Chương 19 YẾU ĐUỐI VÀ MẠNH MẼ
Ta đã kể con nghe về những ngày đầu trong cuộc hôn nhân của ta để con hiểu tại sao cùng một lúc ta vừa yếu đuối vừa mạnh mẽ như vậy. Có thể theo cách nghĩ của người Mỹ các con, con không thể vừa yếu vừa mạnh, đó là hai khái niệm đối chọi nhau. Nhưng trong suốt cuộc đời mình ta là như thế đấy, đó là cách duy nhất giúp ta có thể sống còn được.
Nó là như thế này: trong suốt cuộc chiến tranh ta đã sống một cuộc đời không hi vọng. Không hi vọng nhưng ta không tuyệt vọng nữa. Ta cũng không còn đấu tranh chống lại cuộc hôn nhân này. Tuy thế ta vẫn không chấp nhận nó. Đời ta là như vậy đó, mọi thứ luôn lơ lửng ở lưng chừng – không có gì để hy vọng tuy không tuyệt vọng, không cưỡng lại nhưng cũng không chấp nhận. Vì thế con thấy đấy, yếu đuối và mạnh mẽ.
Ta không yêu cầu con phải ngưỡng mộ ta. Ở ta không có sự hài hòa tự bản chất, không có chuyện như thế. Ta nói những điều này chỉ để giúp con hiểu được mọi việc xảy ra như thế nào với một con gà ở trong chuồng, không có đầu óc, không bao giờ mơ được tự do nhưng cũng không bao giờ lo lắng về việc đầu nó có thể lìa khỏi cổ.
Nhưng tất nhiên một con gà ngu ngốc nhất thì cũng sẽ tung cánh bay nếu cửa chuồng mở. Ta sẽ kể cho con nghe chuyện gì đã xảy ra.
Ta phải đợi đến giữa mùa hè năm 1945. Ta vẫn nhớ cái ngày ấy, những gì mà ta đã ăn, những điều mà dì Du đã nói, cái áo mà Huê Lan đã mặc. Ta tự hỏi tại sao ta có thể nhớ, nhớ đến từng chi tiết cái thời điểm ngay trước sự đổi thay.
Dù sao thì chúng ta cũng quây quần quanh một cái bàn vuông – Huê Lan, Gia Huy, Văn Phú, dì Du và Đạm Như ngồi trên một chiếc ghế đẩu nhỏ cạnh ta. Chúng ta ăn bữa sáng – một bữa ăn sáng thông thường – với cháo tấm, rau ngâm dấm trông như những con ốc sên nhỏ, rau diếp cuộn lạnh, những thứ còn lại của bữa tối hôm trước, ngoài ra còn tàu hũ mềm, chè đậu đỏ, một loại đậu nhỏ như răng trẻ con. Bữa ăn của chúng tôi rất bình thường vì vậy chúng ta không mất thời gian để chỉ trích, cũng như ca ngợi món ăn, điều mà chúng ta thường làm trong những bữa ăn đặc biệt, những bữa ăn được chuẩn bị chu đáo hay qua loa.
Tất nhiên, bây giờ khi nhớ lại điều đó, ta có thể nói những món ăn ngày hôm nay – tất cả những gì con có thể nếm ở Mỹ - chỉ là một sự thảm hại. Nói ví dụ như món rau diếp, ngày ấy nó dầy như củ cải, giòn mà ngọt, rất dễ nấu. Còn những miếng tàu hũ, chúng ta có thể mua từ một người đàn ông đẩy xe qua từng nhà mỗi sáng rao to. “Tàu hũ, tàu hũ đây!” Ở ngoài, miếng tàu hũ được chiên giòn, nhưng khi bẻ nó ra, con sẽ nhìn thầy bên trong một lớp mềm như kem với một mùi thơm dễ chịu quyện ngay lấy mũi con.
Nhưng như ta đã nói với con, ngày ấy những món ăn này cũng nhan nhảm như những món lúa mạch con mua ngoài cửa hàng. Tuy vậy bởi vì đó là vào mùa hè, tháng 8 theo lịch của con – chúng ta cũng chẳng có hứng thú ăn uống nhiều lắm. Ta nhớ một điều khác về bữa ăn sáng này. Huê Lan tỉa tót gắp từng hạt đậu bỏ vào miệng. Cô ta múc từng hạt ra khỏi đĩa sau đó giơ nó lên không khí như thể nó là thân một con ruồi sẽ ngọ nguậy trong miệng cô. Dạo ấy cô ta mập lắm, cái áo mà cô ta mặc được may từ cái vải màu trái đào mà ta cho cô bây giờ quá chật so với tấm thân đẫy đà. “Khi em còn là một cô bé”, cô nói, “em là người duy nhất trong làng có thể nhặt 100 hạt đậu một lúc mà không làm rơi”. Rồi cô ta thả một hạt đậu vào miệng.
Tất nhiên ta biết cô ta đang nói gì. Đó là một phong tục cũ ngớ ngẩn để biểu diễn trước mặt bà mẹ chồng tương lai về tự thanh lịch, khéo léo của người con gái. Con phải dùng một đôi đũa trơn nhất để gắp những miếng thức ăn nhỏ nhất – mà không làm rơi vãi. “Ở làng chị”, ta hỏi, “phụ nữ không có việc gì làm khác hơn là đếm bao nhiêu hạt đậu bỏ vào mồm họ sao?”
“Chị không tin à?” cô nói, gắp một hạt đậu khác và nuốt.
“Tôi không nói là tôi không tin chị,” ta đáp. “Tôi không có thời gian để đếm bao nhiêu hạt chị đã ăn, có thể là 50”.
“Em nói với chị nó là 100”, cô ăn hạt nữa rồi hạt nữa như thể nó sẽ chứng minh điều cô nói là đúng. Dì Du la cả hai chúng ta. “Các con cãi nhau vì cái điều ngớ ngẩn thế à? Có thể là 200. Dù sao thì tại sao lại đo giá trị của một cô gái căn cứ vào những hạt đậu cô ta gắp?” Đúng lúc đó chúng ta nghe thấy tiếng gõ gấp gáp trên cánh cửa. Trước khi chúng ta có thể buông đũa thì tiếng gõ cửa lại vang lên, lần này mạnh hơn nhanh hơn. Một người đàn ông ào vào nhà, một phi công từ khóa 3. Miệng cười toe toét anh kêu lên, “Thắng rồi, thắng rồi!” Cả khi ấy chúng ta cũng không tin vào điều hằng mơ ước bởi vì chúng ta được làm công tác tư tưởng rất nhiều lần là đừng mong chờ cái tin đó ít nhất là trong vòng một năm nữa – chúng ta không thể tin vào tai khi anh ta nói Trung Quốc đã chiến thắng, đã đánh đuổi quân xâm lược Nhật mãi mãi. Mọi người đều khóc vì sung sướng, Huê Lan, dì Du, người nấu bếp thậm chí cả các ông chồng, con phải nhìn thấy những giọt nước mắt, những tiếng kêu la vui sướng. Chúng ta không thể ngồi cũng không thể đứng. Chúng ta dậm chân nhảy múa. Huê Lan giơ cả hai tay lên trời cám ơn những vị thần trên cao, cũng là lúc cô làm rách toạc áo dọc hai bên sườn mặc dầu lúc đó cô không biết. Vài phút sau một người phi công khác rồi một người khác ùa vào. Mỗi lần có một người vào nhà, chúng ta lại bắt người phi công thứ nhất lặp lại những tin anh ta nghe được – ai bảo anh ta tin đó, anh ta không tin được sự thật như thế nào, rồi sau đó anh ta tin nó là đúng ra sao.
