Chương 17 BỐN CỬA Ô
Một năm nữa lại trôi qua, Văn phú vẫn chứng nào tật ấy. Nhưng ta thì thay đổi, từng tí một.Với Huê Lan, những người khác thì ta vẫn vậy. Nhưng đó là bởi vì ta chôn chặt những cảm xúc trong lòng. Ta vờ bận rộn với con nhỏ không có thời gian lo lắng về bất cứ điều gì khác. Suốt mùa hè năm 1941, ta thích ngồi ngoài sân, Đạm Như ngồi trong lòng, cả hai chúng ta đợi tiếng sấm, những tia chớp lóe lên ở đường chân trời. Ta nói với con nhỏ, “Nghe này – bùm – tiếng động. Bây giờ thì đợi nhé, nhìn này – oa đẹp quá!” Chỉ mới 10 tháng mà Đạm Như đã biết vỗ tay. Mùa hè năm ấy, buổi sáng bao giờ cũng nực nội, nhưng trước khi trời trở nên quá oi ả thì tiếng sấm vang lên, mưa ào xuống, bao giờ cũng vào buổi chiều, làm mặt đất dậy lên cái mùi nồng nồng ngọt ngào của đất, khiến cô giúp việc chạy như bay ra sân cất quần áo.
Dường như chính những âm thanh này làm cuộc sống của ta trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện đều yên ả, biếng nhác, chẳng có gì để làm cũng giống như một kì nghỉ hè. Đó chính là quãng thời gian hạnh phúc, được chơi đùa với Đạm Như. Ta đã để cho những cảm xúc tốt đẹp này giúp ta quên mọi việc khác.
Đạm Như thật ngoan ngoãn, sáng láng. Có thể là người mẹ nào cũng khoe con như thế. Những hãy hình dung. Khi Đạm Như chưa đầy một tuổi ta có thể hỏi nó, “Mẹ đâu?”Nó chỉ vào ta nhoẻn miệng cười. “Đạm Như đâu?” nó vỗ vào bụng mình cười. “Ba đâu?”Nó sẽ chỉ vào Văn Phú nhưng nó không cười.
Đạm Như tin tưởng vào ta vào bất cứ cái gì ta nói. Nếu nó tức giận, đói hoặc khóc, ta sẽ vào phòng nó nói. “Để mẹ xuống cầu thang kiếm cái gì cho con ăn.” Khi ta quay lại phòng, nó sẽ đứng trong cũi không khóc. Vì thế con thấy đấy, ta biết Đạm Như lớn lên sẽ thành người tốt, một người tử tế đáng tin cậy luôn quan tâm đến người khác. Nó chẳng có gì giống Văn Phú, không giống một chút nào.Việc Văn Phú là cha nó chẳng ảnh hưởng gì.
Sau khi Văn Phú đuổi cô Minh đi hắn quay lại giường ta. Lúc này hắn đã ngủ với rất nhiều loại người, những cô gái ở địa phương, gái điếm, thậm chí có cả một cô giáo. Ta nghĩ tất cả những người này đều giống nhau đối với hắn, giống như một món đồ để ngồi lên hoặc là một đôi đũa cho bữa ăn hằng ngày. Nếu ta nói dù chỉ một lời chống lại bất kỳ điều gì hoặc chống lại bất cứ thứ gì hắn thích một cuộc cãi nhau to sẽ nổ ra, bao giờ cũng vào bữa ăn tối. Ta cố giữ mồm giữ miệng để cho nhà cửa được yên bình. Nhưng bên trong ta đấu tranh với chính mình, lòng ta chẳng yên bình chút nào.Vì vậy cuối cùng ta cũng phải làm một cái gì đó. Một lần, chỉ là một chuyện nhỏ. Văn Phú bảo người đầu bếp nấu một món ăn hắn thích, thịt heo với bắp cải ngọt. Ta cũng thích món này. Nhưng mùa hè năm ấy, cải bắp rất dở, nấu lên có mùi chua loét. Khi Văn Phú hỏi ta có thích món này không ta trả lời một cách trung thực, “Chua lắm.” Hôm sau hắn ra lệnh cho người đầu bếp nấu đúng món đó ngoài ra không có món gì khác. Hắn mỉm cười lặp lại câu hỏi. “Nào bây giờ cô có thích không?” Ta trả lời như trước. Tối này qua tối khác, cũng câu hỏi ấy, cũng câu trả lời ấy, cũng món ăn ấy. Ta phải ăn món bắp cải chua đó, chẳng có gì khác. Nhưng ta không đầu hàng. Ta để cho Văn Phú trở nên mệt mỏi với cái trò bắp cải, sau hai tuần, bao tử của ta đã chứng minh là mạnh hơn tính khí của hắn. Có thể đó là một việc làm ngu ngốc, bướng bỉnh. Với món bắp cải kinh khủng ấy ta có thể nói dối, “Món này ăn ngon lắm.” Nhưng nếu ta không chiến đấu thì cũng như thừa nhận rằng đời ta đã kết thúc. Vì thế, cuộc hôn nhân của chúng ta càng ngày càng kinh khủng, nhưng như những gì ta còn nhớ, mọi thứ đều trở nên tồi tệ - mọi cái trên đất nước này. Ta nghe các câu chuyện đó vào bữa ăn tối từ những phi công chơi bên bàn mạt chược vào đêm khuya. Họ nói về chiến tranh như thể đó là một bệnh dịch lan ra với tốc độ chóng mặt làm mọi người trở nên dối trá, lừa lọc, nuôi lòng căm thù lẫn nhau.
Theo như ta nghĩ mọi chuyện bắt đầu từ năm trước, khi con đường Burma bị cắt, không còn những chuyến xe tải đi qua với những đồ tiếp tế cho chiến tranh. Người ta la hét om xòm, làm sao máy bay quân sự có thể bay được nếu như không có nhiên liệu? Làm sao quân đội có thể bảo vệ chúng tôi khi không có súng? Mọi người đều cảm thấy bất lực, cũng giận dữ nữa bởi vì không phải bọn Nhật đã đóng cửa con đường này mà là người Anh. Họ đã kiểm soát điều đó. Họ đóng cửa con đường giao thông huyết mạch này khi họ không biết là họ nên ủng hộ cho chính phủ nào, Trung Quốc hay Nhật, Nhật hay Trung Quốc. Họ mất ba tháng để quyết định, cuối cùng khi họ nói chúng tôi ủng hộ anh Trung Quốc thì ai mà tin được. Tất nhiên chúng ta giả vờ rằng chúng ta tin họ khi chào đón họ trở lại. Chúng ta còn làm gì được nữa? Chúng ta không muốn họ chặn con đường một lần nữa.
