← Quay lại trang sách

Chương 15 CON BỌ CHÉT TRÊN ĐẦU CON SƯ TỬ

Một lần cha con có một bài thuyết giảng, “Chúa đã tha thứ, còn bạn thì sao?” Ta thích bài thuyết pháp đó lắm. Nó cho ta một cảm giác bằng an trong lòng, nó giải tỏa cơn cuồng nộ trong ta. Ta vẫn nhớ chuyện gì đã xảy ra sau đó, một người Italia chủ một cửa hàng đồ điện, đã đối xử với ta rất tệ, hắn la hét ta chỉ vì ta muốn lấy lại tiền mua cái bóng đèn tròn, nó đứt bóng ngay khi ta mua xong. Hắn giả vờ không hiểu ta. Tiếng Anh của ta quá dở vì thế ta không lấy lại tiền được, ta tức điên lên. Nhưng rồi ta tự nhủ, “hãy tha thứ hãy tha thứ.” Ta nghĩ về những điều cha con nói, hãy để cho giọt nước mắt của Chúa Jesus chảy xuống từ cây thánh giá rửa trôi mối hiềm khích trong ta. Điều đó có tác dụng, ta không còn giận dữ nữa. Thế là ta cố bảo cho người bán hàng biết ta đã xoáy chiếc bóng đèn vào trong ổ điện như thế nào. Ngay lập tức y cắt lời ta, “Bà mua rồi, bà đã làm hỏng.”

Ta lại điên lên. Ta nhủ thầm, tha thứ, tha thứ. Nó lại có tác dụng. Ta không còn giận dữ nữa. Nhưng khi gã bán hàng nói, “Thưa bà tôi có việc phải làm,” thì ta bật ra, “Anh chẳng có việc quái gì hết!” Ta để cho cơn giận dữ bùng lên. Ta đã tha thứ nhiều lần nhưng cái gã này đâu có học được điều gì. Hắn là cái thá gì mà dám chỉ trích tiếng Anh của ta? Tiếng Anh của hắn thì cũng hơn gì ta, giọng Ý đặc.

Vì thế con thấy ta là thế đấy, dễ dàng nổi nóng, khó lòng tha thứ cho ai. Ta nghĩ đó là bởi vì Văn Phú. Ta không thể tha thứ cho hắn vì cái tai nạn ấy. Ta không thể tha thứ cho hắn vì những gì xảy ra sau đó. Tại sao ta lại phải bỏ qua?

Khoảng một năm sau tai nạn của Văn Phú, đó là đầu năm 1939, ta trở lại cũng cái bệnh viện ấy, lần này là để sinh một đứa con khác. Huê Lan đi cùng với ta, nhìn thấy ta trả 100 tệ trong số tiền hồi môn của ta để có một cái phòng riêng, hạng nhất. Đó là một số tiền rất lớn hồi bấy giờ tương đương với một hoặc hai ngàn đô Mỹ bây giờ.

Văn Phú không đến thăm ta cho đến khi ta sinh được hai ngày, một đứa bé gái nữa. Thế là lần đầu tiên nhìn con gái chỉ có một mình ta. Khi nó mở miệng khóc ta cũng khóc theo. Khi nó mở mắt, ta hi vọng nó thích cái mà nó nhìn thấy, người mẹ tươi cười mới mẻ của nó. Khi nó ngáp, ta bảo nó, “Ồ con mới giỏi làm sao, con học được điều đó nhanh quá.” Vào lúc Văn Phú đến thăm, mắt hắn đỏ nọc vì quá nhiều chúc tụng. Hắn mặc bộ quân phục không quân, mùi rượu theo hắn vào tận trong phòng. Đứa bé vẫn ngủ. Hắn dòm mặt con gái, cười rồi nói, “Con bé bỏng của ta,” rồi cứ nói đi nói lại câu ấy. Hắn cố gắng mở bàn tay nắm chặt của nó.

“Ồ nó xấu quá!” Hắn đùa. “Trọc đầu như ông sư, mập ú như một kẻ tham lam. Sao ta lại có một đứa bé xấu xí như thế này? Mà lại lười nữa chứ! Dậy đi vị thần bé bỏng.” Nhìn đôi lông mày của hắn nhảy múa ta có thể nói là hắn rất vui vẻ. Hắn cố gắng quyến rũ con gái hắn.

Sau đó hắn bế con bé lên trong đôi tay run rẩy vì rượu. Đứa bé quơ quơ tay bắt đầu khóc. Hắn đung đưa đứa bé lên xuống, đứa bé càng khóc to hơn. “Chuyện gì vậy?” Hắn hỏi, “Có chuyện gì vậy?” “Nhẹ nhàng hơn, thật dịu dàng,” ta gợi ý. Nhưng hắn không thèm nghe ta. Hắn bắt đầu tung con bé lên xuống như thể nó là một chiếc máy bay đồ chơi. Hắn hát cho nó nghe một bài hát bằng cái giọng ông ổng của người say. Con bé vẫn khóc. Ta đưa tay ra. Hắn trả lại con bé cho ta. Vài phút sau nó im lặng. Lúc đấy ta nhìn vào mặt Văn Phú. Hắn không có vẻ dịu đi hay tươi cười. Hắn giận dữ, như thể hài nhi bé bỏng này đã xúc phạm hắn – như thể đứa bé mới một ngày tuổi này đã có sự lựa chọn yêu ghét. Ta tự hỏi cái loại người gì lại đổ lỗi cho cả một đứa bé? Cái loại người gì bao giờ cũng nghĩ đến mình trước ngay cả với con đẻ của hắn?

