← Quay lại trang sách

Chương 18 VŨ ĐIỆU MỸ

Ta không thất hứa, ta không phản bội lại lời hứa. Ta lấy lại một lời hứa chỉ một lời hứa ta sẽ trở thành người vợ tốt hơn của Văn Phú. Điều đó có khác với chuyện không giữ lời.Điều đó cũng giống như mua cái gì đó ở tiệm Macy sau đó mang trả lại. Ta đã làm chuyện đó tuần trước, mua một đôi giầy hạ giá cho đám cưới của Bảo Bảo. Hai ngày sau ta thấy cũng đôi giầy đó giảm giá 20% nữa thế là ta mang trả lấy lại tiền. Sau đó mua một đôi giầy khác rẻ hơn nữa. Ta không làm hại bất cứ một ai với cái việc đem trả lại đôi giầy này. Ta mua những đôi tương tự như vậy hoài. Xem này chúng ở trong cái hộp này, kiểu dáng cũng giống như những đôi giày ta đã mang trong chiến tranh. Cũng gót cao mặc dầu không cao quá. Cũng cái màu nâu đỏ, cũng cái kiểu hở mõm nhưng không tốt bằng đôi giày ta mang trong buổi khiêu vũ đầu tiên của người Mỹ mà ta tham dự. Ta đã khiêu vũ với đôi giày như thế lần đầu tiên ta yêu. Điều đó xảy ra khi Flying Tigers đến Côn Minh. Tất nhiên hồi ấy họ không được gọi là Flying Tigers. Họ được gọi là AVG viết tắt của cái tên American Volunteer Group – đội quân tình nguyện Mỹ. Mặc đầu một số người gọi họ là những con cá mập hay bởi vì họ đã vẽ những chiếc răng cá mập ở đằng trước máy bay của họ. Một ai đó nghĩ rằng không phải răng cá mập mà là răng hổ. Vì thế mà bây giờ con biết tại sao họ có cái tên Những con hổ bay, đó là một sự nhầm lẫn.

Dù sao thì chúng ta cũng được mời đến một buổi vũ hội ăn mừng chiến thắng của người Mỹ. Vào cái ngày chúng ta chuẩn bị đi vũ hội Huê Lan nói với ta rằng có một cô giáo người Hoa bỏ chồng, phát cuồng lên vì tình, muốn ngủ với bất cứ người Mỹ nào, có vợ hay độc thân, trẻ hay già, không thành vấn đề.

“Cô ta nói ra miệng như thế đấy, một phụ nữ Trung Hoa!” Huê Lan nói. “Đúng thế đấy. Mọi người đều nói rằng cô ta bị nhiễm một chứng bệnh ngay sau chiến thắng của người Mỹ. Cô ta tố cáo chồng trước mặt con người. Bị bệnh gì - ai mà biết được? Chỉ biết rằng cô ta phát điên lên vì tình dục, không thể không nói về chuyện đó. Cô ta đã đứng tuổi có thể là ngoài 30 tuổi và thậm chí không đẹp”.

Huê Lan nói rằng cô giáo điên này cũng đến vũ hội được tổ chức tại câu lạc bộ Mỹ. Người Mỹ mời phi công Trung Quốc cùng với vợ hoặc bạn gái đến dự bữa tiệc của họ. Tất nhiên chúng ta rất muốn đi dự vũ hội, sẽ có âm nhạc-máy hát và đĩa hát – rất nhiều đồ ăn, rượu uýtxki có vị như soda làm mọi người hăng hơn.

Ta nhớ vũ hội này xảy ra vào Giáng sinh năm 1941. Nó được tổ chức ba ngày sau khi máy bay Nhật lại đến ném bom Côn Minh, nhưng lần này quân tình nguyện Mỹ đã đuổi cổ chúng đi. Chiến thắng lớn đầu tiên của chúng ta sau bao năm. Mọi người đều đổ ra đường, la hét, gào thét đón mừng những chiếc máy bay chiến đấu của Mỹ với những hàm răng cá mập. Pháo nổ tưng bừng, trống đánh rộn rã, còi xe hơi bóp inh ỏi. Không khí vui như Tết. Vì thế có thể tất cả chúng ta đều say mê những người Mỹ như là cô giáo nọ.

Ngay khi đến gần câu lạc bộ Mỹ chúng ta đã nghe thấy âm nhạc rộn ràng đó chính là giai điệu mà Minh một lần đã dạy ta, “Thư máy bay đặc biệt” với những tiết tấu tươi vui náo nức. Văn Phú bật bật ngón tay mỉm cười trước quang cảnh này. Mọi người đã bắt đầu nhảy, những cô gái với đôi giày bự của người Mỹ lướt trên sàn tạo lên những âm thanh rất vui tai. Nếu có cô giáo nọ ở đây ta cũng không biết. Có rất nhiều những cô gái Hoa đang quay cuồng trên sàn nhảy: Sinh viên đại học, giáo viên, y tá, cả những người tản cư từ các vùng khác nhau trong nước. Tất cả đều nóng lòng được sà vào vòng tay một người Mỹ. Ai biết được làm sao họ có được những bộ đồ dạ hội theo kiểu phương Tây – màu hồng, mày xanh lá cây, màu vàng, một số có đính hoa. Nhiều người với những cái váy dài thướt tha, vai, tay hầu như để trần. Họ đang ở đây quay cuồng trong điệu vũ với những chiếc mũ phi công đội lên mái tóc mới uốn của họ, với tất cả những kiểu quậy phá ngớ ngẩn ấy.