Con ạ, mọi người đều nói nhao nhao cùng một lúc – trừ ta. Ta cười và khóc, giả vờ rằng ta nghe tất cả những điều này. Nhưng thật ra trái tim ta đập thùm thụp, đầu óc ta choáng váng, chân tay muốn nhảy lên. Bởi vì ta nhớ rằng mọi chuyện lại giống như một giấc mơ. Ta nghĩ bây giờ ta có một sự lựa chọn. Ta có thể quay về Thượng Hải. Ta sẽ viết ngay một lá thư cho cha ta. Ta sẽ yêu cầu chú ta, thím Lớn, thím Nhỏ hoặc Peanut. Một ai đó sẽ giúp ta chắc chắn như vậy. Chẳng bao lâu ta sẽ thoát khỏi cuộc hôn nhân khốn nạn này để bắt đầu một cuộc đời mới.
Tất cả mọi việc đã được quyết định vào buổi chiều. Chúng ta sẽ rời Côn Minh vào sáng ngày hôm sau, chúng ta thậm chí không chờ thêm một ngày để bán đồ đạc. Tốt hơn là hãy quẳng hết mọi thứ đi. Con xem chúng ta kích động như thế nào? Bảy năm qua chúng ta đã mắc kẹt ở Côn Minh. Tám năm qua ta đã mắc kẹt với cuộc hôn nhân này.
Thế là ngày hôm ấy chúng ta bắt đầu thu dọn đồ đạc. Lựa chọn cái nào bỏ cái nào, cái nào mang đi cũng phải nhanh như một câu nói, “Cái này, không phải cái kia”. Đạm Như đã được năm tuổi. Nó khóc khi biết chúng ta không thể mang theo cái giường mà nó đã lớn lên ở đó.
“Nín ngay!” Văn Phú hét lên. Đạm Như sợ cha nó như sợ cọp vội vàng nín khe. Nhưng Văn Phú cũng đang ở một tâm trạng dễ chịu, lần này hắn không đe nẹt Đạm Như thêm nữa. Hắn nói, “Đến Thượng Hải, ba sẽ mua cho con một cái giường tốt hơn mà không chỉ một cái giường, còn cả một chiếc xe hơi bằng gỗ nữa. Bây giờ thì cười đi”. Thế là Đạm Như toét miệng ra cười hết cỡ. Bé Đạm Như đáng thương của ta!
Sáng sớm hôm sau chúng ta rời Côn Minh, lần này chúng ta không phải ngồi trên thùng xe tải. Chúng ta đi xe buýt cùng với Huê Lan, Gia Huy cùng các phi công khác. Nhưng chỉ có một vài phi công được phép rời Côn Minh. Vì thế xe buýt không đông lắm. Văn Phú và ta có một băng ghế để ngồi. Ta ngồi với Đạm Như bên cửa sổ. Lần này chúng ta mang theo nhiều valy, thùng giấy không phải chỉ một cái rương như khi chúng ta bỏ chạy đến Côn Minh. Thậm chí chúng ta có cả một cái mền riêng với cái vỏ bằng vải dầu, phòng trường hợp chúng ta phải nghỉ đêm ở một nơi không có giường. Khi xe buýt chuyển bánh trên đường, mọi người trừ ta ngoái lại nhìn căn nhà lần cuối, tại sao ta phải nhìn lại cái nơi ta đã mất tất cả hi vọng? Ta đã 27 tuổi, ta muốn quên hết mọi thứ đã xảy ra trong đời, ta chỉ muốn nhìn về phía trước.
Ta thấy đường phố chật ních những xe buýt, xe tải cùng những kẻ gánh gồng. Sau đó chúng ta ra ngoại ô thành phố, qua khỏi cổng thành, bỏ lại phía sau những thôn làng nhỏ bé, rồi leo lên những đỉnh núi. Trái tim ta nhảy múa, tràn ngập một sự hồi hộp một sự cấp bách. Nó cũng giống như cái cảm xúc mà ta có khi ta nghĩ quân Nhật có thể bắt chúng ta. Chỉ có điều lúc đó ta sợ rằng nếu chúng ta không bỏ đi thật nhanh một ai đó sẽ kêu lên, “Đó là một nhầm lẫn. Chiến tranh chưa kết thúc chúng ta phải trở về”.
Chợt một trong những phi công la lên, “Dừng lại” rồi chạy đến bên đường chìa cho người lái xe một chỉ thị mới, và chỉ sang bên kia đường. Chiếc xe buýt rung lên một tiếng và dừng lại. Ta cắn vào tay để ngăn một tiếng kêu tuyệt vọng. Ba người phi công chạy về phía cửa. Ta nghĩ chúng ta bị tấn công. Ta đứng lên, nhìn ra ngoài cửa sổ. Ta bật ra tiếng cười sung sướng khi ta nhìn thấy điều mà họ đang làm – chụp ảnh! Một người trong số họ đứng ở một tư thế thật ngớ ngẩn, chỉ tay lên bầu trời một cách tự hào – cứ như thể ở đây khác với bầu trời ở bất cứ nơi nào khác. Ta muốn bật cười. Nhưng ta cũng nhìn lên bầu trời. Ta nhớ, ta có cảm giác hết sức lạ lùng như thể ta đang ra khỏi một giấc mơ hỗn loạn. Dường như ta chưa bao giờ nhìn thấy bầu trời này. Bởi vì cái mà ta nhìn thấy không phải là những đám mây thông thường. Bầu trời hôm ấy có một cái sắc xanh làm ai cũng sững sờ. Một màu xanh tươi sáng. Giống như màu đá safia. Những đám mây, tất cả ba đám, đám nọ trôi nối theo đám kia giống như những cái nệm khổng lồ dọn chỗ cho những vị thần trên thiên đường. Rồi ta nhìn thấy một con chim lớn, dưới đôi cánh của nó ánh lên sắc cầu vồng. Ta nhìn thấy những đồi xanh phủ đầy cây, những cành cây sà xuống quét trên mặt đất, rải khắp mặt đất là những bông hoa, rất nhiều loại hoa khác nhau, nở bung lên từ mặt đất một cách hoang dại. Từ đây ta có thể nhìn thấy thành phố cổ, những đường phố lộng gió, thanh bình, những bức tường vôi trắng, lúc này trông như tươi mới hơn. Từ một cự ly xa, ta phát hiện ra vẻ đẹp này lần đầu tiên, dù ta không vui gì khi thấy nó. Ta cảm thấy chua xót rằng ta chưa hề cảm thấy cái đẹp này mãi cho đến lúc này, đã quá trễ.
