đến những thú vui mà họ có thể tìm ra mỗi ngày - bài bạc, ăn uống, hộp đêm. Thời ấy chúng ta sống như vậy đấy, muốn dập theo một kiểu sống điên cuồng. Chỉ có điều chúng ta lại đang tản cư ở Côn Minh, và khi chán phải nghe cái nhạc eo éo người ta phát trên đài, khi không có gương mặt mới để nói xấu, khi tay mọi người mỏi vì cầm bài mạt chược, thì chúng ta có thể làm gì? Không thể đi đến những hộp đêm, chúng ta đi ngủ.

Vì Gia Huy là đội trưởng, vợ chồng anh ta có 2 phòng tốt nhất ở dưới nhà. Những người còn lại thì chiếm những phòng trên lầu, một điều rất khó khăn đối với ta. Ta không thể nhìn được cái gì phía dưới bụng ta. Vì thế một khi đã ở trên lầu ta chỉ đi xuống với ý nghĩ phải thận trọng đặt từng bước chân mỗi bậc thang một lần.

Lúc mới dọn đến Văn Phú và ta bị phân cho những căn phòng tồi nhất, cả hai đều trông ra cái hướng không đáng nhìn, chỉ có một cách làm cho giường ngủ xoay đúng hướng là phải đẩy nó về phía cái cửa gần nhất, chặn lấy cửa ra vào. Làm sao chúng ta làm thế được?

Thế là những căn phòng này thuộc về vợ chồng ta - chỉ vì người vợ của ông thanh tra đã chọn những phòng tốt nhất trên gác. Chị ta tuyên bố rằng chồng chị chức cao hơn chồng ta. Điều đó đúng, nhưng chị ta không nên cư xử như vậy. Chị ta nên nói, “Đây em chọn trước đi.” Ta sẽ chọn những cái phòng không tốt lắm để thể hiện sự biết điều của mình mà không phàn nàn chị ta. Ta sẽ chọn ít nhất một cái như thế.

Tuần lễ đầu tiên trong nhà mới thật kinh khủng. Ta không thích những căn phòng này, không thích vợ người thanh tra. Ta đặc biệt không thích cái cách chị ta chơi mạt chược, cái cách chị ta nhướn lông mày, nói “Hừm” mỗi khi ta ném quân bài xuống, điều tệ hại hơn cả là mỗi tối chúng ta phải nghe tiếng vợ chồng người thanh tra cãi nhau vọng qua những bức tường.

Đầu tiên là giọng người chồng nhỏ nhẹ. Sau đó giọng người vợ the thé. Khi người đàn bà khóc lu loa, Văn Phú với lấy giày của hắn ném vào tường. Nhưng cặp vợ chồng này chỉ im lặng được vài phút, sau đó lại bắt đầu một cuộc cãi nhau mới.

Sau ba bốn đêm như thế Văn Phú phàn nàn về người đàn bà, Huê Lan kêu ca về những chiếc giày ném vào tường “giống như bom nổ”. Cô ta nói, “Làm chúng tôi sợ hút chết!” Và chẳng bao lâu mọi người đều cãi cọ. Tất cả những cảm xúc tồi tệ tuôn trào không sao cản được cho đến khi không ai còn muốn nói với ai dù chỉ một lời. Ban đêm, khi chương trình phát thanh chấm dứt chúng ta không thức khuya, giao du với nhau nữa. Chúng ta ai về phòng nấy, đêm yên tịnh đến nỗi có thể nghe thấy tiếng một con ruồi đậu trên mái nhà. Tình hình này kéo dài thêm mấy ngày nữa. Sau đó người thanh tra đi thị sát những công trình trên đường Burma. Sau này chúng ta nghe nói rằng bệnh sốt rét đã ăn hết não anh ta trong vòng 3, 4 ngày thế là anh ta chết một cái chết kinh khủng. Chúng ta phải nghe chị vợ khóc than, rên rỉ trong nhiều ngày. Tất nhiên lần này chúng ta không ca thán, Văn Phú cũng không ném giày vào tường. Tất cả chúng ta đều tử tế với chị. Vào thời gian chị ta chuẩn bị ra đi, chúng ta đồng ý làm bạn với nhau suốt đời. Mặc dù bây giờ ta không thể nhớ được tên của chị ta, có thể là Lưu hay Lâu gì đó.

Dù sao thì sau khi chị ta ra đi, ta cũng lấy những căn phòng của họ tất nhiên phải trả thêm tiền lấy từ của hồi môn của ta. Peanut lấy tiền từ tài khoản của ta trong nhà băng gửi đến đây cho ta, và bằng cách ấy ta cũng biết rằng nó cũng gửi 400 đô Trung Quốc tới Nam Kinh, số tiền mà ta không bao giờ nhận được.

Trên thực tế có rất nhiều việc buộc ta phải trả thêm tiền. Lực lượng không quân không thể cung cấp những người giúp việc cho chúng ta nữa. Ngay cả Huê Lan vợ đại úy cũng không có. Thế là ta phải trả tiền cho người nấu bếp là một góa phụ già. Ta phải thuê một cô gái trẻ để quét dọn, ta cũng phải trả thêm tiền một căn phòng nhỏ ở cạnh bếp cho họ ở. Con phải nhìn thấy gương mặt của Huê Lan lúc cô gái giúp việc giặt giũ, kì cọ những chiếc bô của chúng ta. Huê Lan đã thay đổi rất nhiều không còn là cô gái quê mộc mạc nữa, cô tỏ ra cao ngạo vì đã làm vợ một đại úy không quân. Con hiểu điều ta nói không, khi Gia Huy được thăng cấp, Huê Lan cũng tự thăng cấp cho mình. Trong suy nghĩ của mình cô ta cho là mình quan trọng hơn ta, cô ta phát điên lên khi ta có thể nuôi người giúp việc còn cô ta thì không.