Tất nhiên câu lạc bộ Mỹ không phải là một hộp đêm. Nó là một nhà kho lớn. Ban ngày những người tình nguyện Mỹ dùng làm nơi hội họp. Cho vũ hội đêm ấy, sàn nhà đã được cọ rửa nhiều lần đến nỗi mặc dù chỉ là nền xi măng nó cũng sáng lên như là cẩm thạch ướt. Ghế dựa để dạt sang một bên. Trên những cái bàn dài có đặt những cái ly với những ngọn nến sáng lấp lánh, cái loại nến vào mùa hè dùng để đuổi côn trùng. Nhưng đó là loại nến duy nhất con có thể kiếm được vào lúc ấy. Từ trần nhà, dọc theo các bức tường, người Mỹ treo những hình trang trí bằng giấy-cây cối, nến, những hình nhân với gam màu tươi sáng. Trông chúng chẳng có gì thú vị. Nhưng Gia Huy nói rằng đó là những tấm thiệp Giáng sinh đặc biệt của những người truyền giáo, các cô gái ở hội Thánh Giá đỏ, phải khó khăn lắm mới mang được qua những dãy núi Miến Điện. Chúng ta biết rằng một chuyến đi như vậy là rất mạo hiểm dù là với những đồ tiếp tế quan trọng trong thời chiến. Vì thế chúng ta nhìn lại với ánh mắt ngưỡng mộ những tấm thiệp Giáng sinh Mỹ. Hội Thánh giá đỏ đã gửi đến một cây thông Noel mà Văn Phú nói là của Mỹ chính hiệu con nai vàng, hắn nhớ đã xem những bức hình này trên tạp chí. Với ta, cây thông này trông chẳng khác gì những cây thông Noel. Nó được trang trí bằng những thiệp chúc mừng, những sợ ruy băng màu đỏ, những quả bóng vải màu trắng, một cái gì đó trông giống như những hạt sen đặc nối vào nhau thành những chuỗi hạt đeo cổ dài. Phía dưới là những cái vớ màu đỏ lớn, những cái vớ len mà con có thể mang vừa, bên trong có những thỏi chocolate hoặc là kẹo được bọc bằng giấy bạc, cột lại bằng một sợi dây nơ. Ta biết rõ như thế bởi vì Huê Lan đã lấy bốn cái vớ như thế, khăng khăng nói rằng người Mỹ còn khuyến khích cô lấy thêm.

Văn Phú bảo ta rằng hắn đã học nhảy trong những hộp đêm ở Thượng Hải nhiều năm về trước. Ta có thể thấy rằng hắn muốn biểu diễn những điều hắn biết. Ta biết ngay sau đó là hắn chỉ nói mẽ. Hắn không biết bước đi, không biết nhịp phách, không biết kĩ thuật, hoàn toàn không phải như Minh, người có thể làm cho tay, chân cô ta chuyển động như những cành cây lay trong gió nhẹ. Văn Phú xoay ta thật thô bạo đến nỗi ta ngỡ là tay ta sẽ bị vặn khỏi thân. Cuối cùng hắn đạp lên chân ta một cái vụng về đến nỗi một gót giày long ra, bất thình lình ta khiêu vũ giống như một người thọt, một chân dài một chân ngắn. Văn Phú cho ta ra nghỉ. Từ ghế ngồi của mình ta nhìn hắn đi đến một nhóm thiếu nữ, tất cả đều phục sức rất đẹp. Hắn chỉ vào bộ quân phục của mình, một cô gái cười ngặt nghẽo. Ta quay đi. Nếu hắn muốn quyến rũ ai ta cũng cóc quan tâm. Sau đó ta nhìn Huê Lan, Gia Huy nhảy với nhau vai kề vai nhưng chân của Huê Lan lại lóng ngóng xoạc ra chẳng theo một kiểu nào cả. Gia Huy phải vừa ép cái eo bự của cô ta lại gần anh, vừa lắc cô nhè nhẹ như thể làm như vậy cô sẽ đi đúng bước hơn. Anh ta hình như đang rầy la cô nhưng cô chỉ cười. Quan sát họ, ta tự hỏi, liệu những mơ ước của Huê Lan cuối cùng đã thành sự thật chưa? Khi nhìn thấy ta, cô vẫy tay bỏ chạy khỏi ông chồng.