Lúc đó cô y tá đi vào phòng đưa thuốc cho ta. Ngay lập tức, Văn Phú bảo cô, hắn muốn ăn một cái gì đó. Một tô súp nóng sốt ngon lành-mì với gân bò. Hắn gọi món ấy tỉnh bơ như một người khách trong nhà hàng. Hắn bảo cô phải cho nhiều thịt. Đó là điều mà hắn cũng đòi hỏi trong một nhà hàng. Hắn cũng bảo cô mang cho hắn một loại rượu nếp thơm, không phải một loại rượu của địa phương rẻ tiền mà loại tốt nhất.

Trước khi hắn tiếp tục, cô y tá cắt ngang: “Xin lỗi không phục vụ thức ăn cho thân nhân mà chỉ phục vụ cho bệnh nhân.”

Văn Phú trừng trừng nhìn cô một lúc. Sau đó hắn đấm nắm tay vào tường. “Cô là người vẫn còn nguyên đôi mắt,” hắn hét lên với người y tá, “Cô biết ai đứng trước mặt mình không? Một vị anh hùng đã hi sinh cái này, vì tổ quốc.” Hắn chỉ vào một con mắt bị hỏng sau tai nạn. Ta muốn bảo cô không phải vì hành động anh hùng mà hắn làm hỏng một con mắt mà ngược lại. Nhưng cô y tá đã bỏ ra khỏi phòng. Sau đó ta đã phạm một sai lầm lớn. Ta bảo hắn đừng có bầy hầy như thế. Thực ra ta không nói từ “bầy hầy.” Ta không bao giờ nói một cái gì trực tiếp như thế đối với chồng ta. Vì vậy có thể ta đã nói là “Họ bận lắm.”

Bởi vì ta bào chữa cho họ, Văn Phú càng trở nên điên cuồng hơn. Hắn chửi rủa bệnh viện gào lên đến rát cả họng. Ta xin hắn hãy bình tĩnh lại. “Vì con bé,” ta nói, “con nó vừa mới ra đời, một đứa bé không nên nghe những điều như vậy.”

Ngay lúc đó thì đứa bé lại khóc. Văn Phú thôi không la hét. Hắn trừng trừng nhìn đứa con gái bé bỏng, giận dữ vì tiếng khóc của nó. Rồi hắn bỏ đi. Tốt, ta nghĩ, hắn đã đi rồi. Nhưng chưa đầy 15 phút sau cô y tá đã chạy lại phòng ta giận run lên. “Cái gã chồng chị ấy, hắn là cái thằng điên kiểu gì vậy?” Rồi cô kể cho ta nghe Văn Phú đã chạy xuống cầu thang tìm đến bếp của bệnh viện. Hắn cầm một con dao phay lớn, cái loại dùng để chặt xương ống ra làm hai – phăm phăm – hắn bổ lên bàn, lên tường, lên ghế. Hắn đập vỡ chai lọ bát đĩa. Hắn ngửi từng nồi thức ăn, chửi những món chứa trong đó rồi đổ tất cả đồ ăn họ đang nấu đi. Cuối cùng khi lưỡi dao đã gãy, hắn đe dọa tất cả những người đầu bếp, phụ bếp, những người đang sợ hãi nhìn hắn từ ngoài cửa: “Nếu chúng mày báo cáo việc ta đã làm, ta sẽ quay lại, chặt xương chúng mày ra làm đôi.” Nghe điều này ta xấu hổ quá chừng. Ta không thể nghĩ ra được một điều gì để nói. Ta khẩn khoản xin cô y tá hãy tha thứ cho ta vì đã đem đến những rắc rối cho bệnh viện. Ta hứa sẽ trả cho bệnh viện thêm 100 tệ nữa. Ta hứa sau này sẽ đi xin lỗi tất cả những người phục vụ trong nhà bếp. Sau khi cô y tá đi khỏi, ta nghĩ về câu hỏi của cô: Chồng ta là cái thằng điên kiểu gì vậy? Lần này ta không đổ lỗi cho mình vì đã lấy hắn làm chồng, ta trách mẹ hắn – vì đã sinh hắn ra đời, vì đã chiều theo mọi yêu sách của hắn như thể bà chỉ là đầy tớ của hắn, vì bao giờ cũng cho chồng, con trai ăn trước, chỉ cho phép ta ăn sau khi ta đã nhặt hết thức ăn dính vào râu bố chồng ta, vì đã để cho sự quái đản trong tính cách của con trai lớn lên thành một thú vui độc ác, để cho hắn bao giờ cũng cảm thấy quyền lực của hắn bị đói khát.

Có lẽ điều này là không đúng, đổ lỗi cho một người đàn bà khác vì nỗi thống khổ riêng của ta. Nhưng đó là điều mà ta đã được dạy dỗ - không bao giờ chỉ trích người đàn ông hoặc cái xã hội mà họ thống trị, hoặc Khổng Tử - cái người đàn ông đáng sợ đã thiết lập nên kỉ cương cho cái xã hội này. Ta chỉ có thể đổ lỗi cho những người đàn bà khác nhát sợ hơn ta.