Tất nhiên, người giúp việc, người nấu bếp của ta cũng làm nhiều việc giúp Huê Lan. Họ lau dọn phòng chung. Họ múc nước từ giếng lên để pha trà, rửa ráy cho tất cả mọi người.

Nhưng Huê Lan không hề biết ơn. Cô cố moi ra những vết dơ trên sàn, khi tìm thấy chúng liền reo lên. “Ôi giời nhìn kìa!” Còn khi ta mời vợ chồng cô ăn tối, cô sẽ ăn tì tì rồi nói, “Ngon lắm, nhưng có lẽ thịt nấu quá kĩ.” Lần sau cô sẽ nói, “Ngon lắm nhưng thịt chưa đủ lửa.”

Vì thế những điều mà ta đã làm, những ân huệ mà ta đã cho cô chẳng có nghĩa lí quái gì. Bao giờ cô ta cũng ấm ức cho đến khi ta ở cùng một góc độ kém cỏi với cô ta. Vào tháng thứ 9 đứa bé trong bụng ta lớn nhanh như thể nó bằng hai đứa trẻ khác. Nhưng nó vẫn không chịu ra cho. Ta không lo lắng gì cả, bởi vì ta có thể cảm thấy nó bơi trong bụng ta, nó trở mình, đạp chân, xoay đầu. Nó cử động khi ta hát. Nó cử động khi ta bước đi trong giấc mơ của mình. Nó cử động khi ta nhìn thấy những loại rau ở chợ mà ta thèm ăn. Đứa bé này có cùng một suy nghĩ với ta.

Hàng ngày ta ngồi khâu chăn cho bé, hoặc là đan một cái áo len, chắp những tay áo bé nhỏ vào thân áo. Ta nhớ một ngày, trong khi ta đang ngồi khâu, đứa bé đạp một cái mạnh hơn bao giờ hết. Ta hình dung đứa bé mạnh mẽ này chẳng bao lâu sẽ chạy lên chạy xuống cầu thang cũng như cái cách nó chạy lên chạy xuống trong bụng ta. “Ra ngoài đi kho báu bé nhỏ của mẹ,” ta gọi, “Ma ma gọi con ra ngoài đó.” Đứa bé đạp ta một cái nữa, ta đánh rơi kéo xuống nó cắm trên sàn giống như một người lính nhỏ sẵn sàng nhận lệnh. Đầu tiên ta cười, nhưng sau đó ôi – ta cảm thấy có gì lạ lắm, đứa trẻ trong bụng thôi không cử động. Ta không nghĩ đó là điều ta tưởng tượng ra. Mọi việc xảy ra như thế nào: cái kéo rơi xuống, đứa trẻ cũng trở nên bất động. Ta cố gắng nhổ cái kéo ra khỏi sàn, nhưng bụng ta kềnh càng rất khó cúi xuống. Chợt ta sực nhớ ra điều thím Lớn đã một lần nói về điềm xấu khi đánh rơi kéo. Ta không thể nhớ được lí do chỉ nhớ được vài chuyện: một người đàn bà đâm ra dở điên dở dại, một người đàn bà rụng hết tóc trong vòng một đêm, một người đàn bà có một đứa con trai chọc mù mắt nó bằng một cái cành cây nhỏ, bà ta buồn đau đến nỗi tự chọc mù mắt mình cũng bằng cái que ấy.

Đó là điều kinh khủng ta làm, đánh rơi cái kéo. Ta gọi người đầy tớ lên ngay, sai nó ném cái kéo xuống hồ. Ban đêm đứa bé không nhúc nhích lấy một lần. Ta ca hát, ta đi tới đi lui trong nhà. Nó cũng không trả lời. Ngày hôm sau ta vào bệnh viện, các bác sĩ đã làm một cái gì đó để lấy đứa bé ra thật nhanh nhưng tất nhiên là đã quá trễ. Huê Lan cũng ở đấy. Sau khi bác sĩ đi khỏi, cô ta cúi người bảo với ta rằng đứa bé rất bự, có lẽ gần 5 kg. Tốt lành gì cái việc bảo ta biết nó cân nặng bao nhiêu. Vậy mà cô ấy bảo ta về trọng lượng của nó cứ như thể nói một con cá nặng bao nhiêu khi được bắt từ dưới biển lên. Đứa bé gái không bao giờ khóc, thậm chí không bao giờ thở.

Văn Phú đập vào tay ta. “Ít nhất thì nó cũng không phải là một thằng con trai.” Ta không rõ tại sao nhưng ta bảo cô y tá mang đứa trẻ đến cho ta. Huê Lan, Văn Phú nhìn ta. “Tôi muốn xem mặt nó để đặt cho nó một cái tên thích hợp,” ta nói bằng giọng nghiêm nghị. Huê Lan, Văn Phú nhìn nhau. Ta thở dài, “Chỉ là một cách nhìn thiết thực khi đưa một đứa trẻ sang thế giới bên kia với một cái tên. Đứa trẻ sẽ lớn lên ở đấy. Khi chúng ta sang thế giới bên kia, chúng ta có thể gọi nó, có thể yêu cầu nó chăm sóc chúng ta trong cuộc sống mới.” “Đúng là rất thực tế,” Huê Lan đồng ý. Cô ta cùng Văn Phú bỏ ra khỏi phòng. Ta chắc rằng họ nghĩ ta sẽ khóc đứa bé, họ không muốn phải ngượng ngùng khi chứng kiến cảnh này.

Sau khi cô y tá mang nó vào, ta không ngồi dậy để nhìn nó. Ta vẫn nằm thậm chí không xoay đầu nổi. Ta muốn làm sống lại kí ức về nó, ta nghĩ đến những lần chúng ta cùng khiêu vũ với nhau, bé sống động thế nào khi ta nói chuyện với bé. Cuối cùng ta buộc mình ngồi dậy để đi đến nhìn nó. Một hài nhi rất to. Rất nhiều tóc. Tai nó giống như tai ta. Cái miệng nhỏ nhưng nước da của nó thật đáng buồn giống như màu một hòn đá. Hai tay nó nắm chặt lấy thành những quả đấm nhỏ. Ta cố gắng gỡ ra. Và lúc ấy ta bắt đầu khóc. Nếu đứa trẻ này sinh ra ở Thượng Hải. Nếu đứa trẻ này không sinh ra vào thời loạn lạc. Nếu ta không đánh rơi chiếc kéo.