Người Mỹ thì cũng vậy. Hôm nay họ còn khoác lác họ là bạn tốt của chúng ta như thế nào – những người anh em Trung Quốc của chúng ta, họ nói. Chennault thậm chí còn quay lại vào mùa hè nói rằng ông sẽ mang theo nhiều máy bay để bảo vệ Trung Quốc. Nhưng ngày hôm sau chúng ta nghe nói các công ty của Mỹ đua nhau đi đêm với bọn Nhật, bán cho chúng nhiên liệu, phụ tùng máy bay – cùng những chiếc máy bay dội bom trên toàn cõi Trung Hoa. Con cảm thấy gì khi nghe điều này? Bao nhiêu phu công ưu tú đã chết. Nhiều người trong số họ là bạn bè của chúng ta. Một nửa khóa 3 đã ra đi, hầu hết những người ở các khóa 6, 7 sau đó đều ra người thiên cổ - tất cả đều là những thanh niên trẻ ưu tú. Đêm đến các phi công để những câu chuyện về cái chết mới xảy ra cho mỗi người anh hùng. Tất cả chúng ta đã cùng nhau khóc lóc, buồn bã, giận dữ.
Nhưng đó cũng chưa phải là điều tệ nhất, điều tệ nhất là các lãnh đạo Trung Quốc đã quỳ gối trước bọn Nhật. Người phụ tá của Tưởng Giới Thạch – ông ta đã làm thế. Ông ta nói Trung Hoa nên bỏ cuộc, ủng hộ chính quyền mới ở Nhật. Nói như thế cũng như thể bảo chúng ta quật mồ ông cha lên, ném xương cho chó ăn. Ai mà lại nói một điều như thế? Nhưng nhiều người làm như vậy, mỗi lần điều đó xảy ra chúng ta lại mất đi một niềm hi vọng, tự hỏi phải chăng chúng ta đánh nhau chỉ cho cái nỗi ô nhục này.
Tất nhiên những cuộc biểu tình lớn vẫn thường được tổ chức ở chợ, để nguyền rủa những kẻ phản bội, để củng cố ý chí chiến đấu. Ta cũng có mặt ở quảng trường vào một ngày có một cuộc mít tinh như thế. Một sĩ quan quân đội gào vào loa rằng người Trung Quốc sẽ không bỏ cuộc, “Chúng ta quyết sống mái với quân Nhật, dù chúng ta có phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng của người Hán chúng ta.”
Điều này thật là lạ lùng, bởi vì trừ ta và Huê Lan, chắc chắn là không có một giọt máu người Hán nào trong đám đông người lắng nghe. Họ là những người thiểu số người Miêu, Bạch, Di, Hồi cũng như là người Miến Điện, những người tị nạn. Chiến tranh đã lùa họ ra khỏi làng quê, những vùng ngoại vi. Họ cung cấp những người con trai cho quân đội, và các lực lượng phục vụ chiến tranh. Họ bị đối xử như những loại người thấp kém nhất, chỉ như những con vật để vận chuyển hàng hóa, vậy mà họ vẫn đứng ở quảng trường lắng nghe thứ tiếng nói không phải của họ, vỗ tay hò reo.
Ta nghĩ những người này phải có một cuộc sống cơ khổ trên núi. Điều này làm ta nhớ đến một câu tục ngữ phổ biến mà mọi người ở Trung Hoa đều biết: “Nếu bạn không thay đổi được số phận hãy thay đổi thái độ của mình”. Đó có thể là điều những người này đã làm, không đổ lỗi cho số phận xui xẻo nữa, không nhìn vào những khía cạnh xấu trong cuộc đời họ nữa, tin rằng họ cũng trở thành người Hán, giờ đây có một cái gì đó cho họ chiến đấu. Ta tự nhủ, hãy nhìn những người này, hãy học tập họ.
Sau cái ngày ở quảng trường, ta thay đổi thái độ của mình từ từ. Ta không nghĩ mình sẵn sàng chờ chết, không phải như vậy. Nhưng ta nghĩ như thế này: Nếu sớm muộn gì ta cũng chết thì ta cũng không nên đau khổ quá nhiều về cuộc hôn nhân này. Nếu ta không chết ngay thì có lẽ ta phải tìm đường chạy trốn. Cùng lúc đó, Huê Lan bắt đầu thay đổi thái độ của mình. Hoặc có thể không phải là thái độ mà là khẩu vị. Cô ta bắt đầu ăn nhiều hơn, nhiều hơn. Đầu tiên ta nghĩ Huê Lan đang có bầu, muốn giữ kín điều đó. Ta biết cô ta khao khát có con. Cô không giấu điều đó. Mỗi khi ta than phiền với cô về Văn Phú hoặc về chiến tranh hoặc nỗi nhớ nhà, cô đều nói: “Nếu em có một đứa con như con trai chị, em sẽ sẵn sàng nuốt trọn chén đắng cay, em sẽ lấy làm hài lòng lắm”. Con trai không đến nhưng cô vẫn tiếp tục nuốt đủ mọi thứ, bao giờ cũng với một sự thèm khát. Ta không nói là cô ta chỉ thèm ăn món đậu hũ cay, hoặc là món thịt heo béo đậm đà; tự nhủ rằng. “Đó là cái ta thèm ăn”. Ngược lại cô ta chứng kiến những người ăn mày – hàng trăm, hàng ngàn người thất thểu lang thang trong thành phố hàng ngày. Cô ta thấy những người này đói như thế nào, miệng họ há ra đớp bất cứ thứ gì bay qua ra sao, da họ lõng thõng trên những cái khung xương như thế nào. Ta nghĩ cô hình dung chẳng bao lâu mình cũng như thế nếu mình không có cái gì để ăn. Ta nhớ, đặc biệt là khi cô nhìn chằm chằm một cô gái ăn mày trẻ đứng tựa lưng vào bức tường dẫn đến khu phố cổ của thành phố. Huê Lan nhìn cô gái, cô gái này nhìn lại mạnh mẽ, dữ tợn. Huê Lan hỏi, “Tại sao nó trừng trừng nhìn em như vậy? Trông nó giống như một con vật bị bỏ đói, thèm ăn thịt em”. Sau đó mỗi lẫn chúng ta đi qua cô gái ăn mày, Huê Lan đều than rằng cái bóng của cô gái tựa vào tường càng trở nên nhỏ hơn, mỏng hơn. Ta nghĩ rằng Huê Lan đã thấy hình ảnh của mình trước kia ở quê nhà. Ta chắc chắn về điều đó, bởi vì một lần cô ấy cho ta biết gia đình cô suýt chết đói khi cô còn là một bé gái. “Sông ngòi, lũ lụt hàng năm”, Huê Lan kể, “thỉnh thoảng nó chỉ tràn ra một chút, nhưng một năm nó giống như một cái ấm khổng lồ bị vỡ toang. Dòng nước cuồn cuộn ngầu bùn tràn vào đồng ruộng, chúng em chẳng có gì để ăn trừ những cái bánh khoai lang phơi khô. Thậm chí chúng em cũng chẳng có đủ nước sạch để xấp lên cho mềm hơn. Chúng em ăn những bánh khô cứng như đá, thấm ướt chúng chỉ bằng nước bọt. Mẹ em là người phân phát, chia cho bọn con giá chỉ bằng nửa bọn con trai. Một hôm đói quá, em ăn trộm nguyên một cái, chén một mình. Khi biết, bà đánh chửi em, “Thật ích kỷ! Một mình mày nốc cả một cái bánh”. Sau đó bà bắt em nhịn ăn 3 ngày. Em khóc nhiều lắm, bụng em đau quặn lên vì thèm một miếng bánh khoai lang đủ cứng để làm gãy răng em”. Ta nghĩ Huê Lan nhớ những cái bánh nhỏ cứng như đá này thì sẽ đặt một vài xu hoặc một ít thức ăn vào trong cái bát của cô bé ăn mày như ta vẫn làm. Ta không nói bao giờ ta cũng làm điều đó. Nhưng Huê Lan không làm dù chỉ một lần. Thay vì thế cô tọng nhiều thức ăn hơn vào miệng. Cô ta nhét mỡ vào người cũng giống như gã hà tiện để dành vàng, cũng giống như người ta cho thêm tiền hoặc tài sản vào nhà băng, một cái mà cô ta sẽ dùng đến khi hết chuyện xấu này đến chuyện xấu khác xảy ra. Đó là điều ta muốn nói khi ta bảo rằng Huê Lan đã thay đổi thái độ sống. Cô ta đã từng cư xử rất rộng rãi. Nhưng bây giờ, khi nhìn thấy nỗi thống khổ của những người khác cô thấy lại hình bóng của mình ngày xưa, cái hình ảnh mà cô lại có thể trở thành.