“Giá em có thể khiêu vũ để cứu mọi người khỏi thảm họa!” cô nói, đoạn ngồi xuống quạt phành phạch một quạt giấy. “Chị nhìn thấy cô ta không?” “Ai?” ta hỏi, ta đang gắn cái gót vào chiếc giầy, sau đó dậm chân để chắc rằng chiếc gót lại được dính vào giầy. Huê Lan cúi người về phía trước. “Tất nhiên là cái cô giáo ấy, cô ta bận một chiếc áo đầm màu xanh da trời. Cô ta nhổ hết lông mày, sau đó vẽ lại”.“Cô ta đâu?” ta hỏi nhìn quanh quất trong phòng. “Ở gần bàn thức ăn ấy, đang quấn lấy một người Mỹ. Đi xem đi”. Huê Lan nói. Nhưng chúng ta không tìm thấy người đàn bà điên khùng. Trái lại, Huê Lan tìm thấy những thứ mà cô muốn ăn, đồ ăn của Mỹ cũng được gửi tới từ những tổ chức công giáo ở rất xa. Ta có thể thừa nhận rằng ta cũng tò mò muốn nếm những món ăn đã được gửi đến trong những chuyến bay dài nguy hiểm. Thế là ta thử hết cả ba loại, thứ nhất là một loại bánh mềm đặt tên theo cái màu của nó màu nâu – ngọt đến nỗi ta ê cả răng. Loại thứ hai là thức ăn hình vòng cổ treo trên cây – bắp chiên. Nó rất giòn, hơi ngứa, ta cố gắng xác định hương vị của nó, sau đó ta ăn một cái bánh nhỏ có một cái gì kinh khủng phết lên trên. Huê Lan cũng ăn một cái, nghĩ rằng bánh của cô ta đã bị hư. Nhưng không phải. Đó là lần đầu tiên chúng ta xơi pho mát. Rồi ta và Huê Lan cùng nhìn thấy một người khác thường, một người Hoa đi từ bàn này sang bàn khác nói chuyện với cả phi công người Mỹ lẫn phi công người Hoa. Anh cao gần như người Mỹ, có một phong thái hòa nhã và hoạt bát. Nhưng điều này còn lạ hơn, anh mặc quân phục Mỹ. Khi anh đến gần chúng ta, Huê Lan tự hỏi anh một cách suồng sã. “Ê! Anh kiếm đâu ra bộ quân phục đang mặc vậy?” cứ như thể đó là đồ ăn cắp. Nhưng người đàn ông vẫn giữ nụ cười trên môi. “Tôi là người Mỹ”. Anh nói bằng tiếng Hoa, rồi nói một cái gì đó rất nhanh bằng tiếng Anh của anh ta nghe chuẩn xác như là giọng một cao bồi, tất nhiên cô ta nói điều đó bằng tiếng Hoa. Ta cũng làm người đàn ông này và Huê Lan ngạc nhiên bằng một câu tiếng Anh”. “Trước kia ở Thượng Hải tôi cũng đã học tiếng Anh”. Người đàn ông bắt đầu hỏi ta dồn dập nhiều câu tiếng Anh.

“Không, không”, ta nói, quay lại với tiếng mẹ đẻ, “học không có nghĩa là có thể nói được. Tôi là một cô gái nghịch ngợm, một học sinh kém. Các bà sơ đã phải cầu nguyện cho tôi rất nhiều”.

Anh cười, hỏi bằng tiếng Hoa.“Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện của họ phải không?”

Ta mỉm cười, lắc đầu. “Tôi vẫn đủ vốn tiếng Anh để nói rằng với đôi mắt của tôi anh giống người Hoa, với đôi tai của tôi anh đúng là một người ngoại quốc”.

Người đàn ông lại cười. “Thật ngạc nhiên!” Anh nói tiếng Anh rồi chuyển sang nói tiếng Quan Thoại để cảm ơn ta. Sau đó anh chuyển sang nói tiếng Quảng Đông, một tiếng địa phương nữa rồi cuối cùng tiếng Nhật.

“Anh thay đổi giọng nói của anh giống như một cái máy hát đĩa vậy”, ta nói.

“Ôi!” Huê Lan chọc. “Có lẽ anh là một gián điệp dù tôi khó có thể nói anh làm việc cho bên nào”. Người đàn ông móc trong ví ra thẻ căn cước đoạn giải thích anh là người của tổ chức thông tin Hoa Kì làm nhiệm vụ phiên dịch cho những người lính tình nguyện Mỹ và lực lượng không quân Trung Quốc. “Công việc không có gì khó”, anh nói một cách khiêm tốn, “ví dụ một trong những người phi công của các chị muốn bày tỏ sự cảm ơn với người Mỹ”, anh chỉ vào một tấm áp phích trên tường trước mặt chúng ta, “tôi bảo anh ta viết những từ này”.

“Nó viết gì vậy?” Huê Lan hỏi. “Hooray yanks”.

“Nó có nghĩa là gì?” ta hỏi. Người đàn ông vừa là người Hoa vừa là người Mỹ này nhìn ta. Anh không nói gì trong vòng vài giây dường như anh suy nghĩ rất lung để dịch từ này cho chuẩn xác. Cuối cùng anh nói, “Nó có nghĩa là chị rất ngạc nhiên, rất bàng hoàng về hạnh phúc đến nỗi chị không thể diễn đạt những từ này bằng cách thông thường”.

Khi anh nói thể ta có cảm tưởng anh đang nói về chính cái ước muốn sâu thẳm trong tim ta, rằng một ngày kia ta cũng vậy, chụp được hạnh phúc như bắt một con cá ở trong lưới.