Nhưng ta nhanh chóng xua đuổi những ý nghĩ sầu thảm này đi, cố trấn an. Dân ở các vùng quê đang chết đói. Người ta giết nhau ở những vùng xảy ra chiến sự. Người ta chết vì đủ thứ lí do, mà chẳng có lí do nào cả. Vì thế khi một đứa bé chết đi, ít nhất thì con cũng tự bảo mình là nó không có dịp để đau khổ. Chiều hôm sau chúng ta lái xe đến những chân đồi phía tây. Nơi mọi người gọi là Những người đẹp say ngủ. Những quả đồi ở đây trông như những thiếu nữ đồng trinh đang trong giấc ngủ, nằm nghiêng một bên. Đó là nơi ta chôn đứa con gái đầu lòng. Ta chỉ nói một vài câu để tưởng nhớ bé: “Con là đứa trẻ ngoan, con không bao giờ khóc”. Lúc ấy ta đặt tên nó theo cái hồ ở Nam Kinh, Mặc Sầu, vĩnh biệt nỗi buồn, bởi vì nó sẽ không bao giờ biết đến một nỗi thống khổ.

Ta không bao giờ dùng bất cứ một cái kéo nào trong một thời gian dài. Ta đợi đủ 100 ngày. Thật là khó nếu không thêu thùa may vá trong một thời gian dài. Như ta đã nói trước đó, ở Côn Minh không có nhiều chuyện vui để làm, chẳng có gì để xem, đặc biệt là vào ban ngày, con không thể nói, ta chán lắm, hãy đi xem phim chiều nay đi. Con chỉ có thể ngồi buồn như chấu cắn. Thế là sau nhiều ngày ăn không ngồi rồi, ta quyết định mua một kéo mới, bắt đầu may vá lại. Huê Lan bảo ta, “Em nghe nói rằng kéo vùng Giang Nam là tốt nhất, rất sắc, bền. Điều đó đúng đấy, em mua một chiếc cách đây mấy tuần.”

Cô nói rằng có nhiều tiệm tạp hóa bán kéo nhưng những chiếc tốt nhất chỉ có thể tìm một cửa tiệm địa phương nằm ở khu vực buôn bán trong khu phố cổ. Kéo ở đây có chất lượng cao nhất lại rẻ tiền. Không có biểu hiệu tên đường ở khu vực buôn bán trong khu phố cổ. Nhưng nó rất dễ tìm.

Đây là lời chỉ dẫn của cô: “Qua cây cầu phía đông bắc sang bên kia hồ, hãy đi tìm một người đàn ông bán súp. Sau đó quẹo về chỗ có bán cá khô. Cứ đi tiếp cho đến khi tìm thấy một cô gái bán những đôi giầy ngoại cũ để đầy trong những cái sọt. Lại quẹo nữa – chỉ có một con đường để quẹo – tiếp tục cho đến khi nhìn thấy một đường vòng cung. Những ngôi nhà ở đây đẹp hơn, quét vôi trắng, lâu lâu cũng có một hai cái biển hàng. Hãy tìm một chỗ bán những tảng đá lớn ngoài biển rồi đi về phía đối diện. Chị sẽ nhìn thấy chợ chỉ sau năm phút đi bộ thật nhanh. Cô gái bán kéo ngồi ngay ở ngoài, bên một cái bàn.”

Tất nhiên ta bị lạc với những chỉ dẫn ấy. Khu vực này của thành phố đã hàng ngàn tuổi. Đi dạo trên những đường phố này con sẽ nghĩ rằng nó không mảy may thay đổi trong suốt những năm qua. Những con đường chạy lên chạy xuống gặp nhau ở chỗ này kết thúc ở chỗ kia chẳng có lí do nào. Đường phố vặn vẹo, được rải bằng những hòn đá thô đã mòn đi ở giữa bởi bao bước chân người. Những ngôi nhà nhỏ xúm xít vào nhau ở hai bên đường. Đường phố rất hẹp chắc chắn là chưa có một xe hơi nào từng chạy qua đây.

Ta bị lạc trong vòng hơn một tiếng, đi quanh quẩn trong một khu vực tồi tàn. Dù ta chỉ mặc một cái áo đầm đơn giản thì những người phụ nữ khác cũng dán mắt nhìn ta từ đầu đến chân, chỉ trỏ vào người ta. Bọn trẻ con bỏ chạy theo ta la khóc chìa tay ra, “đói quá! đói quá!” Ta nhìn quanh tìm một người nào đó có thể giúp ta, nhưng chẳng có ai. Những khuôn mặt quay lại nhìn ta đều lãnh đạm chẳng có gì là thân thiện cả.

Thế là ta đi tiếp với một lũ lau nhau quẩn bên chân, qua những ô cửa sổ tỏa ra mùi thức ăn rẻ tiền. Ta nhìn thấy một người đàn bà đi ra cửa ở trần đến thắt lưng đang cho con bú. Một ông già ngồi ở bậc cửa nhìn lên thấy ta ông mỉm cười méo mó rồi bắt đầu ho đến tắc thở, ho nhiều đến nỗi ta nghĩ ông ta sẽ chết ngay lúc ấy. Cổ họng ta nghẹn ngào vì cố kìm tiếng khóc. Cuối cùng ta cũng tìm ra được một con đường lớn hơn, đông người qua lại, ra đến chợ. Trẻ con vây kín ta vì thế ta không thể đi lại tự do được. Ta thọc tay vào ví, ném ra vài đồng xu lẻ qua đầu chúng. Chúng ré lên, lăn xuống đất, tranh giành nhau một cơ may nho nhỏ bắt được một đồng xu.