Trên đường đến Vũ Xương ta nhìn thấy những vết tích của chiến tranh. Nó làm hổng một mái ngói, sập một bức tường, sụt một mái nhà. Ở hầu hết những ngôi làng xe chúng ta đi qua chỉ thấy một cảnh tang thương. Một số ngôi nhà đã được sửa lại, những lỗ trống được trám chỗ này chỗ kia bằng một chiếc bàn gãy hoặc rơm rạ hoặc từ một cái cánh cửa xe ô tô. Một lần chúng ta đi ngang qua một thung lũng xanh. Lún phún mọc lên chỗ này chỗ kia là những loài cỏ dại thân mền cao vút mọc thành hàng chục bụi đen sì trông từ xa như những vạch than đứt khúc được xóa đi một cách cẩu thả. Ta không nhận ra là gì cho đến lúc chúng ta đi qua cái nơi trước kia là một cái làng, những cái vết đèn sì ấy từng là những ngôi nhà nhỏ bị cháy trước đây vài năm, không còn ai trở về xây dựng lại. Nhưng phần lớn ta chỉ thấy những gương mặt đói khát, khốn khổ. Rất nhiều những bộ mặt như thế trên đường, trẻ, già đều có chung một cái nhìn trống rỗng của quá nhiều đau khổ chất chồng. Họ bới những đống rác, nhặt những đồ phế thải rồi bỏ vào trong những cái bị mỏng, khi tai họ đón nhận được âm thanh của tiếng xe, họ thả cái bị xuống, bàn tay đói khát chìa ra những cái bát ăn mày. “Cô chủ trẻ, cô chủ trẻ! Hãy nhìn nỗi đau khổ của chúng tôi, ban cho chúng tôi lòng thương”. Giọng họ vang lên rồi chìm khi xe của chúng ta tiếp tục chạy, bỏ tất cả những nỗi khổ đau này lại sau lưng. Nhìn họ lòng ta đau quặn lại. Nhưng mọi người trên xe đều có những âu lo riêng. Chúng ta nghe nói rằng bần cùng sinh đạo tặc, bây giờ các băng cướp quần thảo một cách man rợ khắp Trung hoa đặc biệt là ở vùng núi. Khi đi thuyền qua hồ Động Đình chúng ta nghe cảnh cáo rằng bọn thảo khấu vừa cướp nhiều thuyền, sẽ không do dự cắt cổ chúng ta. Quân Tưởng Giới Thạch khăng khăng là quân cách mạng làm ra chuyện này. Dì Du bí mật nói với chúng ta rằng điều đó không đúng sự thật. Con gái bà viết thư nói quân đội cách mạng bây giờ bị đổ vấy cho tất cả những việc làm xấu xa ở Trung Quốc. Con thấy đấy, dù chiến tranh đã kết thúc nhưng vẫn không chấm hết những cuộc đánh nhau. Không đợi cho đến khi chúng ta bình yên tới Vũ Xương – nơi chúng ta sẽ nghỉ lại một đêm ở khách sạn, Huê Lan với ta mới nhận ra rằng chúng ta không bao giờ gặp nhau nữa. Từ đây cô và dì Du sẽ đi xa về phía Bắc tới Cáp Nhĩ Tân, nơi Gia Huy được cử tới để kiểm soát tình hình giải giới quân Nhật. Còn Văn Phú, Đạm Như và ta sẽ đi về phía đông bằng tàu hỏa tới Nam Kinh, từ đó chúng ta sẽ đón tàu thủy đi Thượng Hải.
Đúng là Huê Lan và ta có nhiều cuộc cãi nhau, nhiều bất đồng trong suốt tám năm qua. Nhưng bây giờ chúng ta không khỏi buồn lòng khi mỗi người đi một ngả. Đêm cuối cùng ở khách sạn chúng ta nói chuyện rất lâu, cho đến khi mắt không còn mở được nữa – Sáng hôm sau chúng ta ăn sáng rất muộn, cũng cái bữa ăn sáng đơn giản mà ta đã miêu tả trước đây, cháo tấm và đậu đỏ. Sau bữa điểm tâm sáng ta trao cho nhau địa chỉ liên lạc. Ta viết địa chỉ của cha ta cũng như của chú ta ở trên đảo. Huê Lan chép lại địa chỉ ở Cáp Nhĩ Tân mà Gia Huy đã viết cho cô. Sau đó chúng ta đi về phòng tìm trong đống hành lý một cái gì để trao nhau làm quà kỷ niệm.
Huê Lan cho ta hai đôi kim đan, một đôi mũi to, một đôi mũi nhỏ, ta tặng cô áo lên đẹp nhất của mình với một kiểu dáng đặc biệt mà ta tự đan lấy. Cả hai chúng ta cùng cười khi nghĩ rằng chúng ta có cùng một suy nghĩ, tặng cho nhau một cái là dụng cụ để đan, cái kia là kết quả của chính dụng cụ ấy. Gia Huy tặng Văn Phú một cái bút bi. Văn Phú tặng lại anh một chai rượu uýtxki của Mỹ. Chợt ta nhìn thấy dì Du đang chơi với Đạm Như, và cũng giống như bà ngoại của con ta. Ta quay lại, tìm một cái gì đặc biệt để biếu bà. Ta nhớ rằng bà hay trầm trồ khen ngợi cái lọ nước hoa màu xanh mà thỉnh thoảng ta để cho Đạm Như chơi. Ta cầm cái lọ nước hoa lên, một lần nữa nó lại hội tụ rất nhiều ánh sáng rồi ta quay lại đưa tặng bà. Dì Du phản đối một cách ồn ào, “Tại sao ta lại cần một cái như thế này?” Thế là ta nhét nó vào tay bà, bà bắt đầu sụt sịt thổ lộ rằng bà xấu hổ khi nhận quà. “Dì chẳng có gì cho con cả”. Bà nói. Thế là ta bảo bà, “Cái con tặng dì chẳng có giá trị gì cả chỉ là một cái để khi nhìn vào dì có thể nhớ một cô gái ngốc nghếch và con trai cô ta”.
Trước khi chia tay, Huê Lan và ta cầm tay nhau. Ta muốn nói lời xin lỗi về tất cả những cuộc cãi cọ của chúng ta nhưng không biết nói thế nào cho phải. Vì thế ta nói. “Tôi nghĩ chắc chắn là phải 100 hạt đậu đỏ”, ngay lập tức cô biết là ta nói về cuộc tranh luận cuối cùng giữa chúng ta trước khi rời Côn Minh. Huê Lan lắc đầu, vừa cười vừa khóc. “Không, có lẽ chị đúng, chỉ 50 thôi không hơn”.
“100”, ta khăng khăng.
“50 hoặc có lẽ ít hơn”, cô nói một cách nghiêm nghị rồi thêm vào lần này có vẻ thẹn thùng. “Hồi đó gia đình em nghèo lắm. Em phải đếm một dúm đậu vào mỗi buổi sáng, chia phần cho hai chị em, một cho em, một cho chị, một cho em, một cho chị. Vì thế chị thấy đấy em chỉ mong có được 100 hạt đậu”.