Bất thình lình ta thấy mình đứng quá gần anh. Căn phòng đông nghẹt. Ta cố lùi lại phía sau về phía bức tường, đó là lúc chiếc gót giày lại sút ra lần nữa, người thanh niên này phải đỡ lấy ta không thì ta lăn quay ra sàn. Ta đã gặp Jimmy Louie – phải cha con, như thế đấy! Con tưởng tượng được không? Ta đi tìm cái cô giáo điên cuồng vì người Mỹ. Thay vì thế ta lại tìm được một người Mỹ điên cuồng vì ta.

Nhiều năm sau, cha con còn tuyên bố với những bạn bè người Mỹ của ông, “Tôi yêu cô ấy ngay từ phút ban đầu. Như là Winnie – có thể cảm thấy. Nhưng đó là vì tôi đã bắt được cô ấy”. Cha con duyên dáng, vui nhộn như thế đấy, con nhớ không? Cha con bao giờ cũng như vậy, ngay từ buổi ban đầu.

Những điều cha con nói là sự thật. Ta không thể thừa nhận ta yêu cha con từ cái nhìn đầu tiên. Ta không có những ý nghĩ lãng mạn. Ta là một phụ nữ đã có chồng, cố gắng thoát khỏi những rắc rối trong cuộc hôn nhân của mình, không tìm kiếm một cơ hội nào khác.

Dù vậy, phải thừa nhận là ta rất thích ngắm nhìn Jimmy Louie, sự thoải mái của anh ta bên cạnh những người Mỹ. Khi một nhóm người Mỹ cao lớn đến bên bàn ăn, Huê Lan và ta tránh ra một bên, nhường chỗ cho họ. Nhưng Jimmy Louie, không do dự một giây đã vỗ lên lưng họ, cất tiếng chào – “Chào Smitty!”, “Chào Jonhny!”, “Chào Hank!”

Một cách trung thực, ta cũng phải thú nhận là ta càng lúc càng trở nên xấu hổ với bộ cánh mà ta mặc đêm ấy, một chiếc váy nâu tay dài quá đơn giản. Tệ hại hơn ta còn tháo giày ra, đi chân đất. Trông ta không khác gì một cô gái đặc nhà quê. Một người Mỹ sẽ nghĩ gì? Quanh ta có biết bao những cô gái khác, tất cả đều trong những bộ cánh sang trọng, lộng lẫy tóc được quấn thành từng lọn đẹp đẽ, chẳng hề có bóng dáng của chiến tranh hay của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc trên gương mặt họ.

Đêm ấy, có vẻ như tất cả các cô gái đều say mê Jimmy Louie, ít nhất cũng năm, sáu cô gái một lần. “Tất nhiên, anh rất đẹp trai, nhưng anh không khuyến khích những cô gái này theo kiểu Văn Phú đã làm. Anh rất nổi vì anh đã đặt cho mỗi cô gái một cái tên kiểu Mỹ để họ có thể giới thiệu với nhau những cái tên yankee chính hiệu.

Jimmy Louie sẽ quan sát khuôn mặt tươi cười của họ, như thể anh đoán định tính cách của họ trong một vài giây, tìm cho họ những cái tên thích hợp nhất. Với phần lớn các cô gái, anh đưa ra những cái tên dễ đọc như là: Donna, Dotty, Patty, Sally, Sussie, Maggie, Mattie, Jeannie, Judy… Nhưng nếu một cô gái tự phụ hoặc bắng nhắng, muốn một cái tên đẹp hơn tên các bạn, anh sẽ cho cô ta một cái tên đọc trẹo cả lưỡi, rất khó phát âm đối với người Hoa: Gretchen, Faith, Theolora. “Đây là những cái tên Mỹ hay nhất”, anh bảo các cô này, sau đó quay sang nháy mắt với chúng ta. “Còn các cô thì sao?” cuối cùng anh hỏi, “các cô cũng muốn có một cái tên Mỹ chứ?”Anh hỏi tên chúng ta là gì. Sau đó anh nheo một bên mắt, nhếch một khóe miệng, giả vờ nhìn chúng ta qua một ống kính tưởng tượng, như thể anh có thể bắt được đúng cái điều anh nhìn thấy chỉ với một từ.

Đó là cách mà Huê Lan trở thành Helen. Jimmy nói Helen là một cái tên quý phái, nhưng ta nghĩ anh chọn nó gì nó nghe gần giống như Huê Lan. Ta tên là Winnie, cái tên mà anh nói rất sống động, có âm hưởng may mắn. “Win, Win, Win”, anh nói. Anh viết cái tên này lên một mảnh giấy. Đúng lúc đó các ông chồng đi tìm chúng ta. Anh bắt tay Văn Phú, Gia Huy theo lối phương Tây. Anh cũng cúi chào theo kiểu Trung Quốc. Nếu anh thất vọng vì biết ta đã có chồng thì anh cũng không để lộ ra – mặc dù anh sớm tìm ra cách cho ta biết, anh nghĩ gì về chồng ta. Huê Lan khoe với Gia Huy về cái tên Mỹ mới của cô. Cô chỉ ngón tay vào mảnh giấy – cứ như thể cô có thể đọc được tiếng Anh “Hua Lan, Hua Lan”, cô nói, đánh vần chầm chậm như cách cô đọc cái tên tiếng Hoa của cô.

“Còn em thì sao? Văn Phú hỏi ta.