Vào mùa hè, Văn Phú và Gia Huy đều chuyển đến Trung Kinh. Gia Huy nói rằng họ đi huấn luyện tân binh, những người sẽ đến để bảo vệ thủ đô mới. Anh ta không nói khi nào họ trở về có lẽ phải 2, 3 tháng.
Trước khi đi, chồng ta ba hoa khoác lác rằng công việc của hắn cực kỳ quan trọng: phát triển hệ thống thông tin liên lạc vô tuyến để lực lượng không quân, lục quân có thể biết trước khi nào máy bay quân Nhật kéo đến. Nghe hắn nói thế ta nghĩ, làm sao lực lượng không quân có thể tin cậy hắn trong cái công việc thông tin quan trọng của họ như vậy. Một kẻ toàn nói láo! Ta rất vui mừng vì hắn đã ra đi. Ngay khi họ bắt đầu đi Huê Lan đã trở nên lo lắng, gia công thu thập tin đồn. “Em nghe nói rằng quân Nhật chẳng bao lâu sẽ dội bom xuống Trung Kinh có thể cả Côn Minh nữa.” Mỗi lần nói thế, cô liền chạy đi nấu một bữa ăn trưa ê hề. Khi nghe thấy một tiếng sấm, cô chạy ra ngoài sân, nhìn lên bầu trời chờ những chiếc máy bay ló ra khỏi những đám mây đen trước cơn mưa. Ta bảo cô, “Chị phải dùng đến tai trước khi dùng đến mắt. Sấm bao giờ cũng vang lên từ những ngọn núi cao ở Miến Điện về phía Tây. Nếu máy bay bỏ bom đến chúng sẽ đến từ hướng Bắc hoặc hướng Đông”.
“Chị không thể nói những điều này về bọn Nhật”, cô ta nói bằng giọng làm ra khôn ngoan, “chúng đâu có làm theo cách nghĩ của người Trung Quốc”.
Cô ta sẽ chạy ra nhìn lên bầu trời như muốn tìm ra bằng chứng rằng ta đã sai. Ta nhớ một lần cô làm như vậy trong khi ta đang ở trong bếp tắm cho Đạm Như, ta nghe tiếng cô kêu to, “Chúng đến rồi! Chúng ta chết đến nơi rồi”.
Ta bế vội Đạm Như lên, nước tóe ra ướt hết một vạt áo trước. Rồi ta chạy ra ngoài nhìn theo tay cô. Đó là một đàn chim đen bay như những mũi tên, trông giống những máy bay chiến đấu. Ta cười nhẹ nhõm. “Chim”, ta bảo cô, “những cái mà chúng có thể trút lên đầu chúng ta chỉ là cứt”. Huê Lan làm như bị xúc phạm. “Tại sao chị lại cười tôi?” cô ta dằn dỗi.
“Không phải là cười chị”.
“Tôi thấy chị cười mà”.
“Tất nhiên là tôi cười, chị bảo là tôi chết đến nơi rồi.Tôi chạy ra thấy mình chưa chết, chỉ thấy những con chi, tôi cười là vì thế”.
“Chúng trông rất giống với những cái máy bay, ngay cả vào lúc này. Chị nhìn xem ai cũng có thể nhìn nhầm như thế”. Với ta những con chim trông giống những con chim thế thôi. Đó là lúc ta bắt đầu nghĩ mắt Huê Lan có vấn đề. Bây giờ cô ấy lại chỉ trích ta vì nhìn mọi thứ sai lạc. Ngay từ đầu cô ta thường làm trò cười về điều đó. Một lần cô ta đặt kim đan xuống rồi một phút sau làm mất. Khi ta tìm thấy, cô cười, nói một con ma chắc là đã nuốt đôi kim đan rồi sau đó lại nhả ra. Nhưng lần sau khi làm mất kim đan, cô ta cau mày, nói, “Chắc là con trai chị đã lấy, ném đi đâu đó?” Ta tự hỏi làm sao có thể sống cả đời mà không bao giờ nhìn thấy cái gì rõ ràng, không bao giờ thấy lỗi của mình. Lúc đó ta nghĩ sao cô ta có thể đổ lỗi cho con trai của ta vì sự đãng trí của cô? Tại sao ta lại bị chỉ trích khi chính cô ta là người đã nhầm đàn chim với những chiếc máy bay ném bom. Sau đó ta dẫn Đạm Như, Huê Lan đi chơi rồi tìm đến chỗ mua kính. Đó là một cửa tiệm nhỏ, mới mọc lên trong một khu vực mới của chợ, xuất hiện sau chiến tranh. Người bán hàng chưng một vài cặp kính trên một cái bàn nhỏ cùng với nhiều tròng kính, các loại gọng kính khác nhau. Những cặp kính trên bàn, người bán hàng nói là để thử. Huê Lan thử cặp kính đầu tiên, nhìn ta, Đạm Như rồi phì cười, “Ô, cũng giống như lúc đi trên con đường trong mây. Nó làm em chóng mặt”. Đạm Như ngắm nhìn Huê Lan vẻ lặng lẽ và lo lắng. “Con tự hỏi dì đi đâu phải không?” Ta hỏi bé. Nó cười với ta, đoạn chộp lấy cái kính thứ ba thì cô im lặng. Cô không để Đạm Như lột kính ra nữa. Cô nhìn lên nhìn xuống, đeo vào rồi lại lấy ra. Cô bước ra cửa tiệm, nhìn những hàng quán khác nhau bên kia đường. “Em nhìn thấy một chiếc khăn choàng rất đẹp”, cô reo lên, “Em nhìn thấy mấy loại đậu em muốn mua”.