Khi đến cảng Thượng Hải, chúng ta không gặp cha mẹ Văn Phú ngay. Điều đó làm ta nhẹ nhõm. Khi quân Nhật chiếm Thượng Hải lần đầu tiên cha mẹ hắn đã quay về đảo, bây giờ phải mất một ngày đi xe lửa để đến thăm họ. Văn Phú khăng khăng là chúng ta nên đi thăm cha ta trước. Ta nghĩ hắn cũng mơ được sống trong ngôi nhà sang trọng của cha ta. Hắn cũng có một ý định ranh ma là hắn sẽ làm một công việc ngon lành ở Thượng Hải hơn là ở đảo hoặc những xóm làng lạc hậu trên đảo. Công việc gì thì hắn không nói mà ta cũng không hỏi.
“Tất nhiên cha cô sẽ muốn cô sống với ổng, con gái rượu của ổng mà”, hắn nói. Hắn mặc bộ quân phục không quân, ta đồ rằng hắn nghĩ ai cũng lấy làm sung sướng được gặp hắn, một trong những vị “anh hùng vĩ đại” của cuộc chiến.
Ta không cãi nhau với hắn. Ta cũng muốn gặp mặt cha ta trước. Ta không chỉ nghĩ đến sự giúp đỡ của ông. Ta hy vọng ông sẽ vui mừng khi ta trở về. Từ ngoài cảng, chúng ta thuê xe về thẳng nhà. Trên đường đi Văn Phú khe khẽ hát một vài hát ngắn vui tươi. Đạm Như bận rộn nhìn ra ngoài cửa xe, đầu nó quay như chong chóng mỗi khi nó phát hiện được những quang cảnh mới lại của cái thành phố lớn, xa lạ này.
“Mama, nhìn kìa”, nó kêu lên, và theo tay nó chỉ ta thấy một người Ấn Độ trong chiếc khăn quàng màu đỏ, vẫy cho xe dừng lại hoặc đi tiếp. Khi còn là một đứa trẻ ta thường khóc khi nhìn thấy những người cảnh sát giao thông Ấn Độ này. Đó là bởi vì trong những người vợ của cha ta bảo rằng nếu ta không vâng lời bà sẽ giao ta cho “những cái mũ đỏ” và họ sẽ dùng bộ râu nhọn của họ xuyên qua người ta. “Đừng sợ”, ta bảo Đạm Như. “Con thấy cái mũ trên đầu ông ấy không? Đó chỉ là quần áo để phơi khô thôi mà”. Đạm Như cố đứng dậy trong xe để nhìn cho rõ hơn.
“Toàn nhét vào đầu nó những chuyện ngớ ngẩn”, Văn Phú làu bàu, Đạm Như ngồi xuống. Thành phố đông đúc, ồn ào một cách khác thường dường như không có gì bị phá hủy, không có gì thay đổi – ít nhất thì cũng trên những con đường chính. Xe hơi, taxi bóp còi bim bim, xe đạp phóng vun vút hai bên đường, trên vỉa hè. Đó là sự kết hợp muôn màu của cuộc sống: những thương gia giàu có với những bộ đồ cắt rất khéo, những người nông dân đẩy những chiếc xe bán rau, các cô nữ sinh đi trên đường tay trong tay, những phụ nữ ăn diện đội những chiếc mũ kiểu mới nhất với những đôi giày cao gót. Họ biết nhiều người đang quan sát họ, ghen tị với họ. Tất nhiên người ngoại quốc cũng ở đây, mặc dù không nhiều như là ta đã nhớ, trên thực tế là rất ít. Ta thấy những người này có vẻ như kém tự hào, kém chắc chắn trong những bước đi của họ, thận trọng hơn khi họ đi ngang qua đường, biết rằng thế giới này không dừng lại vì họ.
Khi xe đến gần nhà cha ta, ta cố nghĩ ra những điều ta sẽ phải nói với ông về cuộc sống vợ chồng của mình, tại sao ta lại muốn bỏ chồng.
Ta buộc mình phải nhớ những gì đã xảy ra với Di Cô. “Cha ơi!” ta sẽ khóc, “hắn nói rằng nó có chết hắn cũng không thèm quan tâm. Hắn đã để nó chết”. Ta nghĩ về chuyện Văn Phú đánh bài gần hết số tiền hồi môn của ta. “Khi không thể lấy cắp tiền của con, hắn dùng thân thể con như một trò cá cược, cười cợt nói với những người đàn ông khác là họ có thể ngủ với con nếu hắn thua bạc”. Ta nhớ nhiều đêm hắn dày vò thân thể ta, sau khi hắn đã chán chê với một người đàn bà khác. “Thậm chí hắn còn mang một người đàn bà về giường con, bắt con quan sát. Tất nhiên, con không nhìn nhưng con không thể bịt tai lại”.
Ta càng nghĩ về chuyện này bao nhiêu hơi thở của ta càng trở nên dồn dập bấy nhiêu; tràn ngập trong phổi ta mối thù hận ngút trời. Làm sao cha ta có thể từ chối không giúp ta? Tất nhiên ông sẽ giúp! Gia đình nào cần một thằng con rể táng tận lương tâm như thế? – vô tình, vô đạo, vô liêm sỉ. Đó là những suy nghĩ của ta trong lúc chúng ta đi xe đến nhà cha, trên đường Julu. Nhưng ta đã không lường đến điều này: Nếu cuộc đời ta thay đổi quá nhiều trong tám năm qua thì có lẽ cuộc đời của cha ta cũng thế.
Khi ta đi ngang qua lối đi hình mái vòm vào đến nhà, ta nhận ra ngay lập tức căn nhà trông có vẻ yên tĩnh một cách bất thường. Những cửa chắn phía ngoài sập xuống bịt kín các cửa sổ như thể ngôi nhà được đóng kín cho mùa đông. Nhưng mới chỉ là tháng Chín, thời tiết bây giờ vẫn còn ấm áp lắm. “Nhà to quá!” Đạm Như reo lên. “Ai sống ở đây ạ?”
“Im!” Văn Phú quát.
Vì không biết rõ ngôi nhà của cha ta nhiều lắm, ta không nhận ra ngay những sự thay đổi khác, những điều sau này sẽ mách bảo ta rõ hơn. Cửa trước đã được đập đi, sửa lại cho khiêm tốn. Những bức tượng ngoài sân cũng đã bị phá bỏ, dọn sạch. Tường ở dưới nhà được sơn lại bằng một cái màu phá cách với toàn bộ tòa nhà. Tất cả những chiếc cửa sổ thấp phía sau, với những tấm ván bịt cửa đều bị vỡ mà chưa sửa chữa lại được.
Sau một hồi chờ đợi, người đầy tớ mới ra mở cửa. Bà ta nhìn chúng ta với ánh mắt ngờ vực cho đến khi ta bảo bà rằng chúng ta là ai, con gái của Giang Tiêu Yến, cùng với con rể ông và đứa cháu ngoại.
“Aiyi”, ta nói dùng một từ lịch sự thay cho từ “dì” bởi vì ta không biết địa vị của bà ta trong nhà này, “con đến để thăm cha con”. Bà ta là một người phụ nữ mập mạp, nhỏ con và đã lớn tuổi, bận một bộ quần áo làm việc đơn giản. Bà ta không giống một người đầy tớ mở cửa trong một ngôi nhà sang trọng mà giống một người dọn vệ sinh trong khi không có ai để mắt đến việc nhà.
“Ồ! Mời vào!”