“Winnie”, ta đáp.

“Không đến nỗi nào”, Văn Phú nói sau đó quay qua Jimmy. “Vì anh đã hào hiệp suốt tối nay, anh có thể đặt cho tôi và bạn tôi một cái tên không?” Thế là Jimmy đặt tên cho họ. Với Gia Huy anh đặt tên là Jack, “Jack giống như Jack London”, Jimmy nói. “Một người Mỹ nổi tiếng về sự phấn đấu và những cuộc phiêu lưu của mình”.

“Jock!Jock!” Gia Huy lặp lại nhiều lần cái tên đó. “Tôi thích cái tên này lắm”. Không sửa lại Gia Huy, Jimmy viết cái tên mới của Gia Huy là Jock. Jimmy là như thế đấy, hết sức lịch thiệp không bao giờ làm người khác phải ngượng một cách không cần thiết.

Với Văn Phú, Jimmy gợi ý cái tên Victor. “Đó là một cái tên may mắn với một phi công, một cái tên hợp với tên vợ anh”, anh giải thích.

Nhưng Văn Phú yêu cầu tên hắn phải quan trọng hơn tên ta. Rằng nó không được quá thông thường, rằng nó phải đặc biệt, không giống tên người khác.

“Có thể là tên một vị anh hùng thời đại”, Jimmy nói.

Văn Phú chưa đồng ý, “Phải quan trọng hơn thế”.

“Một người thay đổi lịch sử mãi mãi”, Jimmy gợi ý. “Chính xác”, Văn Phú kêu lên, “đó sẽ là cái tên hay nhất”.

“Zudas”, Jimmy đáp, “tên anh sẽ là Zudas. Tôi không biết một người nào có cái tên này”.

“Zudas, Zudas, Zudas”, Văn Phú lặp lại cố làm quen với cái tên mới của hắn. “Đó là một cái tên tuyệt lắm, nghe cũng hay lắm với lỗ tai”. Gia Huy, Huê Lan đều đồng ý.

Ta cắn môi nhớ lại những điều sơ dạy ở trường về cái tên xấu xa này. Lúc này Jimmy có thể thấy ta cố gắng nín cười, còn anh cười như một cậu học trò phổ thông, hài lòng với việc anh đã làm.

Anh viết tên mới của Văn Phú lên một cái giấy rồi nói.

“Bản nhạc này có tên là bản xô nát Ánh trăng, một bản nhạc người Mỹ rất thích. Anh vùi lòng cho tôi nhảy với vợ anh nhé”. Trước khi Văn Phú có thể nói điều gì phản đối, trước khi ta có thể từ chối rằng ta không có giày, ta đã thấy mình quay tròn trong vòng tay của Jimmy cách xa khuôn mặt nhăn nhúm của Văn Phú, đi dần vào giữa đám đông những vũ công vui nhộn. Anh khiêu vũ rất giỏi, gần bằng Minh.

“Thật là quá đáng, cái tên anh đặt cho hắn”, ta rầy anh bằng một giọng bỡn cợt. “Bây giờ thì tôi sẽ gặp rắc rối với chồng tôi”. Jimmy cười vang, “Anh ta có khiếu hài hước không?” “Chỉ có với những câu đùa hắn ném cho người khác”.

“Tất nhiên tôi đã không đúng rồi”, Jimmy bảo.“Thật quá đáng”, ta nói, Jimmy cười, nháy mắt với ta. Ta đập vào vai anh, anh ngửa cổ ra sau cười vang, ta cũng cười theo. Đó không phải là tình yêu mà là mối hiểm nguy của nó. Sau đó Jimmy xoay ta từ từ sang một góc. Ở đây, ta nhìn thấy một cảnh tượng dễ sợ làm ta không thể thốt lên lời. Đó là cô giáo điên trong bộ váy màu xanh da trời, một nửa lông mày đã bị cạo đi, mắt cô ta nhắm hơn là mở. Cô ta như một vũ nữ say ngủ trong vòng tay của một phi công Mỹ. Người phi công này xoay cô ta sang vòng tay của một phi công khác, cả hai cùng cười, trước khi quăng cô ta cho một người khác nữa. Ta không thể không nhìn, những điều Huê Lan nói giờ đây đang diễn ngay trước mắt ta. Chính mắt ta trông thấy người đàn bà mù quáng, trắc nết, một người đàn bà đã thóa mạ người chồng Trung Quốc của mình, bây giờ đáng phải nhận những lời bà ta đã nhổ vào mặt chồng. Ta cũng không tốt hơn gì bà ta. Ta đã để cho một người Mỹ trêu chọc chồng mình, bây giờ ta lại đi chân không nhảy nhót với chính cái người Mỹ ấy, để cho anh ta xoay ta như một con rối theo bất cứ kiểu nào mà anh thích. Thế là ta lấy cớ xin lỗi không nhảy nữa, nói với Jimmy rằng ta là phụ nữ đã có gia đình già nua và mệt mỏi. Rồi ta để anh đứng lại một mình giữa sàn nhảy không nghĩ là mình có dịp gặp lại anh lần nữa. Vào lúc ta tìm thấy Văn Phú thì đêm đã khuya. Khi chúng ta về đến nhà Văn Phú nổi trận lôi đình ngay lập tức. Không phải vì cái tên Jimmy Louie đã đặt cho hắn, nhiều năm sau hắn mới hiểu được cái nghĩa của từ Zudas. Đêm ấy hắn nổi cơn tam bành vì ta đã khiêu vũ với một người Mỹ. Một người phi công nói đùa với Văn Phú rằng có lẽ những người tình nguyện Mỹ cũng có sức quyến rũ phụ nữ như những người Nhật.