Ta quyết định hỏi đường để tìm ra một cái xe đi về nhà. Ta bước qua một phụ nữ trẻ để chân trần, mặt mày nhem nhuốc, mái tóc rối đang ngồi bên một chiếc bàn tre. Trước khi ta mở miệng ta đã nhìn thấy những chiếc kéo đặt trên bàn. Thật thế có bao giờ con có cảm giác như là có ai đó bày trò chơi khăm con chưa? Có bao giờ con cảm thấy con có được một cái gì đó vào lúc con lại không cần đến nữa?

Những chiếc kéo được xếp thành hàng ngay ngắn trên một miếng vải đỏ đã bợt màu, từ nhỏ đến lớn với hai loại. Một loại đơn giản không có trang trí ở tay nắm. Loại kia rất cầu kì có hình những con chim đang nghểnh cổ, một loại mà con chỉ có thể mong tìm thấy ở những cửa hàng cao cấp ở Thượng Hải. Ta rất ngạc nhiên khi nhìn thấy chúng ở đây. Lưỡi kéo mỏng, có hình dạng giống như cái mỏ chim. Ở chỗ mà hai lưỡi kéo gắn vào nhau bằng một cái ốc kim loại thì có một con mắt, ở hai cái lỗ con xỏ ngón tay vào thì có hai cái cánh.

Ta tự hỏi họ chế tạo kéo như thế nào, mỗi cái đều giống nhau như đúc chỉ khác về kích cỡ. Ta cầm một cái lên, nhắp nhắp cái kéo trong tay trông nó như đang vươn cổ lên nói chuyện và chuẩn bị cất cánh bay lên. Tuyệt vời! Nó mới tinh xảo làm sao? “Ai làm ra những cái kéo này?” ta hỏi cô gái.

“Chỉ những người trong họ chúng tôi,” cô nói mỉm cười làm lộ ra hàm trên không có răng. Ngay tức thì cô biến thành một bà già. Ta cầm một chiếc kéo lớn hơn. Cô đẩy cho ta một miếng giẻ bẩn thỉu để thử kéo.

Một thằng bé trần truồng chạy đến từ ngưỡng cửa phía sau cô. “Mẹ,” nó khóc. “Chờ chút,” cô mắng nó, “không thấy là mẹ có một khách hàng quan trọng sao?” Thằng bé lại chạy vào trong nhà.

“Nói không phải khoác lác đâu,” bây giờ thì cô nói chuyện cà kê với cái miệng móm. “Chị có thể thử kéo ở bất cứ đâu trong thành phố này, chị có thể thấy không ở đâu kéo sắc như ở đây. Đó là vì dòng họ tôi có nghề gia truyền làm kéo từ hàng ngàn năm về trước, dễ đến 10 ngàn năm ý. Đây, chị thử cái kéo này đi. Chất lượng hảo hạng.” Cô ta nói và lại đưa miếng vải cho ta cắt thử, kéo cắt vải rất ngọt.

Người đàn bà ngọ nguậy ngón tay, “Kĩ xảo làm kéo đã được truyền cho tất cả mọi người trong dòng họ của chúng tôi. Chúng tôi truyền lại nó từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua cả mối quan hệ huyết thống lẫn những lớp huấn luyện. Chúng tôi dạy bọn trẻ làm những cái kim lớn nhất, sau đó làm những cái nhỏ hơn rồi làm kéo.”

“Bao nhiêu tiền một cái?” ta hỏi cầm lên một chiếc kéo chạm khắc cầu kì.

“Chị nghĩ chúng đáng giá bao nhiêu?” cô ta ướm hỏi, véo vào miệng, nhìn thẳng vào ta. “Bao nhiêu một cái kéo tốt như vậy? – thứ kim loại tốt nhất, bền nhất, thép của Mỹ.”

Người đàn bà này nghĩ ta ngu chắc, “Làm sao có thể là thép của Mỹ? Không có một nhà máy của Mỹ nào ở đây mà.” “Phía tây thành phố, đó là nơi chúng tôi có loại thép này, ở cuối đường Burma,” cô ta nói. “Lâu lâu ở đây có nhiều hàng hóa thải ra của ngoại quốc. Ối cha nó cao hàng vài trăm mét – họ thải ra vào phút chót. Bọn con trai trong vùng đến đây trèo lên bằng những sợi dây thừng, hoặc công kênh nhau để lấy, gì cũng được miễn là đồ không bị bể. Họ để lại cho chúng tôi quản lí phần còn lại. Mười gia đình chia nhau. Hai gia đình lấy đồ gỗ. Hai gia đình khác lấy ghế và đồ nhựa. Chúng tôi chia đồ sắt với những gia đình còn lại. Với phần của mình, chúng tôi nấu kim loại chảy ra rồi đúc kéo.” Cô ta cười vô cùng hãnh diện với cái miệng sứt. Thật là đáng buồn khi nghe chuyện này – làm kéo từ những đồ phế thải của người ngoại quốc. Ta đặt cái kéo xuống, cô ta nói, “bốn tệ. Thế nào? Giá hời quá rồi đấy.”

Ta lắc đầu. Nó chỉ vào khoảng 2,5 đô Mỹ, ta nghĩ sao ta phải trả nhiều tiền thế cho một cái kéo chỉ mang đến những điều xui xẻo?

“Ba tệ vậy. Đừng nói gì với chồng em nhé, ba tệ là giá thấp nhất rồi đó.”

Ta lắc đầu. Nhưng bây giờ thì người đàn bà nghĩ ta chỉ muốn trả giá thấp hơn nữa.

Người đàn bà thở dài, “Nếu chị thích, chị chỉ cần bảo tôi biết chị muốn bao nhiêu. Thôi thì hai tệ rưỡi vậy. Đừng nói với ai nhé. Giá rẻ không tin được. Hai tệ rưỡi.”