Bấy giờ ta cũng bắt đầu khóc, đứa con bé bỏng cùng khóc với ta. Ta nhét vú vào miệng nó nhưng nó không chịu bú. Ta đung đưa nó nhẹ nhàng nhưng vô ích. Ta hát cho nó một bài hát ru dịu dàng. Nhưng nó không nghe. Nó khóc thật lâu, cho đến khi nó không còn hơi để khóc thành tiếng. Nó thổn thức trong lòng, ta biết là nó sợ. Một người mẹ chỉ nghe cũng biết mọi thứ về con mình, nó đói hay mệt, tè ướt hay đau. Đứa bé của ta đang sợ. Vì thế ta làm một điều mà ta nghĩ là đúng. Ta nói dối.

“Con sẽ có một cuộc đời đẹp tươi phía trước,” ta thì thầm với nó. “Người đàn ông nào vừa la hét? Chúng ta không biết là ai. Không phải cha con. Chắc chắn không rồi. Cha con là một người hiền lành. Người cha thực sự của con sẽ đến thăm con sớm, đừng khóc nữa.” Chẳng bao lâu nó dịu xuống, bắt đầu ngủ. Đêm ấy ta đặt tên nó là Di Cô “niềm vui vượt lên sự cay đắng”. Hai từ trái nghĩa nhau, cái điều tốt đẹp đầu tiên sẽ trừ bỏ điều xấu xa thứ hai. Đó là khi mẫu tự này viết lên trên mẫu tự khác. Bằng cách ấy ta mơ ước con gái ta sẽ còn một cuộc sống dễ chịu, vượt qua được những khó khăn. Ta yêu đứa bé này ngay từ đầu. Nó có đôi tai giống đôi tai Mặc Sầu – Nhưng Di Cô mở mắt ra dõi theo ta. Nó chỉ bú sữa của ta không chịu uống sữa của Tẩu nãi nãi, chị vú của nó vì thế ta cho chị Tẩu nãi nãi nghỉ. Con thấy đấy Di Cô biết ta là mẹ của nó. Ta bế bổng nó lên trên trời, cả hai chúng ta cùng cười khanh khách. Bé thông minh lắm – chưa đầy ba tháng bé đã biết nắm tay lại chạm vào tóc ta không bao giờ giật. Nhưng mỗi khi Văn Phú bắt đầu la hét, bao giờ nó cũng khóc, khóc suốt đêm, sẽ không nín cho đến khi ta lại nói với nó những lời lừa mị, “Di Cô ngoan nào, đời con rồi sẽ tốt đẹp thôi.” Làm sao ta biết rằng đó là cách người mẹ dạy con mình sợ hãi.

Một hôm, có lẽ lúc ấy Di Cô được sáu tháng. Con bé giúp việc đến tìm ta bảo với ta rằng nó muốn nghỉ việc. Nó mới 14 tuổi, bé nhỏ, bao giờ cũng vâng lời, cả Huê Lan cũng không có lí do gì để trách mắng nó. Khi ta hỏi tại sao nó muốn nghỉ, nó xin lỗi bảo là nó làm việc không tốt.

Đó là cung cách của người Hoa, tự hạ thấp mình, nói rằng mình không xứng đáng khi thực sự muốn nói rằng mình xứng đáng hơn, ta có thể đoán tại sao nó không vui như vậy. Gần đây, Huê Lan bắt đầu yêu cầu con nhỏ làm rất nhiều việc vặt mà bây giờ việc vặt lại trở thành việc lớn hơn. Con bé đáng thương không bao giờ nói lời từ chối với bất cứ ai, chẳng bao lâu phải làm gấp đôi công việc mà chỉ nhận được món tiền ta trả nó. Ta không muốn mất nó, vì thế ta nói. “Con là một đứa giúp việc rất giỏi, chăm chỉ, xứng đáng được nhiều tiền hơn phải không?”

Nó lắc đầu, khăng khăng rằng nó không xứng đáng. Ta nói, “Cô vẫn thường khen con mà?” nó gật đầu. Lúc đó ta nghĩ rằng Huê Lan đã đối xử với nó không ra gì, chửi mắng nó sau lưng ta, bây giờ con bé không thể chịu được nữa. Ôi, ta giận điên lên. “Có ai làm gì con nào, có ai đó đã gây rắc rối với con? Đừng sợ, nói cho cô nghe.” Nó bắt đầu khóc, gật gật đầu nhưng không nhìn ta.

“Có ai đó làm khó dễ con phải không?” Nó gật đầu nước mắt chan chứa. Sau đó nó bảo ta đó là ai. “Thái thái, chú không tốt, chú xấu lắm. Con biết thế. Nhưng con không đổ lỗi cho chú.”

“Đổ lỗi? Con nói thế là nghĩa gì vậy?” Ta hỏi, đang là mùa hè, nhưng một cơn ớn lạnh chạy khắp châu thân. Ta ra lệnh cho con bé phải nói. Ta lắng nghe chuyện của nó cùng với tiếng khẩn khoản xin ta hãy tha thứ cho nó, nó tát vào mặt mình hai lần, thú thật nó là đứa có lỗi. Nó là kẻ yếu đuối đã để cho hắn chạm vào người. Nó kêu khóc, cầu xin ta không nói bất cứ điều gì với hắn. Lúc này ta không nhớ chính xác ta đã làm gì để buộc nó phải nói, ta đã biết rằng chồng ta đã đặt bàn tay bẩn thỉu của hắn lên người nó từ khi ta ở trong bệnh viện, rằng con bé đã phải vật lộn với hắn, lần nào hắn cũng “cưỡng hiếp” nó. Con bé con ngây thơ như thế làm sao nó biết được từ đó? Nó chỉ biết đổ lỗi cho mình. Ta gạn hỏi nó nhiều lần: Những vết bầm tím trên mặt mà nó nói do sự bất cẩn của nó - có phải là do hắn cưỡng bức nó không? Những lần nó kêu bị mệt, bao giờ cũng vào buổi sáng – có phải là vì những chuyện xảy ra trước đó không? Mỗi lần con bé thú nhận một điều gì đó nó lại kêu khóc, tự tát vào má mình. Ta vỗ vỗ vào cánh tay nó bảo nó ta sẽ giải quyết vấn đề này.