Vì thế ta không ngạc nhiên khi thấy hắn giận dữ, ta đã chuẩn bị cho điều đó. Trong căn phòng trên lầu hắn chửi bới, gọi ta bằng đủ mọi cái tên xấu xa, những lời thóa mạ hắn đã dùng suốt trong những năm chung sống với nhau: “Đồ đĩ! Đồ quỷ cái! Đồ phản bộ!” Hơi rượu nồng nặc phả ra từ miệng hắn. Ta không chống cự. Nhưng ta cũng không tỏ ra sợ hãi. Ta để cho những lời nhục mà này dội lên người. “Mày muốn làm điếm? Tao sẽ cho mày làm điếm”. Hắn đến bên bàn lôi ra một cái gì đó từ trong ngăn kéo, đoạn ném ra một tờ giấy, một cái bút và một lọ mực.

“Nào bây giờ tao sẽ li dị mày”, hắn nói, “viết, “Chồng tôi li dị tôi”.

Khi nhìn lên ta thấy hắn chĩa một khẩu súng vào đầu ta cười điên dại. “Không có ích gì! Cuộc hôn nhân đã kết thúc”, hắn nói, “nếu mày không viết tao sẽ giết mày!”

Hắn nghĩ ta là đứa đại ngu chắc, hắn nghĩ ta sợ, ta sợ cái gì kia chứ? Ngược lại ta cảm thấy mình gặp may vô cùng. Ta viết thật nhanh. Trong lúc viết máu ta chảy dào dạt trong huyết quản, ý nghĩ lao vun vút như tên bay, cảm thấy chẳng bao lâu ta sẽ được tự do. Ta viết thật nhanh tên hai người, ngày tháng, kí tên ta bên dưới. Ta chừa ba chỗ trống cho hắn, hai nhân chứng kí tên. Ta kiểm tra lại mọi chi tiết hai lần rồi đưa tờ giấy cho hắn, cố không để lộ nỗi giận dữ, niềm hạnh phúc của ta. “Anh kí vào đây”, ta chỉ vào phía dưới tờ giấy.

Hắn đọc nó đoạn nhìn ta với không biết bao nhiêu là căm hờn trong ánh mắt. Hắn kí vào tờ giấy gần như làm rách toạt tờ giấy. Hắn ném mọi thứ xuống sàn nhà. Ta nhặt mảnh giấy đã trở nên quá quý giá đối với ta. “Mày thấy đấy, bây giờ tao đã bỏ mày”, hắn nói bằng giọng xa lạ, “mày không xứng đáng một cái gì hết, mày không có chồng, không có nhà, không có con trai”. Ta nhìn lên giật mình. Ta còn chưa nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra cho Đạm Như, ta ngu ngốc làm sao khi nghĩ thân thể ta là của ta, một cái gì được bảo vệ hay mất chỉ vì ta. Ta không bao giờ được bỏ con. Ta không bao giờ được làm như mẹ ta đã làm với ta.

Hắn chĩa khẩu súng vào phía ta. “Nào bây giờ hãy van xin tao không li dị. Van xin tao hãy xé tờ giấy li dị trong tay mày”. Hắn nói, dí khẩu súng gần hơn vào đầu ta. Miệng hắn xấu xí, cong cớn giống như miệng một người điên nhưng mắt hắn thì tỉnh rụi. “Làm ngay, quỳ xuống van xin tao”.

Ngay lúc ấy ta hiểu rằng hắn muốn làm cho ta đau khổ ê chề. Hắn sẽ thay đổi như chong chóng, cho đến khi ta không còn đủ sức chống đỡ. Hắn sẽ không thỏa mãn cho đến khi hắn chứng minh đi chứng minh lại rằng hắn khống chế ta hoàn toàn. Đầu óc ta vỡ ra, ý chí chiến đấu tiêu tán. Ta chỉ còn bật một tiếng khóc lớn cho bản thân. Thế là với cái mặt gục xuống sàn ta van nài hắn.

“Nói to lên!” hắn ra lệnh, “mày rất xấu hổ vì mày chỉ là một con đĩ vô giá trị”, ta lặp lại những lời này.

“Lạy ta và hứa rằng mày sẽ trở thành một người vợ vâng lời”. Ta lạy, lặp lại những lời đó. Hắn cười đểu cáng, “Nói rằng mày không thể sống nếu tao không phủ lên mày”. Ta lặp lại những lời ghê tởm đó. Văn Phú bắt đầu cười to hơn, “Tao thích thế này lắm”. Sau đó hắn trở nên yên lặng. Hắn bước lại gần giật tờ giấy li dị từ tay ta. Ta nghĩ màn tra tấn đã qua. Nhưng không hắn đợi cho đến lúc ta nhìn lên mới tạo một vẻ mặt buồn bã. Hắn lắc đầu nhìn ta rồi nhìn tờ giấy. “Quá trễ rồi, ta sẽ không công nhận mày là vợ. Mày vẫn bị chồng bỏ”. Sau đó hắn ném tờ giấy lên trên đầu ta. “Cầm lấy”, hắn hét lớn, “lên giường!”