Lúc đó ta thầm nghĩ, ngần ngại gì nữa, hai đồng rưỡi quá rẻ. Ta còn có thể tìm ở đâu những chiếc kéo tốt thế này? Ta mở ví, đặt tiền vào trong tay cô ta. “Lần sau tôi không dám hứa là bán cho chị giá này đâu,” cô ta nói, sau đó bật cười. Ta đang thầm chúc mừng bản thân vì cái giá hời này thì tuột tay đánh rơi chiếc túi lên một cái góc bàn chông chênh. Thế là cái bàn chổng hai chân lên đổ sụp xuống, 40 chiếc kéo cùng rơi xuống đất!

Ta trố mắt nhìn, tất cả các con chim đều há mỏ, tất cả những điềm xấu ào ra từ đó.

“Ối giời! Kinh khủng làm sao!” ta kêu lên, “làm sao mà tôi có thể làm như thế được?”

“Không thành vấn đề. Không hư hại gì đâu,” người đàn bà nói. Cô ta cúi xuống nhặt những chiếc kéo rơi xuống đất. Nhưng ta đã vội vã bỏ chạy.

“Chờ chút! Chờ chút!” Ta nghe cô ta gọi với theo. “Chị quên kéo của chị này.” Ta đi như chạy, không nghĩ ngợi gì, rẽ vào những đường phố gồ ghề, ngoằn ngoèo. Bây giờ nơi nào trông cũng giống nhau, tuy chẳng có chỗ nào tương tự như nhau. Cứ như là đi quanh quẩn trong một cơn ác mộng không biết là mình đi đâu hoặc mình cần đi đâu, lo ngại rằng nếu ta dừng lại thì một chuyện gì tệ hại sẽ xảy đến với ta.

Vì thế con thấy đấy, ta đã gây ra một chuyện ghê gớm, cứ như là kí thỏa thuận với quỷ. Mà để làm gì? Ngay sau đó, ta biết rằng ta có thể tìm thấy những cái kéo hình con chim đó ở bất cứ đâu, thậm chí giá còn rẻ hơn. Nhiều người làm kéo, không chỉ ở Trung Hoa. Vừa mới đây ta cùng nhìn thấy những cái kéo ấy - ở cửa hàng Năm Mười. Phải, con hình dung được không? Tất nhiên, ta không mua. Nếu con nghĩ rằng ta mê tín dị đoan, vậy thì tại sao ta lại đánh rơi tất cả những cái kéo vào ngày hôm ấy? Tại sao có một điều kinh khủng lại xảy ra ngay sau đó?

Huê Lan là người đã nói cho ta biết điều đó. Cô ấy đợi ta ở nhà. Cô ta nhảy lên hai tay bịt miệng bảo ta vào bệnh viện nhanh nhanh lên, “Tai nạn!” cô ta kêu lên. “Văn Phú bị thương rất nặng, có lẽ đang hấp hối.”

Ta để lọt ra một tiếng kêu nhỏ đầy sợ hãi, “Sao có thể thế được?” Rồi cả hai chúng ta vội vã chạy ra cửa nơi có một chiếc xe của không quân đang chờ để đưa chúng ta vào bệnh viện. Trên đường đi Huê Lan kể cho ta nghe chuyện gì đã xảy ra. “Y lái một chiếc xe Jeep, đi về hướng những quả đồi Những người đẹp say ngủ. Nhưng một bánh xe rơi ra, chiếc xe lộn nhào hất y ra ngoài.”

“Úi da, đó là lỗi của tôi,” ta khóc. “Tôi đã làm cho điều đó xảy ra.”

“Đừng có nói thế,” Huê Lan cự, “làm sao đó có thể là lỗi của chị được.”

Sau đó cô ta kể là Gia Huy đã ra lệnh đưa Văn Phú vào bệnh viện Công giáo Pháp được điều hành bởi các nữ tu Trung Hoa và ngoại quốc. Huê Lan nói đó không phải là một bệnh viện địa phương, cái loại bệnh viện vừa nghèo nàn phương tiện vừa chỉ gây thêm những vấn đề khác cho bệnh nhân. Gia Huy mới tốt bụng làm sao!

Trong khi đi dọc hành lang bệnh viện ta có thể nghe thấy tiếng Văn Phú rên rỉ, kêu la. Đó là tiếng kêu của một người đang ở trong lò luyện ngục, một kẻ nào đó chắc chắn đã mất hết lí trí. Sau đó ta nhìn thấy hắn. Đầu hắn băng kín mít. Khuôn mặt hắn sưng húp híp, tím bầm. Thật là kinh khủng khi thừa nhận điều này nhưng nếu không có ai bảo ta đó là Văn Phú thì ta không thể nhận ra hắn. Ta nhìn chằm chằm vào mặt hắn, cố nhận ra đôi mắt, cái mũi, cái cằm. Sau đó ta nghĩ có thể họ đã nhầm lẫn. Đây không thể là chồng ta.

“Văn Phú,” ta gọi.

“Anh ấy không thể nghe chị nói đâu,” bác sĩ bảo. “Anh ấy bị tổn thương rất nặng ở não. Anh ta đã chết vì sốc khi họ mang anh ấy đến đây. Nhưng tôi đã chích cho anh ấy một mũi adrenalin, anh ấy lại sống lại.” Tất nhiên ta cảm ơn bác sĩ vì đã cứu sống chồng ta.