Khuôn mặt nó biểu lộ sự sợ hãi. “Cô sẽ làm gì?” Ta nói, “Con không phải lo lắng về điều đó nữa.” Ta cảm thấy mệt rã rời, hoang mang. Ta lên gác vào phòng Di Cô. Ta ngồi trên ghế ngắm nhìn con gái đang ngủ. Bao nhiêu sự thanh bình trong chiếc nôi của nó. Thật là một người đàn ông vô đạo, làm sao ta có thể biết được có một hạng đàn ông táng tận lương tâm như thế tồn tại trên đất nước này? Tai nạn năm ngoái không dạy cho hắn một điều gì cả. Rồi ta nghĩ, mọi người sẽ nghĩ gì khi biết chuyện này? Họ sẽ nghĩ gì về ta? Có phải là ta chống lại chồng ta để bảo vệ đứa ở gái không? Ta hình dung Huê Lan sẽ chỉ trích ta, đổ cho ta cái lỗi chỉ nhìn thấy mặt xấu của sự việc, và người khác. Ta hình dung người khác phê phán ta vì đã không chăm lo việc nhà tốt hơn. Ta hình dung mọi người cười cợt ta – một người chồng léng phéng với người đầy tớ gái vì vợ hắn ta là chưa đủ. Chuyện xưa như trái đất!

Sau đó ta nghĩ, điều hắn làm sai trái, có thể là tội ác nhưng cũng chẳng có gì ghê gớm. Nhiều người đàn ông đã làm những việc đồi bại như thế với con ở. Chẳng ai tin lời một đứa đầy tớ? Chồng ta sẽ bảo là nó nói láo, tất nhiên là hắn sẽ nói thế. Hắn sẽ nói rằng con bé đã quyến rũ hắn – một vị anh hùng. Hoặc hắn sẽ nói nó đã ngủ với nhiều phi công khác, hắn có thể nói đủ thứ. Còn ta được lợi gì trong việc buộc tội việc làm bẩn thỉu của hắn? Nhận được những cái nhìn thương hại từ vợ chồng Huê Lan? Tất cả chỉ là chuyện nhục nhã. Ta sẽ làm được gì nếu ta cố gắng giúp đỡ con bé? Chỉ có thêm những rắc rối trên giường ngủ của ta. Sau đó ta sẽ mất cái gì? Ta thậm chí cũng không dám nhớ lại về điều đó, ta ngồi xuống, hình dung một câu thành ngữ mà thím Lớn đã dạy ta mỗi khi ta ca thán vì đã bị trách oan: “Đừng có đập con bọ chét trên đầu con hổ.” Đừng có giải quyết một vấn đề rắc rối bằng việc gây ra một rắc rối lớn hơn. Vì thế ta quyết định không làm gì, cũng không nói gì. Ta làm cho mình điếc. Ta để cho mình cũng giống như Huê Lan, Gia Huy cái lần họ làm ngơ khi Văn Phú đánh ta. Ta cho con bé ba tháng lương, viết cho nó một lá thư giới thiệu thật tốt. Nó bỏ đi, ta không biết là nó đi đâu. Ta nghĩ nó rất biết ơn ta khi nó có thể lặng lẽ ra đi. Hai ngày sau khi Văn Phú hỏi nó đi đâu ta bảo “Con bé ấy à? Ồ mẹ nó nhắn nó về quê lấy chồng. Vì thế em cho nó nghỉ.”

Vài tuần sau ta nghe nói đứa đầy tớ gái đó đã chết. Huê Lan kể cho ta nghe khi ta đang chăm sóc Di Cô, rằng con bé đã đến giúp việc cho một gia đình khác. Một buổi sáng, sau khi biết là mình có bầu, nó đã dùng đến cái cách giải quyết dã man của dân quê. Nó lấy một nắm rơm từ một cái chổi, tống vào cửa mình cho đến khi máu chảy ra xối xả, rồi nó chết vì bị băng huyết.

“Sao nó ngu thế, lại dùng đến một nắm rơm,” Huê Lan nói. “Cái gia đình đã chứa nó – ôi họ phát khùng lên vì con nhỏ đã thành ma ở nhà họ. May mắn cho chúng ta là nó đã không chết ở nhà này.”

Trong khi nghe Huê Lan nói ta có một cảm giác lạ lùng. Như thể ta nhận được vô số cái tát vào mặt, những người vô hình nhìn vào mặt ta, nói đó là lỗi của ta. Ta có thể nhìn thấy đứa con gái nằm trên sàn máu túa ra xung quanh, người chủ bực mình vì nó đã để lại cho họ một rắc rối. Tất nhiên Huê Lan không biết rằng Văn Phú là người đã đưa con bé đến kết cục bi thảm đó. Hoặc có thể cô ta biết mà không nói gì. Cũng vậy thôi, làm sao cô ta có thể nghĩ như thế? Chê trách một đứa đầy tớ gái vô phương tự vệ, vui mừng vì chúng ta đã rũ bỏ được nó trước khi nó thành ma. Tại sao cô ta không nhớ đến người chị, cái người cũng chết thương tâm như vậy? Rồi ta cảm thấy mình cũng xấu xa bởi vì ta cũng trở nên gần giống như Huê Lan: lòng lạnh tanh không một sự cảm thông, chỉ cảm thấy nhẹ nhõm vì ta đã thoát được rắc rối.