“Giết tôi đi nếu anh muốn”, ta van nài.

“Tất nhiên tao sẽ giết mày, nếu mày không vâng lời ta. Lên giường!”

Đêm ấy với một khẩu súng gí vào đầu ta hắn hiếp ta, nói rằng ta đã mất quyền làm vợ chỉ có nghĩa vụ của một con điếm. Hắn bắt ta làm hết điều kinh khủng này đến điều kinh khủng khác. Hắn bắt ta phải nài nỉ hắn thêm lần nữa, lần nữa. Ta làm tất cả những điều này cho đến khi ta không còn ý thức nữa. Cười, khóc như một mụ điên. Tất cả những cảm xúc trong con người ta đã cạn kiệt. Sáng hôm sau khi Văn Phú đã đi làm ta nhặt mảnh giấy trên sàn, sửa soạn valy. Ta rất vội chỉ mang đi một vài thứ, cùng với tất cả số tiền mà ta còn khoảng 200 tệ rồi ta bế Đạm Như đi. Huê Lan, dì Du nhìn thấy ta xuống cầu thang, qua vẻ mặt của họ ta biết rằng họ đã nghe thấy cuộc cãi vã đêm qua.

“Ông chồng nào cũng xấu tính thôi”, Huê Lan nói cố tỏ ra biết điều với ta. “Trường hợp của chị cũng vậy thôi”. Ta chìa tờ giấy li dị. “Cái gì vậy?” Huê Lan hỏi. “Đơn li dị. Đêm qua chồng tôi đã li dị thôi. Chị thấy đấy, bây giờ tôi phải đi.”

“Ối giời”, dì Du kêu lên. “Thật là thảm họa!”

“Ai là nhân chứng?” Huê Lan hỏi nhìn vào tờ giấy. Cô ta đẩy cái kính vào sát mũi. “Tôi không thấy tên nhân chứng.”

“Không có người làm chứng”, ta nói. “Đêm qua chúng tôi không có thời gian để tìm người làm chứng.” Huê Lan vỗ tay vì sung sướng. “Vậy thì chị không bị li dị! Hắn không thể buộc chị ra đi. Bây giờ ngồi xuống ăn sáng đi. Bình tĩnh, đừng lo lắng gì hết. Đó chỉ là một sự hiểu lầm. Tối nay hắn sẽ xin lỗi, những giọt nước mắt hối hận sẽ trào ra trên mặt hắn, rồi chị xem”. “Chị chẳng hiểu gì hết!” Ta gào lên. “Tôi là người muốn li dị. Tại sao tôi lại muốn níu kéo cuộc hôn nhân này?” Ta bắt đầu run rẩy toàn thân. “Đó không chỉ là tính khí, hắn là một con quỷ. Hắn xấu xa hơn chị tưởng tượng nhiều”. Lúc ấy, ta nảy ra một ý. “Đây, hai người có thể làm chứng cho tôi”, ta nói nhanh. “Hai người hãy điểm chỉ vào đây. Nếu hai người làm thế tôi sẽ đội ơn suốt đời.”

“Sao tôi có thể làm thế được?” Huê Lan nói đẩy tờ giấy ra.

“Nó đúng đấy, tiểu nương” dì Du nói. “Sao con có thể yêu cầu bạn con làm nhân chứng cho nỗi bất hạnh của con? Hãy nghĩ về đứa con trai nhỏ của mình!”

“Tất nhiên là tôi nghĩ đến con trai tôi. Đó là lí do tôi ra đi. Li dị hay không chúng tôi cũng vẫn đi”. Dì Du bắt đầu kêu khóc “Ối da con có thể đi đâu? Ở đâu? Hãy suy nghĩ bằng cái đầu con tiểu nương. Đường Miến Điện, đường tàu tất cả đều bị cắt. Nguy hiểm rình rập khắp nơi, cái này còn tồi tệ hơn cái kia – trộm cắp, muỗi mát, quân Nhật”.

“Con thà đối mặt với những nỗi hiểm nguy ấy còn hơn là chung sống với hắn”, giọng ta vỡ ra.

“Vô ích”, dì Du nói, buông hai tay, “chúng ta không thể nói hơn thiệt với cô ấy. Một cơn gió giận dữ đã thổi tung đầu óc con bé, nó không nghe ai nói đâu, nó sẽ đi bất chấp mọi chuyện”. Đột nhiên Huê Lan cất lời một cách lặng lẽ. “Vậy thì chúng ta sẽ giúp chị ấy, chúng ta không thể làm khác”. Cô quay về phía ta. “Em không thể làm nhân chứng cho chuyện li dị của chị. Em chắc rằng Gia Huy sẽ phản đối điều đó. Nhưng em có thể giúp chị chạy trốn, nếu chúng ta có thể giữ bí mật.”