Ta quay lại nhìn Văn Phú lần nữa, gọi tên hắn khe khẽ. Bất thình lình một con mắt mở ra. Ta há hốc mồm vì kinh ngạc. Mắt hắn to, đen ở giữa, vàng và đỏ bầm ở chung quanh. Dường như nó nhìn ta với biết bao phẫn nộ, không có một chút cảm xúc tốt đẹp nào trong đó. Trông hắn giống như một con quỷ. Vài ngày sau, khi đã chắc chắn là Văn Phú sẽ sống sót, Gia Huy đến bệnh viện gọi ta ra một chỗ, “Vi Vi à bây giờ tôi phải báo cho cô những tin xấu.” Ta nghe anh nói, không hề thay đổi nét mặt, không bật ra một tiếng kêu. Chiều hôm ấy Gia Huy bảo ta là anh có thể phải đuổi Văn Phú ra khỏi không quân hoặc thậm chí cho hắn vào tù. Anh bảo rằng chồng ta không được phép lái cái xe đó. Hắn đã hối lộ cho người lái xe, bây giờ người này đang chịu kỉ luật. Không phải lỗi ở cái bánh xe. Hắn tông vào một chiếc xe tải chạy ngược chiều làm chiếc xe lộn nhào xuống. Rồi ta nghe Gia Huy nói về một cô gái. Ai biết được tại sao cô ta lại ngồi trên xe với hắn. Dù sao thì cô ta cũng đã chết, bị cán nát.

Đó là lần đầu tiên ta nghe nói Văn Phú đi lại với phụ nữ dù rằng sau này ta biết được cô gái đó không phải là người đầu tiên. Nhưng lúc ấy ta không tin. Có thể Văn Phú đến thung lũng Những người đẹp say ngủ để thăm mộ con gái. Có thể cô gái này lên xe để chỉ đường. Có thể hắn chỉ tốt bụng, bởi vì hắn thấy cô gái nghèo. Có thể cô ta chưa bao giờ ở cùng với hắn. Có thể cô ta chỉ đứng ở chân đồi khi xe của hắn cán phải, đó là lí do cô ta chết. Tất nhiên, không một lí do nào có thể tìm thấy chỗ trong đầu ta. Ngược lại ta có thể thấy Văn Phú đánh xe trên con đường lộng gió hôn một ai đó giống như Peanut. Hắn hát một bài nhạc kịch cho cô ta nghe, cả hai cùng cười khi hắn vòng lên vòng xuống lượn chiếc xe như giữa những đám mây.

Ta vẫn còn nghĩ thế khi ta thăm hắn lần sau. Mặt hắn không còn sưng như trước. Hắn đang ngủ, ta muốn lay hắn dậy hỏi hắn. “Tại sao anh lại làm thế? Bây giờ anh phải vào tù, thật tai họa cho tất cả chúng ta.” Nhưng trong khi ta nghĩ thế hắn trở mình rên rỉ, phát ra những âm thanh kinh khủng làm ta đau lòng. Thế là ta lau mặt cho hắn tha thứ cho hắn trước khi hắn có cơ hội nói lời xin lỗi.

Cuối cùng khi tỉnh dậy, hắn rất lo âu, rất yếu đuối. Hắn ta thán về đủ mọi thứ: đau đớn, đôi mắt nhức, thức ăn, cung cách phục vụ của các y tá, sự chậm trễ của các bác sĩ, giường nệm cứng ngắc. Ai cũng cố làm hài lòng hắn. Lúc đó ta không nghĩ tai nạn đã làm hắn đổi tính, mà chỉ vì hắn quá đau đớn. Đó là lí do tại sao hắn trở nên khó chịu như vậy. Nhưng khi khỏe hơn hắn trở nên giận dữ, man dại. Hắn ném đồ ăn vào người các y tá, gọi họ là đồ đĩ, hắn chửi bác sĩ là quá ngu không đáng chữa bệnh dù cho một con chó chết. Hắn ném bô vệ sinh vào ông bác sĩ đã cứu sống hắn. Hắn không chịu uống thuốc, khi bốn người y tá cố gắng ghì hắn để bắt hắn uống thuốc, họ không hiểu sức mạnh của hắn ở đâu ra mà hắn túm được một cô y tá quật xuống làm cô gãy rằng. Một đêm, hắn nhào tới chộp ngực một cô y tá. Ngay hôm sau người ta cử một y tá già đến, hắn cũng chộp ngực bà này, trẻ không tha già không thương.

Chẳng bao lâu không còn ai muốn chăm sóc hắn nữa. Đó là nỗi nhục nhã của ta. Sức khỏe của hắn trở nên tốt hơn nhưng đồng thời tính cách hắn cũng trở nên quái đản hơn. Bác sĩ bảo hắn vẫn chưa đủ sức khỏe ra viện. Một mắt hắn sẽ bị mù vĩnh viễn. Họ cột tay, chân hắn vào giường, bảo ta phải làm sao cho chồng ta cư xử cho phải lẽ hơn.

Hàng ngày ta nghe hắn năn nỉ ta cởi trói cho hắn. Hắn van nài ta trèo lên giường với hắn, cởi áo quần của ta ra. Khi ta không làm những điều này hắn đã chửi ta. Hắn buộc tội ta đã ngủ với những người khác. Ta nghĩ rằng giọng hắn đủ to để bất cứ ai ngoài hành lang cũng nghe thấy.

Ta cố hết sức giữ mối cảm thông với hắn. Ta cứ nghĩ rằng chính nỗi đau đớn đã làm cho hắn ra như thế. Một cách âm thầm, ta nghĩ Văn Phú chẳng bao lâu sẽ vào tù. Ta hoạch định một cuộc sống thầm lặng khi ta không còn phải chăm sóc hắn nữa. Nhưng hắn không phải vào nhà đá. Gia Huy bỏ không buộc tội hắn vì bất cứ tội gì. Ta biết được sau này rằng Huê Lan là người đã thuyết phục chồng không làm thế. Cô ta làm thế vì lợi ích của ta, cô ta bảo ta thế.

“Nếu anh trừng phạt người chồng, anh sẽ trừng phạt cả người vợ,” cô giải thích, “em đã nói thế.” Ta cảm ơn cô hết lời. Ta bảo cô, ta cảm thấy áy náy khi cô phải vất vả giúp vợ chồng ta như thế.