Nhưng bà không gọi người quản gia ra chào hỏi chúng ta theo đúng nghi thức. Bà tự dẫn khách đến chỗ cha ta ngồi. Trong văn phòng làm việc âm u của mình cha ta đang ngồi nhìn chằm chằm vào hư vô. Ông xoay cái ghế dựa, nhìn ta, lướt qua Đạm Như, hướng về phía Văn Phú. Ngay lập tức một bên lông mày của ông nhướn lên, không phải vì vui mừng mà vì sợ, như một người bị cướp. Ông vội vã đứng dậy, ta nhìn thấy lưng ông còng xuống. Ôi ông đã già đi thật nhanh trong tám năm qua! Ta chờ đợi ông chào đón chúng ta nhưng ông không nói gì, chỉ chằm chằm nhìn Văn Phú.
“Cha”, cuối cùng ta nói, đẩy nhẹ Đạm Như, nó tiến về phía trước, lí nhí, “Chào ông ngoại, ông khỏe không ạ?”
Cha ta lướt cái nhìn qua Đạm Như, sang Văn Phú rồi quay lại nhìn ta. Lông mày ông quay trở về chỗ cũ. Khuôn mặt trở lại nhẹ nhõm, ông ngồi xuống, để cho cái thân hình già nua nặng nề rơi xuống ghế. “Cha có nhận được những lá thư con gửi cho cha không? Đây là cháu ngoại của cha, nó được năm tuổi”. Cha ta che mặt bằng một bàn tay, không nói gì. Ta đâm ra sợ hãi không dám nói một điều gì khác nữa. Nhưng ta tự hỏi, có ai chết hay sao? Những người kia đâu rồi?
Nhưng người giúp việc đã nhẹ nhàng nhắc nhở, “Đi thôi, cha cô cần nghỉ ngơi”. Ngay khi rời khỏi phòng, bà ta đã nói oang oang bằng cái giọng thân mật mà ta đang rất cần. “Cô chú chắc là mệt chết đi. Vào đây dùng trà”. Bà ta quay sang Đạm Như. “Còn cháu, cậu bé? Chắc cháu đói bụng, muốn ăn lắm phải không?”
Chúng ta đi vào phòng khách lớn. Cũng cái phòng mà chúng ta đã ngồi khi thím Lớn và thím Nhỏ đến đây xin phép cho ta đi lấy chồng. Chỉ có điều giờ đây nệm ở ghế sofa, rèm cửa đã mòn xơ mòn xác, giấy dán tường rách bươm ở chỗ này chỗ kia, bụi phủ kín ở các góc. Người giúp việc chắc là nhận thấy vẻ sửng sốt trên mặt ta, cái cau mày của Văn Phú. Bà ta chạy lên trước, đập đập tay vào nệm trên ghế sofa làm cho một đám mây bụi bốc lên đến nghẹt thở. “Tôi bận trăm công nghìn việc”. Bà ta nói với một tiếng cười cụt ngủn, lấy ống tay áo phủi qua chiếc bàn dơ hầy.
“Không sao, không sao”, ta nói. “Sau cùng, tất cả chúng ta đều khổ sở vì chiến tranh. Vật đổi sao dời chúng biết rõ điều này mà”.
Người đầy tớ tỏ vẻ vui mừng. “Vâng, vâng chính thế đấy ạ”. Chúng ta ngoái nhìn lại căn phòng bừa bộn bẩn thỉu.
“Những người khác đâu rồi?” Cuối cùng Văn Phú hỏi. “Họ thế nào?” ta hỏi, “San Ma, Wu Ma – họ khỏe không?”
“Khỏe, khỏe lắm”. Người giúp việc nói với một nụ cười thật tươi. “Rất khỏe. Chỉ có điều các bà vừa đi khỏi, đi thăm bạn bè”. Rồi bà ta nhìn Văn Phú, trở nên bối rối “Mặc dù tôi cũng không biết là họ đi đâu, đúng thế”, bà giải thích thật nhanh. “Thật thế, tôi không biết. Tôi là một mụ già ngu ngốc, chẳng còn chứa được bất cứ điều gì trong đầu hết”. Bà ta bắt đầu cười, hy vọng chúng ta cùng chia sẻ với bà.
Vì thế con thấy đấy, chuyến thăm nhà của chúng ta thành ra một chuyện không ngờ. Thoạt tiên ta chẳng biết điều gì sẽ xảy ra hết. Ta chỉ có ý nghĩ rằng chiến tranh đã làm cho cha ta ngã gục như chính ngôi nhà của ông. Mãi đến sáng hôm sau khi Văn Phú đi thăm một người bạn ta mới biết được gia cảnh mới của mình, tại sao cha ta lại quá sợ hãi khi nhìn thấy Văn Phú trong bộ quân phục của quân đội Quốc dân Đảng.
Điều mà người giúp việc nói là đúng: Ngôi nhà của chúng ta đã chịu nhiều đau thương trong chiến tranh. Nhưng bom đạn không phải là nguyên nhân gây nên sự hoang tàn của nó mà chính là do sự khiếp nhược của cha ta. Đó là mặt trái của ông mà ta không hề được biết. Ông bao giờ cũng là người kiểm soát những người khác bằng sức mạnh của mình. Thậm chí cho đến tận hôm nay khi nói chuyện về điều này ta cũng khó mà tin được những điểm trái ngược dữ dội như vậy trong tính cách của ông. Ta ngờ rằng những chuyện như thế cũng xảy ra với những người khác trong thời chiến. Đó là điều San Ma nói khi bà trở về nhà, giải thích những điều đã xảy ra. Bà vẫn còn giận dữ khi nói với ta điều này. “Con xem, sau chiến tranh các nhà máy của cha con bắt đầu làm ăn thua lỗ. Đó là điều xảy ra với mọi người, con biết đấy. Cái xảy nảy cái ung. Các gia đình mất hết tiền bạc, không mua sắm gì được nữa. Những cửa hiệu bán quần áo sang trọng nay đóng cửa hết. Họ không mua vải của chúng ta nữa. Các chuyến tàu hải ngoại không ra vào cảng Thượng Hải. Vì thế mà cha con không xuất được hàng hóa ra nước ngoài.
Tuy vậy chúng ta vẫn còn nhiều tiền, thế nên thoạt tiên không ai trong chúng ta lo lắng hết. Nhưng chiến tranh cứ tiếp tục hết năm này đến năm khác. Những đầu củ cải bắt đầu kiểm soát các công việc làm ăn nhiều hơn.
“Đầu củ cải?” ta hỏi.