Sau khi Huê Lan đi khỏi ta bế Di Cô lên gác ta bảo nó, “Đừng có như mẹ. Con thấy ta khiếp nhược như thế nào? Đừng có như mẹ nghe con.” Khi Văn Phú trở về nhà đêm hôm ấy lần đầu tiên ta đã để lộ sự giận dữ của ta đối với hắn, ta đợi xong bữa cơm tối, tàn bữa tiệc trà, cuộc đánh bài cũng như những câu chuyện ngồi lê đôi mách và tiếng cười. “Anh còn nhớ con bé giúp việc nhà mình chứ?” Ta hỏi khi chúng ta đã ở trong phòng riêng. “Hôm nay nó đã chết.”

Văn Phú đang cởi giầy, “Đôi dép lê của anh đâu rồi?” Ta có thể nghe tiếng vợ chồng Huê Lan nói vọng lên từ dưới bếp. Ta đóng cửa phòng lại, lặp lại những điều vừa nói lần này to hơn. “Đứa ở đó đã chết.” Khi hắn tiếp tục hỏi về đôi dép lê của hắn, ta thêm. “Nó chết trong khi cố gắng tống cái thai của anh ra ngoài đồ con lừa ạ.” Hắn đứng dậy, “Mày nói cái quỷ gì vậy. Mày nghe đứa nào nói láo lếu vậy?” hắn hỏi, cúi về phía ta, trợn trừng cả con mắt hư lẫn con mắt lành. Ta không nhìn xuống. Ta trừng trừng nhìn lại hắn, mạnh mẽ. Ta có một cảm giác mới lạ giống như có một vũ khí bí mật. Bất thình lình - ầm. Hắn đá vào một cái ghế. Hắn chửi bới. Hắn hét vào mặt ta. “Mày là cái thá gì mà dám buộc tội tao?”

Nghe thấy Di Cô khóc thảng thốt phòng bên, ta định bước về phía phòng nó nhưng Văn Phú hét lên chặn ta lại. Ta không sợ, ta đi về phía bé, nhìn thấy nó đứng lên trong cũi giơ một tay lên cho ta vỗ về. Ta bế nó lên, vuốt ve nó. Văn Phú đi theo ta, vẫn la hét, đập phá đồ đạc, nhưng ta không sợ. Lần này hắn không làm ta sợ, ta đặt Di Cô trở lại trong cũi.

“Tôi biết hết cả rồi!” ta hét vào mặt hắn. “Anh đã phủ lên con bé, làm hại đời nó, ai mà biết là bao nhiêu lần. Và bây giờ tôi nói cho anh biết anh đi mà làm cái chuyện đồi bại của anh ở đâu thì làm. Ra ngoài đường kia kìa, tôi cóc quan tâm, nhưng mà đừng có làm trên giường tôi nữa.” Hắn giơ nắm đấm lên, “Cứ đánh đi, tôi sẽ không thay đổi đâu.” Ta hét lên, “Anh hùng, người anh hùng vĩ đại! Anh chỉ bắt nạt được một đứa bé thôi.”

Hắn có vẻ rất sững sờ. Hắn nhìn về phía Di Cô đang đứng sau lưng ta, trong cũi. Nó khóc nức nở. Hắn hạ tay xuống, đi rất nhanh về phía chiếc cũi. Ta nghĩ rằng hắn rất buồn vì đã làm nó khóc. Ta nghĩ hắn sẽ ẵm nó lên, nói rằng hắn rất tiếc, rất ân hận. Nhưng ngay trước khi ta nghĩ đến việc chặn hắn lại thì hắn đã tát con bé – veo – hắn thẳng tay tát vào mặt nó, một bên má của nó đỏ ửng lên hằn năm vết ngón tay.

“Câm mồm!” hắn hét lên.

Mắt con bé nhắm tịt lại vì đau. Miệng nó há ra nhưng không một tiếng nức nở nào lọt ra ngoài. Nó không thể thở được. Nó quá đau. Ta vẫn có thể nhìn thấy cái vẻ mặt của bé, đau đớn hơn bất cứ cái tát nào ta nhận được trong đời.

Ta nhào đến chỗ Di Cô, nhưng Văn Phú xô ta, ta té xuống. Sau đó ta nghe thấy nó nấc lên. Cuối cùng hơi thở đã trở lại với nó. Nó khóc to hơn, the thé hơn. Veo! Veo! Văn Phú tát nó cái nữa, cái nữa, cái nữa. Vào lúc ta lồm cồm bò dậy được, đứng giữa hai người, ta thấy Di Cô cuộn tròn người lại như một trái banh nhỏ. Nó phát ra những tiếng rống của một con thú nhỏ. Ta khóc, van xin hắn. “Tha lỗi cho em. Em sai rồi. Tha lỗi cho em.”