Ta vòng tay ôm Huê Lan, giống như một đứa trẻ vòng tay ôm mẹ nó, ta khóc vì biết ơn, điều này làm Huê Lan bối rối. “Chúng ta không có thời gian đâu. Chúng ta phải nghĩ xem chị sẽ làm gì, đi đâu”. Cô ta đi về phía cái giỏ khâu, thọc tay vào trong đó. Cô lấy ra một ít tiền đưa cho ta. Dì Du thở dài. Đoạn đi vào trong bếp tìm một ít nấm, cá khô, trà, gói mỗi thứ vào một tờ giấy sạch.

Sáng hôm ấy họ giúp ta tìm một căn phòng trọ ở bên kia hồ, rất gần chợ. Đó là một căn phòng nhỏ, tồi tàn, mái rạ. Một nơi tồi tệ mà ta chưa từng thấy. Nhưng ta không than phiền một lời, ta hạnh phúc biết bao vì đã ở đây. Huê Lan nói rằng ta sẽ an toàn, cô cũng nói rằng cô sẽ quay lại khi cô tìm cho ta một chuyến xe tải. Cả chiều, Đạm Như và ta ngồi chơi trên sàn. Ta dùng đôi đũa gắp những con rận ra từ cái đệm. Đạm Như đuổi theo chúng, giết rận bằng một cái đáy bát. Chúng ta làm thế cho đến khi không còn con rận nào, cho đến khi chúng ta thay đổi cái thế giới của chúng ta từ bẩn thỉu trở nên sạch sẽ. Khi làm xong hai mẹ con chúng ta chúc mừng chiến thắng.

Chúng ta ăn một bữa ăn thanh đạm sau đó ôm nhau ngủ. Đạm Như cuộn tròn an toàn bên cạnh ta. Đột nhiên chúng ta thức dậy vì tiếng gầm rống của Văn Phú, “Nó ở đâu?” Giọng của hắn giống như tiếng rống của con bò điên sẵn sàng húc vào cái cổng. Ta ngồi dậy ép sát vào bóng tối trong một góc phòng.

“Yên lặng, không một tiếng nào”, ta thì thầm với Đạm Như. Nó thật tuyệt, nó hiểu hết, nó tin tưởng ta. Nó không khóc. Không một tiếng nghẹn ngào nào, nó vòng tay ôm ta, yên lặng.

“Nó ở đâu?” chúng ta nghe hắn hét lên lần nữa. Đạm Như ép cái mặt nó sát vào mặt ta hơn rồi ta nghe giọng nói khẽ khàng của Huê Lan, “Nhưng anh đã hứa là anh…”

Con thấy đấy, Huê Lan đã giúp hắn tìm lại ta. Tất nhiên cô ta sẽ hối tiếc ngay sau đó, cô ta thấy lời hứa của hắn chẳng có nghĩa lí gì. Hắn không phải loại người giữ lời. Ta không muốn kể cho con chuyện gì đã xảy ra.

Bao nhiêu năm đã trôi qua, nỗi căm hận của ta vẫn không tan biến hoàn toàn. Con có thể nghe thấy điều đó trong giọng nói của ta. Bây giờ khi kể về hắn, ta vẫn còn giận sôi lên và nếu con nghĩ rằng đó là giai đoạn gian khổ nhất của đời ta thì con đã nhầm. Giai đoạn đau khổ nhất bao giờ cũng ở phía trước rồi còn diễn ra sau đó nữa. Không bao giờ con biết khi nào con uống cạn chén đắng cay.

Một tháng sau ta biết mình có bầu. Ta tìm đến bác sĩ, đứa bé được lấy ra trước khi nó thành hình. Hai tháng sau cũng chuyện đó xảy ra, hai tháng sau nữa cũng vậy. Chúng ta không có phương tiện tránh thau hồi ấy. Văn Phú không quan tâm đến việc có con hay không. Con có thể nghĩ ta đã giết quá nhiều sinh linh bé nhỏ mà không hề áy náy. Không, ta không muốn giết những đứa bé này. Người đàn ông xấu xa ấy đã sử dụng thân thể ta, hắn dùng nó hàng đêm như thể ta là – cái gì nhỉ? Một cái máy! Ngày nay con dạy con gái con nói với người khác, “Thân thể tôi là của tôi, không được đụng vào tôi”. Một đứa bé gái có thể nói điều đó. Ta là một người phụ nữ đã trưởng thành mà ta không được nói điều này. Ta không thể ngăn chặn những đứa trẻ tượng hình trong bụng ta.

Ta khóc cho mình, đó là một tội lỗi – trao cho đứa trẻ một cuộc đời xấu xa như thế! Đạm Như đáng thương, nó tin tưởng ta vì thế ta để cho những đứa trẻ kia chết đi. Trong trái tim ta, ta là người tốt. Hãy nhìn khuôn mặt ta bây giờ. Ta từng là một thiếu phụ trẻ, không còn hi vọng, không còn nhiềm tin, không còn sự thơ ngây. Đã biết bao nhiêu lần ta muốn kết liễu đời mình bởi ta căm thù bản thân mình quá đỗi, và cũng bởi vì cuối cùng ta đã không thể làm thế vì vậy ta hỏi con, con nhìn thấy cái gì vẫn còn trong ta? Tại sao ta ham sống đến như vậy?