“Em có làm gì đâu, Gia Huy cũng chẳng làm gì cả,” cô nói, “bây giờ chị phải quên chuyện đã xảy ra.” Ngay khi cô ta nói thế ta biết rằng cô sẽ không quên, ta cũng không bao giờ quên. Ta có một món nợ lớn phải trả. Tất nhiên, Huê Lan đã không lường được việc cô ta làm, ta đã buồn như thế nào về cái việc cô ta đã làm cho ta. Ta cảm thấy thật kinh khủng, vậy mà ta phải hành động như ta mang ơn cô ta lắm. Nó gợi cho ta nhớ đến một lần khi ta còn bé, thím Lớn hỏi ta trong ngày sinh nhật là con gà nào trong sân ta thích nhất. Ta chỉ một con đã để ta cho nó ăn trên tay ta. Đêm ấy thím Lớn cho thịt nó.

Dù vậy, ta đã biểu lộ lòng cảm kích của ta với Huê Lan không biết bao nhiêu lần. Ta bảo người nấu bếp nấu những món ăn mà cô ta thích, rau cỏ được hầm nhừ cho đến khi chúng tơi ra, chẳng có mùi vị gì. Huê Lan chả nói gì, mà đó là phải, không cần phải chú ý đến lời cảm tạ của ta. Ta bảo đứa ở dọn dẹp phòng ốc của họ thật cẩn thận. Huê Lan cũng chẳng nói gì. Vài ngày sau ta cho cô ta vài mét vải đẹp nói rằng màu đó không hợp với ta.

Tất nhiên điều đó không đúng. Ta chọn miếng vải đó đặc biệt là vì nó tôn nước da ta lên. Nó là một thứ vải rất đẹp màu trái đào, rất khó kiếm trong thời buổi gạo châu củi quế này, rất đắt. “Màu này cũng chẳng hợp với em đâu,” Huê Lan cau mày nói, nhưng tay vẫn vuốt vuốt miếng vải.

“Cứ cầm đi, cứ cầm đi, tôi chẳng có thời gian đâu mà may vá, bây giờ tôi phải dành thời gian chăm sóc chồng.” Thế là Huê Lan nhận món quà của ta, không đưa đẩy gì nữa. Cô ta biết cuộc hôn nhân của ta kinh khủng như thế nào, cô ta để cho ta che lấp nó bằng một miếng vải đẹp.

Khi chồng ta trở về nhà, ta đã chuẩn bị một phòng đặc biệt dành cho hắn. Hắn vẫn còn yếu chưa thể rời khỏi giường vì thế ta phải thuê một y tá đặc biệt để chăm sóc hắn, thay băng, bón cho hắn ăn, nghe hắn kêu ca. Người này chỉ ở đúng một ngày. Người tiếp theo ở được hai ngày. Cuối cùng ta phải tự mình lo cho hắn.

Gia Huy và Huê Lan đến thăm hắn hàng ngày, tất nhiên vì họ ở cùng một nhà với chúng ta. Một hôm có ba phi công tới thăm. Ta dẫn họ vào phòng Văn Phú, họ đối xử hắn như thể hắn là một vị anh hùng. Họ nói rằng khi Văn Phú khỏi bệnh, có thể lái máy bay lại Trung Quốc sẽ chiến thắng, một lời nói láo lịch sự như thế đấy. Mọi người đều biết hắn không thể bay lại được nữa. Làm sao hắn có thể lái máy bay chỉ với một con mắt? Nhưng những người phi công này rất hào hiệp khi nói thế, Văn Phú sung sướng lắng nghe. Họ rất dễ thương, ta mời họ ở lại dùng bữa tối, nghĩ rằng đó là điều Văn Phú muốn nghe ta nói. Hắn bao giờ cũng muốn trưng bày sự rộng rãi của hắn theo cách ấy. Trên thực tế, hắn đã nói, “Xin mời ở lại, vợ tôi nấu ăn khéo lắm.” Ta nghĩ hắn nhớ đến những bữa tiệc thịnh soạn ở Hàng Châu khi ta làm hàng ngàn chiếc bánh nhân thịt. Những người phi công đồng ý ngay lập tức. Ta xuống dưới nhà sai bà bếp ra ngoài mua về cho ta một con gà vừa mới làm thịt. Sau bữa ăn, đồng đội của hắn, vợ chồng Huê Lan và ta tiếp tục ngồi trò chuyện ở bàn ăn trong khi người giúp việc dọn dẹp. Đầu tiên chúng ta nói khẽ vì chúng ta không muốn đánh thức Văn Phú dậy. Ta nhớ là chúng ta nói chút ít về chiến tranh bằng cái giọng nghiêm trang, đúng là chúng ta vẫn tin là chúng ta sẽ thắng ngay khi Trung Quốc có thêm vũ khí đạn dược. Một phi công nói rằng anh ta nghe đâu là có một hợp đồng mua những máy bay Ấn Độ, có thể là hàng ngàn cái đủ để sống mái với quân Nhật. Một người khác lại nói có nhiều nhà máy chế tạo máy bay được mọc lên nhiều vùng ở Trung Quốc. Chẳng bao lâu có thể có một cái ở Côn Minh. Tất cả chúng ta đều đồng ý điều tuyệt vời nhất là máy bay do người Trung Quốc chế tạo sẽ là hoàn hảo không có nhiều trục trặc như máy bay cũ của Liên Xô và máy bay mới của Ý. Hàng của Trung Quốc là tốt nhất cả máy bay bỏ bom lẫn máy bay chiến đấu, tất cả đều có vận tốc siêu nhanh, có thể bay vào ban đêm. Nhưng chúng ta cũng biết đó là những câu chuyện phiếm, nói để mà nói thế thôi.

Sau một hồi, chúng ta bắt đầu nhớ đến những làng quê mà chúng ta đã đi qua, ôn lại những câu chuyện về nó, một loại chuyện rất dễ chịu, rồi tất cả chúng ta cất tiếng hát. Chúng ta thay phiên nhau nhớ những bài hát dân ca trào tếu, những bài mà người ta hát khi tiệc tùng hoặc khi say sưa.