Người bán hàng rất vui, ông ta hướng dẫn Huê Lan chọn gọng kính. Một số cái có gọng màu vàng, một số cái khác trông như thể chúng được làm từ một kim loại rẻ tiền. Ta thấy một số cái gọng bị long ra hoặc là mày vàng đã phai, và ta có thể thấy lớp kim loại màu xám bên dưới. “Những cái gọng này cũ lắm,” ta bảo người bán hàng.“Tất nhiên là cũ”, ông nói. “Cô không thể tìm thấy một cái kính mới vào thời loạn lạc: Tất cả kim loại đã được dùng để phục vụ chiến tranh chứ không phải cho những thứ như thế này”, ông ta quay về phía Huê Lan. “Đây, thưa cô cặp này đặc biệt tốt, hàng của Anh. Đôi mà cô đang đeo rẻ hơn nhưng tôi phải thừa nhận đó là hàng của Nhật”.
Điều này không hề làm bận lòng Huê Lan và Đạm Như, họ đang bận rộn lôi những cặp kính khác. Những cặp kính của những người đã khuất trông rất đáng sợ đối với ta. Huê Lan quyết định chọn một cặp kính tròn không có khung, chỉ có một miếng kim loại nối chúng lại với nhau, hai cái gọng đeo vào tai, trông rất cổ lỗ, chẳng hấp dẫn chút nào. Nghe ta bảo trông cô giống như một học giả cô có vẻ rất hài lòng. Trong khi chúng ta đi qua các đường phố, cô cứ lấy kính ra nhìn ngó cái này cái kia, rồi lại đeo kính vào.
“Chị có nhìn thấy cái này không?”
“Một giỏ đựng tiêu đỏ”, ta nói.
“Chị có thấy cái kia không?” Cô hỏi, chỉ xa nữa hơn trên đường phố.
“Một người bán than”.
“Còn cái kia?” cô lại hỏi làm như cô cho ta một bài kiểm tra mắt.
“Một cái xe tải quân sự có những người lính đứng quanh”.
Cô tiếp tục nhìn vào tất cả mọi thứ ở khu vực chợ búa, nhìn bằng hai cách có kính, không có kính. Nhưng khi đến gần hơn, ta nhìn thấy Đạm Như đang chăm chăm nhìn những người lính đứng bên chiếc xe tải. Ta tự hỏi một thằng bé con liệu có thể thấy gì.
Những người lính này mặt non choẹt, vừa mới nhập ngũ, có vẻ là như thế, với những bộ quân phục mới trên người. Nhiều người trong số họ trông rất tự hào, phấn khích, nóng lòng ngắm nghía đôi giầy mới, chiếc xe mà chẳng bao lâu nữa họ sẽ trèo lên, nó sẽ đưa họ đến một nơi mà họ thậm chí cũng chẳng thèm hình dung về nó nữa. Họ có niềm tin tưởng trẻ thơ cũng giống như Đạm Như vậy. Một người lớn tuổi hơn hô vang một câu gì một cách oai vệ, những người lính trẻ vội đứng thẳng lên, cố tỏ ra hết sức nghiêm túc. Trong vòng hai giây tất cả bọn họ nhảy vội lên thùng sau xe, đứng ngay ngắn như những cọc gỗ, nhìn ra đường trong khi xe đang nổ máy.
Bây giờ ta mới thấy những người mẹ, người bà, người chị khóc, vẫy họ từ bên kia đường. Họ đều đội những chiếc khăn xếp với những mẫu hoa văn rực rỡ trên những bộ quần áo đẹp nhất của họ. Họ đi từ trên núi xuống để chia tay con em họ. Một số lính mới mỉm cười, vẫy vẫy tay, vẫn có vẻ phấn khởi lắm. Nhưng ta cũng nhìn thấy một người lính có vẻ sợ hãi, môi dưới run run, anh cố không bật khóc nom hệt như một chú bé vậy. Ta nhìn theo anh lính khi chiếc xe chuyển bánh, tự hỏi anh ta sẽ đi đâu, điều gì sẽ xảy ra với anh ta. Ta nghĩ anh ta cũng băn khoăn về những điều tương tự. “Chị nhìn thấy cái này không?” Huê Lan lại hỏi, chỉ vào một thúng có loại nấm mà ta rất thích. Rồi chẳng mấy chốc ta cũng quên những người lính ấy.
Buổi sáng hôm ấy Huê Lan trở thành một chuyên gia giỏi về nấm. Một khi cô có thể nhìn thấy mọi thứ rõ ràng rồi, cô nhanh chóng tìm ra mọi khiếm khuyết của nó: một vết xước, một chỗ bị ủng, một miếng bị sứt. May thay, có rất nhiều nấm, nhiều loại, tất cả lại rất tươi. Ở Côn Minh quanh năm có nấm, nấm mọc ở chỗ khuất trên những quả núi ẩm ướt bao quanh thành phố. Ta chọn những cây nấm dài, ô xòe to. Ta không biết tên nó là gì nhưng ta vẫn có thể cảm thấy cái vị của nó, ướp muối, nấu trong dầu nóng, ăn nó thật mềm, thanh. Con có thể ăn hết cả cuống và ô nấm chẳng vứt đi cái gì.
Ngày hôm ấy ở chợ ta rất thèm ăn nấm. Ta nghĩ đến việc nấu nó với một loại tiêu cay, hầm thật lâu cho đến khi chúng trở thành đen bóng. Ta vẫn mơ về những món nấm xào khô cay lè lưỡi, tay cầm lên lọ tiêu, thì có tiếng còi báo động và tiếng loa phóng thanh vang lên, “Loa, loa, loa, xin chú ý, xin chú ý”.
Mọi người hành động giống như ta và Huê Lan đã làm ở Nam Kinh khi những tờ truyền đơn rơi xuống từ bầu trời. Ta bế Đạm Như lên, làm rơi tất cả nấm, tiêu. Tất cả mọi người cũng đánh rơi đồ đạc của họ. Sau đó chúng ta xô đẩy, la hét chạy nhốn nháo từ mọi hướng về phía một trong những cái cổng ngoại ô thành phố bởi vì đó là nơi loa phóng thanh bảo chúng ta đến. “Gần nhất à, nó ở đâu?” Huê Lan hỏi đẩy cái kính cao hơn hơn. “Lối này?” cô ta chỉ về hướng nam.