Sau đó, mỗi lần Di Cô nhìn thấy cha nó đi vào phòng, nó ngã xuống cuộn tròn lại cho thật nhỏ cũng giống như lần ấy. Nó mút tay gây ra những tiếng động khe khẽ. Sự thực là thế, mới chỉ có sáu tháng tuổi mà con bé đã học được một điều không bao giờ cất tiếng khóc. Con tưởng tượng được không – một con bé học biết sợ trước khi nó học biết bò?

Nó trở thành một đứa bé kì lạ. Nó không bao giờ nhìn vào mặt người khác. Nó giật tóc ở một bên đầu. Nó đập đầu vào tường. Nó vẫy tay trước mặt, cười. Khi tập đi, nó đứng trên đầu ngón chân như các vũ nữ balê. Nó kiễng chân đi nhanh qua phòng, như thể nó có thể bay lên với mỗi một bước đi. Nhưng mỗi một lần nhìn thấy cha nó đi vào, nó lại lăn đùng xuống cũng giống như lúc nó còn bé tí. Nó không khóc, không nói một lời, chỉ há mồm nhưng không phát ra âm như giọng nói của một hồn ma.

Giọng nói của nó đang du dương rất cao, rất hay giống như cái cách ta thường nựng nó, “Di Cô nhìn mẹ này, nhìn mẹ này,” rồi bỗng nhiên trở nên gay gắt, gầm gừ như kiểu Văn Phú la hét, “Di Cô, đồ ngu xuẩn. Cút đi!” Đây là những âm thanh duy nhất mà nó phát ra.

Nó hết sức lạ lùng, làm ta hết sức lo âu. Nhưng Huê Lan luôn bảo ta, “lớn lên nó sẽ thay đổi. Bây giờ nó quá sợ hãi. Ai cũng thế thôi. Khi chiến tranh kết thúc, nó sẽ thay đổi. Rồi chị sẽ thấy.”

Ta muốn tin cô ta. Tại sao lại không tin chứ? Ta chưa nuôi con bao giờ. Ta không muốn nghĩ là con ta bị mất trí. Ta luôn nghĩ là chiến tranh rồi sẽ kết thúc, rồi Di Cô sẽ khá hơn. Ta tin như thế, hi vọng này dẫn đến hi vọng khác.

Ngày mùng 7 tháng Bảy là ngày được coi là may mắn. Nhưng hóa ra nó lại là một ngày toàn những việc đau lòng. Ta lại có bầu tháng thứ 6 hay tháng thứ 7. Di Cô có thể là được 17 tháng, lúc đó chắc là vào năm 1940. Một ngày hè, thời tiết nóng nực một cách khác thường làm cho mọi người đều khó ở.

Hôm ấy chúng ta biết được là quân Anh đã tiến gần đến Burma Road để giúp đỡ quân Nhật. Cái ngày Gia Huy mời một viên chức ngành hỏa xa đến dùng bữa trưa để anh ta có thể thảo luận về các phương tiện giao thông khác nhau. Cái ngày mà Huê Lan ra chợ mua đồ, cô ta mua món nào cũng bị hớ. Người viên chức mang theo người vợ đến ăn trưa, một người phụ nữ làm cho ta nhớ đến thím Lớn khi bà nói, “Cô không nên ăn những món cay. Nếu không đứa trẻ ra đời sẽ có tính khí rất xấu.” Sau đó bà ta chén luôn món mì cay mà ta rất thích.

Khi mọi người đã ăn xong, ta vẫn còn bón cho Di Cô ăn vài miếng đồ laghim còn lại. Gia Huy, Văn Phú, người công chức nọ uống rượu, nói chuyện về thời giá của đồng tiền. Huê Lan quạt phành phạch, mắt díu lại sau bữa ăn.

“Mọi thứ đều đi xuống một cách thảm hại,” ông viên chức nói với giọng quyền thế. “Tiền năm ngoái bằng nửa giá trị ngày hôm nay. Đó là điều mà chúng ta có thể biết là chúng ta thắng hay thua. Nhìn vào đồng tiền ấy. Kẻ thù không thể kiểm soát đất nước này chỉ bằng việc kiểm soát đồng tiền.”

“Vậy thì Trung Quốc phải in ra nhiều tiền nữa.” Văn Phú nói, khoác lên mặt mình một cái vẻ cái gì cũng biết. Ta biết là hắn cố tỏ ra hơn hẳn vẻ bề trên của ông khách. “Phát cho mọi người nhiều tiền hơn. Họ sẽ tiêu nhiều hơn. Mọi người sẽ làm nhiều hơn. Tuy vậy tốt hơn là để cho người ngoại quốc cống nộp tiền cho chúng ta nhiều hơn.”

Gia Huy lắc đầu, “Dở ẹc. Sự can thiệp của nước ngoài vào ngay từ đầu đã làm cho Trung Quốc sa lầy, chia chúng ta thành những mảnh nhỏ quá yếu để có thể cùng nhau chiến đấu.” “Đó là lí do mà người ngoại quốc phải trả tiền,” Văn Phú cứ khăng khăng, “để dọn sạch những thứ mà chúng mửa ra. Bảo chúng cung cấp thêm tiền cho chúng ta chiến thắng.”

Người khách cười, quay sang nhìn ta chỉ ngón tay vào Văn Phú, “Phu nhân Tưởng Giới Thạch, phu quân của bà cuối cùng đã có một cách để giải quyết tất cả những vấn đề của chúng ta. Thật đơn giản, chỉ cần sự giúp đỡ của ngoại bang. Chào ngài Roosevelt, chào ngày Churchill, đây là cái bát ăn xin của tôi. Hãy cho chúng tôi 100 triệu đô.”