Một người phi công có thể giả giọng nữ, chúng ta cùng nhau hát những bản tình ca vui nhộn rồi lại cười, lại hát. “Mười ngàn đám mây, một ngàn con chim, một trăm giọt nước mắt, hai mắt anh nhìn lên thiên đường chỉ thấy mình em, đôi mắt anh.” Bất thình lình chúng ta nghe thấy những bước chân nặng nề đi xuống cầu thang, rồi choang – một cái gì rơi xuống. Ta nhảy ra khỏi ghế, nhìn thấy Văn Phú, đầu cuốn băng, đứng tựa vào cái nạng. Mặt hắn tái nhợt đẫm mồ hôi, trông như một bóng ma. Bên ngoài bộ đồ ngủ hắn khoác lên cái áo không quân.

“Anh đang yếu thế dậy làm gì?” Ta kêu lên, chạy đến giúp hắn đi về giường. Gia Huy, các phi công khác cũng đứng dậy.

Văn Phú vung vẩy chiếc gậy trong không khí, “Sao mày có thể ca hát như thế?” hắn gầm lên. “Tao ốm nằm đấy, còn mày con đàn bà động đực! Tao là một anh hùng còn mày là một con đĩ! Con mắt mày nhướng lên theo trai hả?”

Ta cũng không hiểu là hắn nói gì nữa. “Anh nằm mơ dữ hà?” Ta cố gắng xoa dịu hắn. “Anh vẫn đang nói mớ. Về giường nằm đi.” “Đồ nói láo!” Hắn gầm lên, rồi lao vào chúng ta dùng gậy gạt tất cả thức ăn trên bàn xuống. “Mày làm bậy. Quỳ xuống, cúi đầu xin ta tha lỗi. Quỳ xuống!” Hắn đập cái gậy lên bàn.

Ta nhìn hắn. Con mắt còn nhìn được nom điên dại như mắt người say. Khuôn mặt hắn bộc lộ hết sự xấu xa của hắn, ta tự hỏi làm sao ta có thể lấy một kẻ như thế. Sao ta có thể để cho điều đó xảy ra? Văn Phú chắc phải đọc được suy nghĩ của ta với con mắt hư của hắn, bởi vì ngay sau đó hắn giơ tay tặng cho ta một cái tát nảy lửa trước mắt tất cả những người này. Ta há hốc miệng sững sờ, không còn cảm thấy đau đớn gì nữa. Ta nghĩ chính nỗi hổ nhục của ta mới là điều làm ta nhức nhối. Mọi người đều đứng lặng vì sửng sốt.

“Quỳ xuống!” hắn lại gào lên. Hắn bắt đầu giơ gậy lên, lúc đó Huê Lan đẩy vào vai ta, “Quỳ xuống, quỳ xuống”, cô ta kêu lên, ta thấy mình ngã xuống quỳ trên hai đầu gối. “Hãy nghe lời hắn. Xin lỗi hắn, chẳng mất gì.” Ta nhớ rõ điều này: tất cả mọi người không ai ngăn hắn lại. Họ trơ mắt nhìn trong khi ta nằm rạp xuống sàn, chẳng nói gì trong khi Văn Phú ra lệnh bắt ta nói. “Em xin lỗi, em sai, anh đúng. Tha thứ cho em.” Không ai mở miệng nói, “Thôi đủ rồi.” khi hắn buộc ta van lạy hắn hết lần này đến lần khác. Trong khi ta van xin, lạy lục, khóc lóc và đập đầu xuống nền nha, trong ta chỉ có một ý nghĩ, tại sao những người này không giúp ta? Tại sao họ đứng im như thể ta thực sự là người có lỗi? Giờ đây ta không đổ lỗi cho Helen vì những gì dì ấy đã làm ngày ấy. Huê Lan sợ hãi, cũng như những người khác. Nhưng ta cũng không sao quên được điều cô ta đã làm, người khác đã làm – nó thật sai trái và nguy hiểm. Nó nuôi dưỡng quyền lực của Văn Phú, làm cho hắn ngạo ngược hơn. Nhưng nếu ta nói điều này với Helen bà ấy sẽ chẳng nhớ gì hết trơn. Cũng giống như miếng vải màu trái đào ta đã cho dạo nào. Mới gần đây, chúng ta đến siêu thị vải, ta nói. “Coi nè miếng này có giống miếng vải tôi tặng chị hồi ở Trung Quốc không?”

“Vải nào?” bà ấy hỏi.

“Vải nào! Vải nào! Miếng vải màu trái đào với những bông hoa màu đỏ ấy”. Ta nhắc Helen nhớ lại “Tôi tặng chị vì chị đã bảo Gia Huy không tống Văn Phú vào tù. Chị biết hắn đã làm gì đấy, cái cô gái trên xe jeep với hắn đã chết. Chị lấy miếng vải, may một chiếc áo đầm mùa hè. Chị đã sung sướng sau đó phát cuồng lên khi chiến tranh kết thúc – nhớ không? Chị đã làm rách cái váy khi nhảy tưng tưng trong ngày chiến thắng.” “Ồ miếng vải ấy!” cuối cùng thì Helen cũng nhớ ra, “chị đâu có cho tôi, mà tôi tự mua đấy chứ. Tôi đi vào khu phố cổ trong thành phố mua miếng vải này từ một cô gái ngồi bên một cái bàn. Đúng rồi tôi vẫn nhớ. Cô ta đòi giá cao lắm, tôi phải mặc cả mãi.”

Vì thế con thấy đấy, làm sao ta có thể tranh cãi với trí nhớ của Helen? Sự thật sống trong một góc nhỏ lộn xộn trong đầu óc Helen, tất cả những điều tốt đẹp mà dì ấy vẫn muốn tin. Đôi khi ta cảm thấy ghen tị với dì ấy. Đôi khi ta ước ta không bao giờ cho dì ấy miếng vải đó.