“Lối này gần nhất”, ta la lớn chỉ tay về phía bắc. “Đấy là lý do tại sao tôi nói là phía bắc. Nếu chúng ta đi nhanh thì vẫn kịp”. Ta cắm đầu chạy về phía cổng phía bắc không đợi cãi nhau thêm, vài phút sau ta nhìn thấy Huê Lan cũng chạy sau ta. Chúng ta đang co giò chạy thì máy bay của Nhật xuất hiện, cả máy bay ném bom lẫn máy bay chiến đấu. Từ dưới đất chúng ta có thể nhìn thấy chúng đang bay đến. Chúng ta biết rằng những chiếc máy bay đang bay trên đầu có thể nhìn thấy người đang chạy, chúng có thể quyết định ném bom ở khu vực nào, người nào sẽ bị chết. Càng lúc ta nhìn thấy những chiếc máy bay đến gần hơn. Nếu ta không phải dùng hết sức để chạy ta sẽ hét lên với Huê Lan, “Chị thấy đấy chúng bay từ phía Đông như tôi đã bảo”. Chợt chúng ta nhìn thấy những chiếc máy bay quành trở lại cùng một lượt. Chúng bay đi hướng khác. Một vài phút sau chúng ta nghe thấy tiếng bom nổ, rồi một loạt nữa, mặt đất rung chuyển. Rồi sau đó – tất cả lại trở lại bình thường. Chúng ta không chết. Chúng ta nhìn thấy khói, bụi cuộn lên từ phía đông nam thành phố. Đạm Như vỗ tay. Khi còi báo động chấm dứt, chúng ta quay lại chợ. Quanh chúng ta mọi người chúc tụng nhay bằng giọng kích động, “May mắn, may mắn, may mắn”. Chợ lúc này đông hơn bao giờ hết, bởi vì bây giờ tất cả những người chưa chết quyết định mua thêm một miếng thịt hoặc một đôi giày hoặc một cái gì mà chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành xa xỉ trong một cuộc sống mà ai cũng lo sợ chờ hồi còi báo động tiếp theo. Huê Lan và ta quay lại chỗ người bán nấm. Tất cả những cái nấm tốt của anh ta vẫn còn nguyên không bị ăn cắp, không bị đạp lên. Chúng ta chúc mừng anh còn anh thì bán cho chúng ta với một giá rẻ đặc biệt. Mọi người đều cảm thấy mình hào hiệp, “Con trai chị ấy thông minh lắm”. Huê Lan nói, chỉ vào Đạm Như. “Mới chưa đến một tuổi, nhưng khi nghe còi báo động nó không khóc, đợi cho những tia chớp lóe lên, khi mọi người la hết thì nó vỗ tay”.
Ta rất tự hào nghe Huê Lan nói về Đạm Như như vậy. Ta tung nó lên trời để nghe tiếng cười giòn tan của nó. “Con là chú phi công nhỏ, tuyệt vơi”.
“Thật là một đứa bé ngoan”, Huê Lan nói.
“Rất thông minh”.
Chúng ta đi bộ về nhà đồng ý mọi điều về Đạm Như, về việc chúng ta đã may mắn thoát chết, thức ăn giá rất hời chúng ta đã mua được ở chợ sau khi bom nổ. Đêm ấy, chúng ta ăn mừng đợt ném bom thứ nhất với một bữa ăn thịnh soạn với rất nhiều trà thơm. Dì Du và bọn đầy tớ cười rất to. Đếm lại ít nhất là mười lần họ đứng lên, ngồi xuống khi nghe tiếng còi hụ. Nhưng vào lần thứ mười câu chuyện trở nên lố bịch. Tất cả chúng ta cười trào cả nước mắt.
“Con đang mang cái bô xuống cầu thang”, một người giúp việc nói. “Đùng, đùng, đùng sau đó bùng, bùng, bùng, cả sàn nhà rung lên với cái mùi thảm họa”.
“Các con có nghĩ rằng các con quá sợ không?” Dù Du kêu lên. “Ta đang đuổi một con gà với cái dao trong tay, một phút sau con gà lại đuổi ta”.
Còn Huê Lan nói, “Chúng con đứng ở chợ, Vi Vi và con hỏi nhau xem chạy hướng nào, với một quả bom lơ lửng trên đầu, dì sẽ chẳng muốn cãi nhau đâu”. Hai ngày sau, những chiếc máy bay ném bom quay lại. Chúng ta lại chạy ra ngoại ô rồi chúng ta lại trở về nhà, lành lặn, cảm thấy mình may mắn, nhưng là một kiểu may mắn khác. Vào buổi tối chúng ta lại chúc mừng nhưng lần này không ồn ào lắm. Câu chuyện của chúng ta cũng vui vẻ nhưng không đến nổi cười trào ra nước mắt. Vài ngày sau bom lại dội xuống nữa. Lần này chúng ta không nói đùa, không cười cợt, chỉ lặng lẽ nói chuyện với nhau. Dì Du nghe rằng vợ một người quen đã bị thương rất nặng. Huê Lan tự hỏi tại sao lực lượng không quân của chúng ta không đánh trả, cô hi vọng các ông chồng sẽ sớm trở về. Ta nói dường như máy bay Nhật lúc nào bay tới từ hướng đông, Dì Du đồng ý: bao giờ cũng từ hướng đông. Chuyện xảy ra như thế này máy bay quần đảo trên bầu trời thành phố ba lần một tuần, bao giờ cũng vào buổi sáng, không hiểu tại sao. Có thể công việc của chúng như thế, ném bom ở Côn Minh vào buổi sáng, ở Trung Kinh vào buổi chiều. Như thế bom đạn đã trở thành một phần trong cuộc sống của chúng ta.
Tất nhiên chúng ta vẫn hoảng sợ khi nghe tiếng còi báo động, nhưng bây giờ chúng ta biết đi sơ tán với những đồ đạc gọn nhẹ, nhớ rằng chúng ta đặt ở đâu để có thể dễ dàng tìm thấy. Dì Du kiểm tra chắc chắn là không một nồi nào đang nấu dở trong bếp. “Chẳng có lý nào giữ gìn mạng sống của mình để trở về với ngôi nhà đã cháy ra tro”. Huê Lan sẽ chộp một cái bao đựng đầy thức ăn mà cô ta để gần cửa. Đạm Như sẽ đưa tay về phía ta sẵn sàng chạy. Chúng ta sẽ di chuyển thật nhanh thật nghiêm trang, như thể chúng ta đến dự một đám ma, hi vọng suốt dọc đường đó không phải là đám ma của mình.