“Đầu củ cải, là cái tên mà chúng ta mà chúng ta gọi bọn Nhật. Bởi vì con có thể gặp chúng ở bất cứ đâu bao giờ cũng nốc đẫy củ cải muối – rồi tũm – để lại sau chúng một mùi thối khắm thật lâu! Dù sao thì chúng cũng chõ mũi vào nhiều chuyện khác, giả vờ làm một cuộc kiểm tra an toàn hoặc là thanh tra vệ sinh. Ai cũng biết chúng muốn gì nhòm ngó xem có gì đáng giá không. Chúng ta được biết nếu một người không hợp tác, nếu ai đó có ý định chống đối, bọn chúng sẽ tìm ngay ra một lý do để cướp bóc, kể cả sinh mạng của người ấy. Tất nhiên ai cũng cẩn thận để không gây ra những rắc rối, phiền phức không cần thiết. Nhưng lúc này hay lúc khác con có thể nghe thấy chuyện người này người kia trở nên yếu đuối, bán mình cho bọn Nhật, đi theo chúng, bắt tay làm ăn với chúng trở thành quân bán nước. Họ phải ký một lời tuyên thệ yêu nước mới với đầu củ cải, điều này chỉ làm người này đau khổ vì rằng bọn Nhật chỉ ngày càng mạnh thêm. Người ta phỉ nhổ khi nghe tên những kẻ phản bội. Ban đêm, người ta bí mật vào nghĩa trang của dòng họ những tên này phá hủy mồ mả ông cha của họ.
“Một hôm – có lẽ là vào mùa hè 1941 gì đó – một sĩ quan Nhật và một vài phụ tá đến nhà chúng ta. Người đầy tớ ra mở cửa, cô ta hét lên, ngất xỉu. Bọn Nhật muốn nói chuyện với Giang Tiêu Yến. Chúng đến phòng làm việc của ông. Những người đầy tớ khác không chịu ra khỏi bếp để hầu trà. Thế là ta phải ra tiếp bọn sĩ quan Nhật, mời loại trà âm ấm, nhạt nhách tất nhiên rồi.
“Tên sĩ quan Nhật trầm trồ khen ngợi cơ ngơi của cha con, ca ngợi cái này cái kia về sự độc đáo, giá trị của chúng. Sau đó ông ta quay qua cha con – như thể đang nhìn một đồ vật khác mà y thèm muốn. Hắn nói, “Giang Tiêu Yến tôi đánh giá cao phong cách và ý thức của ông. Ông biết cách nắm được tình hình mới ở Thượng Hải, biết cách đưa thành phố trở lại ổn định”.
“Cha con không nói gì. Ông ngồi yên trên ghế đầy vẻ uy nghi quyền lực, không hề thay đổi mảy may. Tên sĩ quan Nhật tiếp tục đi đi lại lại trong phòng, lướt tay trên cái bàn đồ sộ của cha con, những cuốn sách cổ bằng xương đen, những bức tranh cuộn trên tường. Hắn ngụ ý là hắn mong muốn có những vật giá trị như thế treo ở nhà riêng của hắn.
“Ngài Giang Tiêu Yến”, người Nhật nói. “Chúng tôi cần có trí tuệ của ông để thức tỉnh đồng bào ông giúp họ có được ý thức phải trái như ông. Những người có suy nghĩ đứng đắn như ông, có thể chấm dứt chiến tranh một cách nhanh chóng. Điều đó sẽ tốt cho đất nước Trung Hoa. Đó cũng là yêu nước. Bằng cách này sẽ có ít gia đình, cơ sở làm ăn phải chịu đau khổ hơn. Mọi thứ sẽ đi vào ổn định”. Viên sĩ quan khoát tay hắn lên bốn bức tranh cuộn treo trên tường. “Như những vật này này”, hắn nói.
“Lúc ấy, cha con đứng lên ném tách trà của ông vào một trong những bức tranh! Thật thế. Bốn bứ tranh này đã hơn 200 tuổi, ông phá hủy một bức khi ném vào nó một tách trà”.
“Con rất tự hào là cha con đã làm thế”.
“Thực ra ta không biết chuyện gì đã xảy ra trong phòng. Khi ta ra ngoài cha con đã ném tách trà vào một bức tranh như thể nói với tên Nhật “Tao thà phá hủy đồ đạc của tao còn hơn là dâng chúng cho mày”.
“Ngày hôm sau trông ông rất lo lắng. Nhưng ta nghĩ đó là bởi vì chúng ta sẽ mất ngôi nhà. Trước khi lấy chồng, ta xuất thân từ một gia đình nghèo. Vì thế ta chuẩn bị trở về với cuộc sống cũ. Ta chấp nhận tất cả. Hai ngày sau, có một tấm áp phích căng dọc bức tường trước nhà, một bảng yết thị lớn đóng đinh ngay ở cổng trước. Cả hai đều thông báo rằng Giang Tiêu Yến chủ nhân ngôi nhà này, cùng các công ty vải sợi mang tên ông bây giờ đã đứng ra ủng hộ chính quyền mới ở Trung Quốc, chính quyền của vua Hirohito. Cũng cái tin đó đã được thông báo trên tất cả các báo chí địa phương. Trên một tờ báo có nói rằng Giang Tiêu Yến kêu gọi mọi người hãy bắt đầu xây dựng một nước Trung Hoa mới, kề vai với nước Nhật trong cuộc chiến đấu chống lại ảnh hưởng chủ nghĩa đế quốc phương Tây.
Hầu hết bọn đầy tớ đều bỏ chạy. Cả các con trai ta và gia đình chúng. Con trai của Wu Ma và vợ con chúng còn ở lại nhưng bọn họ trông cứ như những con gà cắm mỏ xuống đất, không dám nhìn lên xem ai đã quăng thóc cho chúng. Dù sao thì ta cũng cố hỏi xem cha con đã làm gì. Ông không trả lời. Tay rầy la ông – đây là lần đầu tiên ta dám làm thế! Sau đó thì không ai nói chuyện với ai nữa. Vài tuần sau, các nhà máy lại mở cửa toàn phần, người ta bắt đầu xuất khẩu vải sợi ra nước ngoài, những thành công mới trong công việc làm ăn lại được đăng tải trên báo chí. – Một lần nữa ta lại la cha con – “Phải đấy là lý do tại sao ông thành một kẻ phản bội! – Vì thế mà phần mộ trong gia đình chúng ta sẽ bị quật lên. Với việc này chúng ta đã rước voi về giày mồ”. Cha con cũng mắng lại ta, sẵn sàng vùi dập ta. Ông cố vung tay lên, nhưng nó đung đưa trên vai như một cái tay gãy trên cổ con vịt. Rồi ông ngã xuống ghế, không thể nói gì được hơn. Ông đã bị tai biến từ một cơn đau tim.
Nhiều tháng sau, ông có thể cử động tay, chân cùng một lúc như trước. Không còn nguy hiểm nữa, dù ông vẫn không nói được, nhưng ta ngờ rằng đó là vì ông không muốn nói về những điều ông đã làm. Ông chỉ có thể nhúc nhích một bên miệng. Dường như khuôn mặt ông chia ra làm hai, mỗi bên có một biểu hiện riêng. Một bên mặt mà ông bao giờ cũng thể hiện ra với cuộc đời. Bên kia là bộ mặt mà ông đã mất và không thể giấu được.
Khi chiến tranh chấm dứt – phải, con có thể đoán được chuyện gì xảy ra. Quân đội Tưởng Giới Thạch chiếm đóng những ngôi nhà, những cơ sở làm ăn của những người đã bắt tay với bọn Nhật. Những nhà máy của chúng ta ngay lập tức bị đóng cửa cho đến khi người ta quyết định xong làm sẽ làm với những kẻ phản bội tổ quốc. Vì thế nhiều người công phẫn mang đến đây hàng bao tải đá. Họ biết những biểu ngữ, vẽ bậy bạ lên tường trước cửa nhà ta: “Kẻ nào liếm đít ngựa thì đáng bị ăn cứt lừa”.