Ta nghĩ ông khách này khá thô lỗ. Nhưng ta cũng cười góp, vì lịch sự. Ta biết Văn Phú không vui gì. Vì thế ta chọc cho hắn vui lên, “Anh sẽ cần một cái tô thật bự,” ta nói rồi mỉm cười, đó là một sai lầm lớn!

Mặt Văn Phú tím bầm, “Có thể tao sẽ cho mày một cái bát đi ăn mày.” Ngay lập tức, mọi người im phăng phắc, xấu hổ. Ta cố gắng nuốt nước mắt vào trong. Bất thình lình Di Cô xoay người sang phải rồi sang trái, cất tiếng hát. Nó múa tay trước mặt, hát lên bằng cái giọng cao non nớt của nó, sau đó lại gầm gừ những tiếng to, the thé, một âm thanh mà nó thường biểu diễn.

Bà khách nhào tới, chạm vào trán Di Cô, “Ôi, có chuyện gì không ổn với con bé vậy? Nó ốm à?”

Điều này làm cho Văn Phú thậm chí thêm giận dữ hơn. “Di Cô!” hắn thét lên, đập vào tay nó. “Thôi ngay. Đồ ngu, câm mồm!”. Nhưng Di Cô lại quay nhanh hơn, hát đi hát lại câu này, “Di Cô, câm mồm, đồ ngu!” Ta muốn bệnh khi nghe nó hát. Vợ chồng người công chức hỏa xa vội vã ra về. Gia Huy, Huê Lan trở về phòng họ, ngủ trưa. Khi còn lại chúng ta trong phòng, Văn Phú la lối hồi lâu, chửi ta là một người mẹ tồi tệ, một người mẹ không biết dạy con cho ra hồn, để cho Di Cô là một đứa bé không biết vâng lời. Lòng ta đau quặn lại, se thắt vì lần đầu tiên ta nhìn Di Cô theo cách mà vợ ông viên chức đã nhìn. Sáng hôm sau, bụng ta đau thật, ta biết rằng đó là do thức ăn ngày hôm trước. Ta tự nhủ, ồ ta hi vọng Huê Lan không mua rau ôi của những người Miến Điện. Những người này có quá nhiều thói quen rất mất vệ sinh – dùng phân để tưới rau, làm lây lan những mầm bệnh: tả, kiết lị, thương hàn… Trong khi lo lắng về điều này, ta nhận thấy Di Cô cũng bị ốm. Nó không khóc. Nó chỉ ngủ li bì suốt ngày. Vì thế làm sao ta biết được chuyện gì xảy ra?

Bệnh tiêu chảy của nó bắt đầu ngay chiều hôm ấy. Cho đến tối nó vẫn chưa bớt, con bé không chịu ăn uống gì, trong khi Văn Phú ra khỏi nhà đi đánh bài mạt chược ở nhà một người bạn. Mắt nó đã mở nhưng có vẻ như nó chẳng nhìn thấy gì cả. Ta thật là ngu xuẩn. Ta bảo Huê Lan, “Có lẽ tôi phải đưa nó vào bệnh viện. Chị nghĩ sao?” Tại sao ta lại hỏi Huê Lan điều đó? Ta nên mang Di Cô vào bệnh viện ngay, nhưng ta lại tin vào điều Huê Lan nói, “Chị cần phải xin ý kiến bác sĩ trước. Chị không thể đi đến đấy một mình được.”

Ta nhớ có một bác sĩ đang chơi mạt chược ở ngay cái chỗ mà Văn Phú đang chơi, một nơi cách nhà ta khoảng 15 phút đi bộ, ta chạy đến đấy.

“Con gái mình bị ốm,” ta thì thầm với hắn khi đến nơi. “Chúng ta cần một bác sĩ để đưa con đến bệnh viện.” Hắn làm như thể hắn không hề nghe ta, vẫn tiếp tục chơi bài. Ông bác sĩ, ngồi cùng bàn với Văn Phú, nhìn ta hỏi, “Có chuyện gì vậy?” ông ta hỏi. Ta lặp lại những điều đã nói, bảo ông ta biết Di Cô ốm như thế nào.

“Nó rất yếu do bị tiêu chảy. Hơi thở ngắt quãng, mắt nó đảo tới đảo lui vì sốt, tôi sợ quá,” ta nói. Những người đàn ông đang đánh bài cũng chú ý. Ông bác sĩ đứng dậy, “Tôi phải đi,” ông ta nói.

Văn Phú nhảy lên. “Cứ chơi đi! Cứ chơi tiếp đi. Vợ tôi chỉ phóng đại lên thôi.” Hắn cười nhạt. “Cô ta thấy một con kiến thì nghĩ là con sư tử. Con nhỏ ho một tiếng cô ta nghĩ đó là bệnh viêm phổi. Ngồi xuống tiếp tục chơi.” Ta không chịu bỏ đi. Ông bác sĩ vẫn đứng. “Lần này bệnh nghiêm trọng lắm, tôi không phóng đại đâu,” ta nói nhỏ, “nó có thể bị chết.” Văn Phú điên tiết vì ta dám nói trái ý hắn. “Nếu nó có chết, tôi cũng không quan tâm!” Hắn hét lên, rồi ngồi xuống, vớ lấy một quân bài. “Cô ta chỉ cố gắng đuổi tôi về nhà trước khi tôi mất hết số tiền được bạc ấy mà,” hắn nói với nụ cười rộng ngoác. Những người khác cười với vẻ ái ngại, lại bắt đầu chơi bài. Ông bác sĩ lại ngồi xuống.