Đôi khi chúng ta chạy về cổng Bắc, lâu lâu chạy về cổng Đông, thỉnh thoảng đi ngang qua những khu vực vừa bị phá hủy lần trước; một vài tòa nhà bị san phẳng, trong khi những ngôi nhà khác ở xung quanh vẫn còn đứng vững chỉ có mái rạ của chúng bị bốc đi, giống cái mũ bị thổi đi trong một cơn gió mạnh.
Ra được đến cửa ô, chúng ta nhảy xuống một cái hố, hay là núp dưới một cái cây. Chúng ta trò chuyện với những người mà chúng ta mới chỉ gặp cách đây vài ngày, trao đổi với nhau những thông tin về việc có thể tìm được loại mỳ ngon nhất, những loại chỉ khâu tốt nhất, loại thuốc tốt nhất chữa bệnh ho ở đâu. Ta bao giờ cũng chọn đúng hướng để chạy. Đó là sự thật. Ba buổi sáng một tuần, chúng ta có thể chết. Tuy vậy bom chưa bao giờ rơi lên đầu chúng ta, hoặc thậm chí là nổ ở cự li gần. Ta bắt đầu nghĩ là ta có một trực giác bẩm sinh về việc tránh bom đạn. Ta bao giờ cũng chọn đúng đường, tìm đúng chỗ núp. Một cách bất cẩn như vậy ta đã thôi không lo lắng nữa.
Một hôm, sau giấc ngủ trưa, Huê Lan rủ ta đi chợ. Đạm Như vẫn ngủ vì thế ta để nó lại cho dì Du. Đầu tiên chúng ta đến quầy bán rau, tìm mao đỗ thật tươi, một lại rau xanh vị rất ngọt, rất hiếm, lại đắt tiền nữa, nhưng dù sao ta cũng mua một ít.
Ta rất may mắn, tất nhiên rồi, là đã có tiền để mua những thứ như vậy. Có nhiều người nghèo không có tiền để mua thức ăn thông thường hàng ngày. Nhưng trong thời chiến nếu con may mắn có tiền, thì con sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến việc để dành sự may mắn ấy. Một cơ hội để nếm một món ăn hiếm, mới cũng trở thành một niềm vui giống như câu thành ngữ “Ăn, uống, cưới vợ”, Con sẽ có một cái gì đó để hướng tới, cho dù cuộc đời chấm hết vào ngày mai.
Vì thế ta tiêu xài số tiền hồi môn rất nhanh. Nhiều khi ta thậm chí chẳng bận tâm đến việc trả giá với những người bán hàng. Họ bao giờ cũng hớn hở khi trông thấy ta, “Thưa cô, thưa cô!” họ kêu lên khi nhìn thấy ta, “cô nhìn xem đậu tươi chưa, trứng gà mới to làm sao”.
Đến khu bán cá, Huê Lan bảo rằng cô vừa mới nhận được một lá thư của Gia Huy. Cô móc thư ra đưa cho ta. Mặc dầu Gia Huy đã dạy cô học đọc, viết, nhưng cô học hành không chăm chỉ. Vì thế sau bốn năm học hành, cô chẳng đọc được gì hơn ngoài giá cả ở chợ với những mẫu tự đơn giản như giá cá, thịt heo, mỳ, tất cả những đồ ăn mà cô thích. Tất nhiên cô cẩn thận giấu Gia Huy điều này. Cô giả vờ là có thể đọc bất cứ thứ gì. Nếu ta đứng lại đọc một thông báo dán ngoài cổng chợ cô sẽ hỏi nó nói cái gì. Sau đó vào buổi tối ta có thể nghe cô ta nói với Gia Huy, “Này có chuyện gì xảy ra ở đường rầy xe lửa thế? Em vừa đọc được ở chợ sáng nay”. Vì thế Gia Huy nghĩ rằng anh ta là một thầy giáo giỏi hơn là Huê Lan là một học trò giỏi. Bây giờ anh ta viết cho vợ một lá thư dài, chắc mẩm là cô ta có thể đọc một mình. Nhưng tất nhiên cô ta không thể tự đọc. Huê Lan nhờ ta đọc thư, lấy cớ rằng kính của cô hôm nay không đủ sáng để đọc dòng chữ nhỏ như vậy. Đó là cái cớ ngớ ngẩn. Gia Huy viết chữ nào chữ ấy to như con gà mái ghẹ, giống như chữ bọn trẻ con được học ở lớp vỡ lòng là cái kiểu mà anh dạy Huê Lan.
“Em yêu quý”, ta đọc to, “thời gian dài đã trôi qua từ lúc anh có ý định viết cho em cho đến tận bây giờ. Hôm nay anh nghĩ về cuộc nói chuyện của chúng ta ở Hồ Xanh, những lời lẽ tổn thương mà chúng ta đã nói trước khi anh ra đi”.
“Ối”, Huê Lan giằng lấy lá thư từ tay ta, “anh ấy không nói thế đâu”. Cô bật cười làm như lá thư là một trò đùa, rồi nhìn vào thư cố xem liệu cặp kính có giúp cô tự mình hiểu được ý nghĩa của các dòng chữ.
“Chị có muốn tôi đọc nó hay không?” ta hỏi. Cô miễn cưỡng đưa lại lá thư cho ta. Ta liếc nhanh qua lá thư rồi đọc, lần này chậm hơn: “Anh hi vọng những giọt nước mắt của em đã khô từ lâu. Lòng anh vẫn còn cháy bỏng ân hận, mặc dù có thể nó không bằng nỗi đau mà anh đã gây cho em với tư cách là một người chồng không xứng đáng của em”.
“Không, không đọc nữa, không đọc nữa!” Huê Lan kêu lên, một tay bịt miệng một tay chộp lấy lá thư. Ta trả lại thư cho cô, còn cô quay lưng lại, lặng lẽ nhét vào trong túi. Khi cô quay lại mắt cô ráo hoảnh. Chúng ta đi bộ một vài phút trong im lặng. Ta chẳng nghĩ ra được cái gì tự nhiên để nói. Ta rất xấu hổ bởi vì ta đã biết những gì mà cô không muốn cho ta biết. Trước khi trả lại lá thư cho cô, ta đã đọc nhanh những dòng tiếp theo, bây giờ ta đã biết những điều bí mật. Gia Huy đã hối hận như thế nào vì đã không thực hiện nghĩa vụ làm chồng với cô. Anh ta thề sẽ trở thành người chồng thật sự nếu anh còn sống, vào năm tới cô sẽ làm mẹ của con anh. Tất nhiên ta sững sờ khi biết chuyện này. Ta tự hỏi điều này có ý nghĩa gì, chẳng lẽ họ sống với nhau như anh và em như sư thầy và sư cô? Những điều khác có ý nghĩa gì? Tại sao Huê Lan không có con? Điều này có nghĩa là Gia huy không thèm muốn vợ? Anh ta trung thành với hồn ma của cô chị? Hay là anh ta cũng giống như Văn Phú thường gặp gỡ phụ nữ khác? Từ đấy ta hiểu rõ cô hơn. Những lúc cô chỉ trích ta vì ta đã than phiền về tính hoang dâm vô độ của Văn Phú, những lần cô nhìn ta ghen tỵ khi ta đùa với Đạm Như trong lòng. Ta lập tức tha thứ cho cô và cảm thấy tiếc vì những ý nghĩ hẹp hòi của mình. Nhưng ta cũng ghen tỵ với cô, cuộc hôn nhân không tình dục của cô xem ra còn tốt đẹp hơn cuộc hôn nhân không tình yêu của ta. Ta đặt nhiều câu hỏi về cô, người phụ nữ này cũng trở thành một cái gì không đơn giản đối với ta, có quá nhiều bí mật được giấu kín. “Chị đừng nghĩ là Gia Huy làm chuyện gì không phải”, Huê Lan nói, giọng nghiêm trang, “đó chỉ là một cuộc cãi nhau nho nhỏ về những chuyện vớ vẩn, không đáng, bây giờ em cũng quên rồi”.