“Chẳng bao lâu, quân Tưởng kéo đến nhà ta. Tất nhiên cha con không nói được. Vì thế ta phải giải thích chuyện gì đã xảy ra. Ta bảo họ cha con căm thù quân xâm lược với tất cả trái tim mình. Nhưng ông rõ ràng đã bị một cú sốc khi quân Nhật kiểm soát việc làm ăn của ông. Ông không có điều kiện để chống trả - điều mà chúng ta biết là ông nên làm. Ông rất yếu ớt, không thể nói được, như là họ có thể thấy, ta nói Giang Tiêu Yến đã làm điều mà ông có thể làm để tố cáo quân Nhật. Ta chỉ họ vết trà trên bức tranh.
Quân Tưởng nói đó không phải là lý do hợp lý bởi vì công chúng tin rằng ông là kẻ phản bội tổ quốc. Nhưng cho đến bây giờ họ để ông yên, không bắt ông như những người khác. Sau này họ sẽ quyết định hình phạt”.
“Mẹ là một người thật tốt”, cuối cùng ta nói với San Ma.
Trong căn phòng cũ của mẹ, ta suy nghĩ về câu chuyện của San Ma. Ta tự hỏi cái gì đã gây nên sự thay đổi ở cha ta. Đó là nỗi sợ hãi? Đó là sự dối trá hay là lòng tham lam? Đó có phải là ý nghĩ sai lạc mà cha ta đã mắc trong khi tìm kiếm sự bằng an?
Nhưng vấn đề không phải là ở những lý do của ông. Đối với người khác chẳng có lý do nào là tốt cả. Điều mà cha ta đã làm là một sai lầm lớn. Trong suy nghĩ của ta việc cha ta đã làm là một điều tệ hại nhất có thể xảy ra, quẳng danh dự xuống đất, bảo vệ mình bằng cách trở thành một kẻ phản bội.
Sau đó ta tự hỏi mình, làm sao mi có thể đổ lỗi cho một người vì nỗi sợ hãi, yếu đuối của anh ta trừ khi mi cũng có những vấn đề tương tự mà lại hành động khác? Làm sao mi có thể nghĩ ai cũng có thể là một người anh hùng, chọn cái chết, khi lòng ham sống là một phần trong bản chất của chúng ta? Liệu có thể có những ý nghĩ dũng cảm vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời để bám lấy hy vọng, sự sống?
Khi nghĩ được như thế, ta không trách ông nữa. Với trái tim mình ta tha thứ cho ông, cảm thấy cùng một nỗi buồn khi tin rằng thực sự không còn sự lựa chọn nào khác. Bởi vì nếu ta lên án cha ta, ta cũng sẽ phải kết tội mẹ ta vì đã bỏ rơi ta để lo cho cuộc đời bà. Sau đó ta cũng sẽ tự kết án mình, cho tất cả những sự lựa chọn của ta, vì ta cũng đã làm tương tự.
Đầu tiên Văn Phú làm ra vẻ rất giận dữ khi hắn biết những điều cha ta đã làm. Một kẻ hợp tác với quân Nhật! Một kẻ phản bội lại dòng máu Hán! Cứ như thể bản thân hắn chưa từng xấu xa như vậy. Hắn chẳng đã quay máy bay lại bỏ chạy vì sợ trúng đạn của quân Nhật sao? Hắn chẳng đã lo bảo vệ cái mạng của mình trong khi bao phi công khác phải hy sinh đó sao?
Con phải nhìn thấy cảnh Văn Phú chửi bới cha ta trong khi ông ngồi im lặng trên ghế. “Đáng lý tôi phải mang ông nộp cho quân đội Tưởng!”
Nỗi sợ hãi lớn lên trong con mắt phải của cha ta. Con mắt kia nhìn hắn không có biểu hiện gì, không quan tâm.
Nhưng sau đó Văn Phú nói, “Nhưng ông rất may mắn, con gái ông đã có được một người chồng tốt bụng”.
Ngay lập tức ta ngước nhìn Văn Phú. Ta cảm thấy nghi ngờ lòng tốt của hắn.
“Bây giờ cha cô cần sự giúp đỡ của tôi”, hắn nói với ta. “Cha cô đang gặp rắc rối với quân Tưởng. Tôi là một anh hùng dưới lá cờ của Tưởng Giới Thạch. Tôi có thể bảo vệ ông ấy”.
Ta muốn hét lên, “Cha ơi! Đừng nghe hắn! Hắn chỉ nói láo thôi”. Nhưng cha ta đã nhìn hắn với một nửa nụ cười sung sướng. Vào lúc đó cha ta quá yếu đuối, bạc nhược và ông bám lấy hy vọng vào cái điều mà Văn Phú đã nói vào cuối ngày hôm ấy rằng những rắc rối của ông sẽ mau chóng qua đi nếu ông cho phép thằng con rể được chăm lo toàn bộ những cơ sở làm ăn của ông. Để ta nói cho con nghe, chính vì thế mà toàn bộ tiền bạc của cha ta không cánh mà bay.
Ngay lập tức chúng ta dọn đến sống ở nhà cha ta với cha mẹ hắn và vài người bà con bên hắn. Vài người đầy tớ cũ trở về nhưng mẹ hắn đã thuê những người mới. San Ma và Wu Ma không vui gì với những sắp đặt mới này. Bởi vì mẹ chồng ta bây giờ là bà chủ trong ngôi nhà này và bà ta làm mọi chuyện nháo nhào lên.
Bà ta để cho người đàn ông chỉ biết làm vườn ra đập thảm, để cho bà bếp chỉ biết nấu ăn đi giặt đồ, phái người chuyên đổ bô ra hái rau… Bà ta đưa ra một cái lệnh trái ngược hẳn với lệnh tiếp sau. Khi những người đầy tớ bối rối không biết phải làm gì thì bà ta sẽ chặt đầu họ ra, để cho xác họ làm đồ ăn cho lũ ruồi! Con thấy đấy, có thể người mẹ này đã truyền cho con trai cái tính khí dữ dằn dễ sợ ấy. Sau một thời gian ngắn, hầu hết bọn đầy tớ trốn biệt. Ta nghĩ Văn Phú sớm học được từ mẹ hắn cách xài tiền. Ta chưa từng thấy ai tham lam như thế. Bằng điều đó, ta muốn nói, bà ta không chỉ biết mua cho mình áo lông thú, hột xoàn mà còn biết giữ cho nắm tay thật chặt sao cho không có xu lẻ nào rơi qua kẽ tay mình vào túi người khác. Một lần ta thấy bà ta đưa một món tiền hình như là 100 đồng cho người đầy tớ đi mua thức ăn. Lúc ấy đồng tiền mất giá nó chỉ bằng vài đô la bây giờ. Khi người đầy tớ đi chợ về, bà ta bắt kê ra tất cả những thứ đã mua: “Cái này bao nhiêu? Mày chắc chứ? Cái ấy bao nhiêu? Mày đảm bảo chứ?” Bà ta bắt người giúp việc đếm đi tính lại, bao nhiêu tiền đã tiêu, bao nhiêu tiền còn phải trả lại, sau đó tra khảo bà ta mấy phút khi thái thái nghĩ là có 10 tệ bị mất – không đáng 10 xu! Người giúp việc này đã làm việc cho cha ta gần 40 năm, sau đó bỏ đi mãi mãi.