Đó là những việc đã xảy ra. Ta không phóng đại. Hắn đã nói như thế trước mặt tất cả những người này. Nếu nó có chết, tao cũng chẳng quan tâm. Đúng là những lời như vậy. Những người này cũng nghe thấy. Họ chẳng làm gì.

Ta đứng đó, miệng há ra suy nghĩ: Hắn lấy ở đâu ra quyền áp chế những người này? Hắn đã làm gì khiến họ sợ hắn như thế? Ta chạy về nhà, “Vô ích,” ta bảo Huê Lan, “Bác sĩ không đến.”

Trong một giờ dài dằng dặc sau đó, Huê Lan và ta chạy lên chạy xuống cầu thang mang nước sạch lên để tắm cho Di Cô, cạy miệng nó đổ nước lọc vào. Nhưng Di Cô không chịu uống nước chỉ ngoảnh mặt đi.

Có thể là một tiếng sau cái cơ thể bé bỏng của nó bắt đầu co giật, sau đó nằm thẳng đuỗn ra trước khi lại lên cơn giật lần nữa. Ta bế nó lên, chạy xuống cầu thang ra ngoài cửa, chạy xuống con đường tối om. Huê Lan chạy theo ta.

Họ vẫn đánh bài, cười cợt, uống rượu và hút thuốc. “Anh nhìn đi, nhìn đi.” Ta điên dại gào lên với thằng chồng, chìa Di Cô cho hắn xem. Bấy giờ bọn đàn ông dừng lại, đứng lên ngay lập tức. Cả phòng im phăng phắc, cái thân hình bé bỏng của Di Cô giãy đành đạch, cố gắng tuột ra khỏi tay ta. Ông bác sĩ chạy đến chỗ chúng ta ngay. “Con đàn bà ngu ngốc này!” Văn Phú la lên rồi bắt đầu chửi. “Tại sao mày không bảo ông là con bé bị nặng như vậy? Mày là mẹ cái kiểu gì vậy?” Hắn làm như thể hắn đã quên ráo mọi chuyện! Không một ai trong phòng mở miệng nói: “Anh nói láo. Chỉ một giờ trước đây, cô ta đã bảo anh điều đó.” Chỉ có ông bác sĩ nói. “Nhanh lên. Ai có xe nào?”

Trên đường đến bệnh viện, Văn Phú chửi rủa ta suốt. Ta không nhớ hắn nói gì, ta chẳng thèm nghe nữa, ta chỉ ôm Di Cô thật chặt vào lòng. Ta cố gắng làm cho thân hình của bé dịu xuống, cố gắng giữ bé ở bên ta. Nhưng ta biết là không còn hi vọng gì.

“Nào bây giờ, con bỏ mẹ mà đi,” ta nói. “Mẹ sẽ ra sao nếu không có con?” Ta như điên cuồng vì đau khổ. Sau đó ta thấy nó đưa mắt nhìn ta. Đó là lần đầu tiên nó nhìn ta như thế, nhìn ta với con mắt thấu hiểu, như thể cuối cùng nó đã nhận ra ta.

Ta nghĩ ta đã tưởng tượng ra điều đó chỉ bởi vì thời gian còn lại của nó rất ngắn ngủi. Nhưng ta lại chăm chú nhìn nó. Cái nhìn của nó đầy vẻ hiểu biết. Nó không cười, không khóc, cũng không quay đầu đi. Nó quan sát ta, lắng nghe ta nói. Ta nhớ lại một điều ta đã nghe trước đó: rằng trước khi một đứa trẻ qua đời, nó sống nốt quãng thời gian ngắn ngủi còn lại như là sống suốt quãng đời dài lâu của nó. Nó nhận chân về cuộc đời, bất kể nó bé như thế nào. Trong đôi mắt của nó ta đọc được những lời nhắn nhủ, “Đây là cuộc đời ngắn ngủi của con, không tốt, không xấu hơn một cuộc đời trọn vẹn. Con chấp nhận, không đổ lỗi cho ai.”

Sáng hôm ấy, ta nhìn Di Cô ra đi. Văn Phú đã về nhà từ sớm, sau khi bác sĩ bảo hắn, “Không có hi vọng, quá trễ rồi.” Chỉ có ta ở lại trong phòng bệnh với Di Cô. Ta nghĩ về tất cả những việc làm sai trái của mình, tại sao ta không bảo vệ nó tốt hơn, sao ta lại lừa dối nó khi bảo nó là nó sẽ có một cuộc đời tươi đẹp. Ta nhìn nó từ từ rời khỏi cuộc đời ta, trở nên nhỏ bé hơn, nhỏ bé hơn nữa. Ta bảo nó là ta rất buồn. Sau đó nó chỉ vào ngón chân của nó giống như chân diễn viên balê rồi ra đi mãi mãi. Ta không khóc. Vào lúc đó ta chẳng còn nước mắt, ta kiệt quệ cảm xúc. Ta bế nó lên. Ta biết ta không cần phải nói dối nó nữa. “Tốt cho con đó, con gái bé bỏng. Con đã trốn thoát được. May cho con.”

Nói ta nghe đi! Nếu con nhìn thấy điều đó xảy ra với con ruột của mình, con có tha thứ không?