“Tôi chả nghĩ gì sất”, ta trấn an cô. Ta bao giờ cũng nghĩ Gia Huy rất tử tế, rất tốt bụng. Ngay lúc ấy còi báo động vang lên, Huê Lan cau mày, “Sao có thể thế được?” cô nói, “đâu phải là buổi sáng, bây giờ đã muộn rồi”. Khi cô cắm cổ chạy về nhà ta chặn lại.“Đừng có ngốc thế! Không ai ở nhà đâu. Họ cũng đã chạy tìm chỗ trú ẩn ở một trong những cửa ô”. Ta quyết định điều chúng ta phải làm. Huê Lan chạy về phía cổng Bắc để ta về phía Đông. Sau đó chúng ta sẽ cùng về nhà tìm người thân, đó là một suy nghĩ thiết thực. Ta nói rằng nếu không quá trễ chúng ta có thể trở lại chợ mua cá, chúng ta vẫn có đủ thời gian cho bữa tối. Chúng ta chia tay nhau với những nụ cười. Ta vội vã chạy, vẫn còn nghĩ về quyết định đúng đắn của mình. Ta quay vào một con đường nhỏ vì nó an toàn hơn, để ý xem có thấy dì Du và Đạm Như không rồi ta nghĩ đến việc sẽ mua cái gì khi quay lại chợ. Tất nhiên, một ít vỏ đậu hũ để nấu với cải xanh. Trong khi ta sắp đặt bữa ăn tối, tiếng máy bay trở nên to hơn làm cho ta khó mà nghĩ ngợi gì được. Ta tự hỏi tại sao chúng không quay hướng khác của thành phố, và khi tiếng động cơ to hơn thì ta bắt đầu bối rối. Ta chạy ra giữa đường sợ phát cuồng lên khi thấy máy bay ở ngay trên đầu. Ta nghĩ chúng mới ngốc làm sao, chúng ắt bị tiêu tùng.
Bất thình lình một loạt súng máy nổi vào bức tường quét vôi trắng trước mặt ta, một hàng dài vết đạn lập tức hiện ra, giống như những mũi khâu khi sợi chỉ bị kéo căng thật mạnh. Chân tường phía dưới những vết đạn rúng động, cả bức tường đổ xuống như là một đống bột mì bị tuột khỏi bao. Tất cả xảy ra trong một tích tắc ngắn ngủi, tất cả những ý nghĩ thông thái của ta bốc hơi ra khỏi cái miệng đang gào thét, bụi lập tức tràn đầy vào họng, mắt mũi ta cay xè.
Ta nghẹt thở, bắt đầu ho, rồi dụi mắt cố nhìn mọi vật cho rõ. Còi hụ báo động vẫn kéo dài. Nhiều tiếng súng nữa, tiếng bom nổ, những chiếc máy bay đang quần đảo trên bầu trời. Khi cuối cùng ta cũng mở mắt ra được, cái đầu tiên mà ta nhìn thấy là một người đàn bà đứng ngay trước mặt ta, cầm một cái chổi rơm te tua trong tay. Chị ta nhìn lên trời đôi mắt mở to như hai quả trứng. Miệng chị há ra, to hơn, to hơn, một cái nhìn hãi hùng như thể hơi thở của chị đã tắc nghẽn ở đâu đó, chị đang cố lôi nó ra. Giờ thì ta cũng nhìn lên bầu trời. Hai cái bóng đen xì hình con cá rơi xuống, chao đảo, trở nên to hơn. Thậm chí trước khi ta có thể nhặt ra một ý niệm trong đầu “bom” thì ta đã ngã xuống, mặt đất rung lên, tất cả lùng bùng trong tai ta, từ bốn phía ta nghe thấy tiếng kính vỡ loảng xoảng.
Khi ý thức trở lại, ta thấy mình đang nằm úp mặt xuống đất. Ta không biết ta chủ động ngã xuống hay tiếng nổ đã hất ta ngã, không biết là mọi việc chỉ xảy ra trong một giây hay là một ngày. Khi ta mở mắt nhìn, thế giới đã thay đổi, cát, nước đổ xuống từ bầu trời. Ta nghĩ chắc là ta đang nằm mơ bởi vì những người quanh ta đi rất chậm như thể họ cũng đang trong cơn mộng mị. Hoặc có thể là chúng ta đã chết, bây giờ đang đợi sang thế giới bên kia. Nhưng ta lại ho, cảm thấy bụi lạo xạo trong cổ.
Khi dứt hồi báo động, ta đứng lên, bắt đầu bước đi. Bên tay trái, ta thấy khói bốc lên từ sau các mái nhà. Có thể từ một đám cháy cách đây một, hai đường phố. Nằm trên mái nhà, trên mặt đường là tất cả đồ đạc trong các ngôi nhà bị hất lên: Một mảnh chăn, một chiếc ghế đẩu, một bánh xe đạp, một cái bếp lò hoặc cái nồi, những mảnh vụn quần áo, chỉ có điều không phải là quần áo lành lặn, mà là một cái tay áo lủng lẳng thò ra mấy ngón tay, một chân trong chiếc giầy, những thứ mà ta không muốn nhận ra. Ta chầm chậm bước qua những cảnh đó hoàn toàn không có khả năng quay mặt đi chỗ khác, rồi ta nhìn thấy người đàn bà cầm cái chổi, người đã kêu gào ngay trước khi bom nổ. Giờ thì chị ngồi trên mặt đất, giơ tay lên rồi đập xuống đất, khóc than kể lể với đất trời, “Con ở đâu? Mẹ đã bảo con đừng ra ngoài cơ mà. Bây giờ con có nghe mẹ con không?” Đó là lúc ta sực nhớ ra Đạm Như, nó ở đâu?