Cũng lúc đó thì Văn Phú và cha hắn tiêu hết tiền cho những cuộc đua ngựa. Còn hàng đêm mẹ hắn mời mọi người đến đánh bài mạt chược. Họ thậm chí cũng không phải là bạn bè nữa chỉ là những người thích chưng diện, làm như họ không quan tâm đến việc thắng hay thua hàng đống tiền mà họ chất cao trước mũi họ.
Con nghĩ lấy đâu ra nhiều tiền như vậy để thua bạc? Từ cái nhà này! Từ toàn bộ cái gia đình yếu đuối mà họ dễ dàng áp chế. Gia đình chúng ta trở thành một cửa hàng bán đồ cũ người ta đi vào cửa trước, sau đó đồ đạc, thảm quý, đồng hồ, đồ quý hiếm đi ra cửa sau. Họ không hề có một cảm giác gì là những đồ đạc này từng thuộc về gia đình ta. Ta nhìn thấy người ta ngang nhiên mang ra ngoài cái tủ áo của mẹ ta, cái tủ mà bà thường dùng để giấu bánh bích quy của Anh cho ta không tìm thấy. Ngày hôm sau cái ghế của bà cũng ra đi, cái ghế bà thường ngồi để chải tóc.
Một lần cha ta ngồi nhìn một người mang một cái bàn ra khỏi phòng làm việc của cha ta. Đó là cái bàn đồ sộ, dài, rộng, với những chiếc chân chạm trổ. Nó đã có mặt ở gia đình ta qua rất nhiều thế hệ, ít nhất cũng 200 năm. Ta có thể nhìn thấy cha ta phải cố gắng rất nhiều để không khóc vì cái bàn đó. Chúng ta chứng kiến cảnh cái bàn cũng không muốn ra đi, nó không chui qua được cái cửa. Những người thợ cố gắng xoay xở, để mang nó ra ngoài. Cuối cùng người đàn ông đã mua cái bàn đó bảo với Văn Phú bằng ông ta muốn lấy tiền lại. Cha ta có một nửa nụ cười nhẹ nhõm trên mặt. Nhưng rồi một cuộc cãi nhau lớn đã nổ ra. Văn Phú từ chối trả tiền lại. Người đàn ông nói, “Nhìn xem, cái này bàn không mang ra ngoài được”.
“Đó là việc mà ông phải giải quyết”. Văn Phú nói. “Không có cách nào”. Người mua đồ quặc lại. Điều này chỉ kéo dài vài phút, cho đến khi Văn Phú nhặt lấy một chiếc ghế - và trước khi có một ai la lên để ngăn hắn lại – hắn đã đập gãy chân bàn ra làm đôi. “Nào bây giờ thì tôi đã giải quyết cho ông chuyện này rồi đấy”, hắn nói. Con có thể nhìn thấy nỗi đau trên mặt cha ta.
Không ai có thể ngăn chặn việc bán đồ, tiêu xài như phá phách của Văn Phú – không phải là những người vợ của cha ta, không phải những người con gái khác của cha ta hay chồng họ, không có ai cả. Tất thảy đều là những người khiếp nhược. Nếu có một ai cố gắng nói một điều gì chống lại hắn, Văn Phú sẽ rống lên: “Có muốn ta cho tất cả các người vào tù cùng với tên phản bội kia không? Đó có phải là điều các người muốn ta làm không?” Thế là chẳng ai còn dám ho he gì nữa.
Bây giờ ta sẽ bảo cho con một bí mật. Có thể là ta im lặng, nhưng ta vẫn tìm cách chiến đấu chống lại. Ta chẳng cảm thấy tự hào gì khi nói cho con nghe những gì ta đã làm bởi vì đó chỉ là những việc làm bần tiện nhưng lại khiến ta sung sướng. Một lần ta trộm một quân bài mạt chược. Sau đó mẹ Văn Phú và bạn của bà ngồi vào bàn, họ nhanh chóng thấy là họ không thể tiếp tục chơi được nếu không tìm thấy quân bài, ta nghe mẹ Văn Phú la hét, “Chắc không? Xem bài lại xem! Đếm lại xem!” Ta múa tay trong bị, cố nén cười.
Lần khác ta rất tức giận bởi vì Văn Phú từ chối không chịu bỏ tiền ra sửa lại những cái cửa sổ bị vỡ trong tòa nhà. “Côn trùng và dịch bệnh sẽ vào nhà” ta bảo hắn. Nhưng hắn không quan tâm. Một hôm ta mang một cái hộp nhỏ ra vườn bắt sâu bọ dưới mấy hòn đá bỏ vào hộp. Sau đó ta vào phòng Văn Phú, căn phòng mà hắn đã chiếm mất của cha ta, bỏ một vài con vào tủ quần áo của hắn, dưới nệm hắn nằm. Khi ấy ta ở một căn phòng đối diện với phòng hắn, ban đêm ta thích chí thấy hắn đuổi theo những con bọ la lối om sòm rồi giết chúng bằng chiếc dép đi trong nhà. Tất nhiên hắn cũng chẳng thèm sửa cửa sổ.
Sau đó ta tìm cách lấy lại căn phòng cũ của mẹ ta. Khi mẹ Văn Phú chuyển đến đây, bà ta chọn cho mình căn phòng đó, ta lúc nào cũng giận sôi lên khi thấy mặt mụ ta ở đó. Cuối cùng ta tìm ra một cơ hội cho mình khi nghe thấy mụ than vãn. “Đêm qua lạnh quá, cứ như là gió có thể luôn qua tường ấy.” Ta chộp ngay, “Ừm! Con nghe nói có người chết trong phòng đó”, ta quay sang San Ma, “có phải không ạ?” San Ma vui lòng giúp ta. “Bị giết hay là tự tử”, San Ma nói, “không ai biết, mọi chuyện cũng không rõ ràng lắm. Tất nhiên, chuyện xảy ra lâu rồi, không cần phải lo lắng về nó”. Ngay hôm đó mẹ Văn Phú bắt ta phải đổi phòng cho bà ta.
Nhưng ngày cả hồn ma của mẹ ta cũng không ngăn được Văn Phú không mò đến căn phòng của ta vào đêm khuya, người sặc sụa mùi của những hộp đêm: thuốc lá, rượu uýtxki, nước hoa. Hắn sẽ lăn ta ra, gỡ chân tay ta như thể ta là một cái ghế xếp. Sau khi đã chán chê, hắn đứng dậy đi về phòng hắn, tất cả những chuyện này diễn ra mà hai bên không nói một lời. Ta cũng sẽ trở dậy. Ta bao giờ cũng có một chậu nước trong phòng vì lý do đó. Ta sẽ nhúng ướt một chiếc khăn khô, rồi bắt đầu cọ rửa, ta cọ thật kỹ vào chỗ hắn chạm vào người ta, miết đi miết lại. Sau khi đã xong ta sẽ hất chậu nước bẩn qua cửa sổ. Bùm!