Ta co giò chạy về nhà, chạy qua những người đi cà nhắc, trẻ con kêu khóc, một người đàn ông đang mỉm cười với những giọt máu túa ra khỏi tai. Càng về gần nhà hơn, ta càng gặp trên đường phố nhiều người vui vẻ chuyện trò như thường, như họ bao giờ cũng làm như thế sau tiếng còi báo yên. Huê Lan đang uống trà khi ta về tới nhà, cô ta đẩy cái kính lên nhìn con cá kho bỏ trong một cái tô lớn. “Ối, em về đã được một tiếng rưỡi rồi, nhìn này, ít nhất là 10 con bọ, đang bơi lội trong bữa ăn tối của chúng ta”.
“Ở đâu?” ta hỏi.
“Trong cái tô, với những con cá”.
“Đạm Như, dì Du, họ ở đâu?”
“À! À!” cô ta cười ngượng ngùng, “Chưa về nhà. Hoặc có lẽ họ về tới ngay bây giờ”.
Cánh cửa bật mở ngay lập tức ta nhảy xổ ra, nhưng chỉ là bà nấu bếp, đứa ở, hai người cùng cười. Ta vội vã ra ngoài cửa nhìn ra đường. “Đừng lo”, Huê Lan gọi với ra. “Họ sẽ về tới ngay, về ngay mà. Làm một ly trà đi. Lo lắng cũng không làm cho họ về nhanh hơn được”.
“Sao tôi có thể không lo lắng cho được?” ta quặc lại.“Tôi nhìn thấy một trái bom rơi gần như ngay trên đầu tôi.Tôi thấy nhiều người bị chết, bị thương, những cảnh tượng kinh hoàng, giày thì không chân, chân thì không giày”.
“Chị nói cái gì?” Huê Lan cắt ngang. “Chị đã nhìn thấy tất cả? Ở đâu?”
Sau đó cả hai chạy ra đường. Trên đường đi, sấm bắt đầu nổ. Vừa lúc chúng ta tới chỗ bom rơi, mưa bắt đầu trút xuống. Huê Lan phải lau kính nhiều lần. Đường phố vẫn đông đúc. Cảnh sát, bộ đội, lực lượng cứu hộ của Mỹ, tất cả mọi người đều có mặt ở đây. Năm chiếc xe tải, xe cứu thương đậu trên đường. Sau đó chúng ta đi lên một ngọn đồi nhỏ, đặc những người, lưng áo họ ướt đẫm mồ hôi hoặc nước mưa, hoặc bùn, hoặc máu, không thể nói được là cái gì.
“Cái gì vậy?” Huê Lan hỏi, lau kính bằng một ngón tay. “Chị nhìn thấy cái gì không?”
Chúng ta lại gần hơn. Ta có thể nhìn thấy nhiều người đang quỳ trên một cái gò nhỏ trước đây chắc là một tòa nhà. Mọi người đang làm việc rất căng thẳng, họ đào bới rất nhanh, bằng những bất cứ cái gì có trong tay.
Lúc đó ta nhìn thấy cái người đàn bà cầm chổi. Khi chị quay lại, ta nhìn thấy cũng một cái nhìn kinh hoàng trên khuôn mặt chị, trong một khoảnh khắc, ta cảm thấy giống như nhìn vào một tấm gương, cả hai đều nhìn thấy một nỗi hoảng loạn trên mặc nhau.
Chị quay đi. “Không thể như thế! Các người quá thô bạo”, chị hét nhưng chẳng ai chú ý đến chị cả.
“Xin hãy nhẹ nhàng, nhẹ nhàng!” Chị van nài. Ta nhìn thấy chị ấy quỳ xuống đất, những ngón tay rớm máu đào bới những viên đá, gạch ngói. Sau khi mỗi vật nguy hiểm này được dời đi, chị cúi mặt xuống sát đất, nhìn ngó rất dịu dàng cái mà chị tìm thấy.
Ta luôn thắc mắc chuyện gì đã xảy ra với người đàn bà đang bới móc cả một núi đất cát gạch đá, đổ nát này. Ta không biết là chị mất đứa con trai hay con gái, bởi vì khi họ tìm ra con chị, ta không dám nhìn nữa. Chị gào lên rất nhanh, “Lỗi tại tôi. Lỗi tại tôi mọi đàng” Ta không muốn nhìn đứa bé chắc chỉ còn những mảnh vụn. Người đàn bà bắt đầu buộc tội mình, chúng ta chạy đi tìm Đạm Như. Nhưng chúng ta không tìm thấy Đạm Như và dì Du trong cái đống đổ nát này. Chúng ta không thấy họ ở bất cứ một ngôi nhà bị đánh sập nào trên đường này. Huê Lan và ta mất nhiều giờ lùng sục ở khu vực này; nghe tiếng những người mẹ gọi tên những đứa con bị lạc, bị chết: quan sát niềm hi vọng hết này đến lần khác lại hóa ra thành tuyệt vọng; nghe những lời la hét biến thành kêu gào, rồi rên rỉ; mục kích sự hoài nghi biến thành những lời thì thầm hối tiếc. Mỗi lần chứng kiến sự thất vọng của ai đó, ta lại hứa, hết lời hứa này đến lời hứa khác. Ta nói to lên, thề với tất cả các vị thần nam cũng như nữ. Ta thề sẽ trở thành một người mẹ chăm con chu đáo hơn, thành người bạn chân thành, trung thực với Huê Lan, cố là một người vợ vị tha, tốt bụng với Văn Phú, tôn trọng, nghe theo những lời khuyên bảo của dì Du, chấp nhận số phận không một lời than vãn. Sau khi ta tuyên thệ lời thề cuối cùng, ta nhìn thấy con bé giúp việc chạy về phía ta kêu lên, “Cuối cùng con cũng tìm thấy cô”, cứ như thể chúng ta mới là những người bị lạc. Ôi, ta khóc như mưa khi nghe nó nói, những tiếng lòng thổn thức mà ta chôn sâu khi ta nghĩ mình thật sự mất con. Thế là dì Du, Đạm Như đang ở nhà, họ về tới nhà hai phút sau khi chúng ta đi. Tất cả mọi người đều lo lắng vì biết chúng ta sẽ sốt ruột đến chết đi được trong khi họ không bị lạc. Thế là Đạm Như an toàn, ta biết mình phải giữ lời hứa. Huê Lan đã nghe lời ta hứa, đặc biệt là lời hứa sẽ trở thành người bạn trung thành của cô. Tất nhiên ta không nghĩ đến chuyện lấy lại lời hứa vì sợ rằng vì thế mà Đạm Như sẽ chết. Nhỡ nó đã ở nhà nhưng bị mất một mắt hoặc một chân thì sao. Ai biết được những hy vọng được thực hiện như thế nào.
Tất nhiên sau này, rất lâu sau này, ta nhớ, ta vẫn nhớ, may mắn cho ta: ta đã nói những lời hứa này rất lâu sau khi họ đã về đến nhà.