← Quay lại trang sách

Chương 25 ĐÁM CƯỚI BẢO ĐẢM

Suýt nữa thì tôi ngã lăn xuống đất. Mẹ tôi đã nói điều đó một cách rất thản nhiên. “Ta đẻ một đứa con. Ta có con trong đời”.

“Còn gì nữa?” tôi hỏi, chờ bà bảo tôi cái tin chết người – rằng Văn Phú là cha tôi. “Và”, bà nói, tìm lời để diễn đạt, “bây giờ người đàn ông này đã chết”. Bà gật đầu, rõ ràng là có vẻ thỏa mãn. “Bây giờ mẹ không phải lo lắng nữa. Trong bao nhiêu năm qua mẹ đã nghĩ là hắn có thể nhào ra từ một cái tủ, hoặc nhảy ra từ dưới gầm giường. Tay bà vung lên, chân bà giật bắn, bản năng vẫn còn đây. “Nhưng Betty người đẹp đã bảo mẹ trong một lá thư. Nhìn đây! Không phải lo lắng gì, hắn đã chết. Chết vào ngày Noel. Con tưởng tượng được không? Ngày Noel! Chết rồi mà hắn cũng tìm được cách làm cho mẹ đau khổ”.

“Đó không phải là điều con muốn hỏi”, tôi bắt đầu nói. Có lẽ bởi vì tôi cũng chẳng biết tôi muốn nói gì, tôi bắt đầu cười, chỉ có điều là tôi cũng sém khóc thôi.

“Mẹ có một quá khứ thật dễ sợ”, tôi nghe thấy mình nói. “Mẹ nghĩ mẹ có thể giữ bí mật với tất cả mọi người?” Bà gật. “Kể cả con?” tôi thì thầm.

Bà lại gật đầu, thế là không còn gì giữ lại được những giọt nước mắt của tôi nữa. “Bây giờ con biết tại sao”, bà nói, thở dài não ruột. Tôi nghĩ, vậy là điều đó đúng. Văn Phú là cha tôi, người đàn ông kinh tởm mà mẹ tôi căm thù. Dòng máu của ông ta chảy trong huyết quản của tôi. Tôi rùng mình ớn lạnh về ý nghĩ này. Tôi ôm lấy hai đầu gối.

Lạnh à? Bà hỏi, “bật máy sưởi lên nhé”. Tôi lắc đầu. Tôi đang cố gắng làm một khám phá tức thì về bản thân. Tôi bao giờ cũng nghĩ tôi giống mẹ tôi nhiều: đôi mắt, cái mũi, cái cằm, đôi gò má, hàm răng nhỏ và sau đó, những sợi tóc bạc làm thành một cái vương miện ngay trên đầu tôi vào lúc tôi mới ngoài ba mươi tuổi. Còn chiều cao, đôi chân, đôi tay dài tôi nghĩ tôi thừa hưởng của cha tôi – ít nhất thì cũng là người tôi nghĩ là cha tôi.

“Nói cho con nghe lần nữa”, cuối cùng tôi nói, “tại sao mẹ lại giữ bí mật như vậy?”

Bà nhìn đi chỗ khác, cân nhắc câu trả lời. “Bởi vì nếu con biết”, cuối cùng bà nói. “Con sẽ biết là mẹ yếu đuối như thế nào. Con sẽ nghĩ mẹ là một người mẹ không ra gì”.

“Con không bao giờ nghĩ thế”, tôi đáp.

“Có, con có nghĩ”, bà khăng khăng, “ta còn chưa kể cho con nghe về quá khứ của ta con đã nghĩ ta là một người mẹ tồi rồi. Nếu ta cho con biết – con sẽ nghĩ ta còn tệ hơn!”

“Con không bao giờ nghĩ mẹ là người mẹ tồi.”

“Có, con có nghĩ”.

“Không”

“Có”

Rồi tôi nghĩ, chúng tôi đang cãi cọ nhau về cái gì? Mẹ tôi đã nói gì? Đột nhiên tôi nghĩ có thể mẹ tôi không nói rằng Văn Phú là cha tôi. Bà giữ bí mật chỉ vì tôi không thể nghĩ xấu về bà, “Chờ một chút. Mẹ đang nói ai là cha con?” “Cha con?” bà hỏi, hấp háy đôi mắt, như thể bà không nghĩ đến điều này trước đó. “Daddy là cha con”.

Tôi để vuột một tiếng thở dài nhẹ nhõm.

“Tất nhiên”, bà vội vã thêm vào. “Mẹ sẽ không bao giờ để cái con người xấu xa này nhận con là con. Hắn ta không bao giờ có được điều đó từ mẹ”. Miệng bà mím chặt lại, vừa kiên quyết vừa hoang mang.

Bây giờ thì tôi bối rối hơn lúc nào hết. Tôi nghĩ ra cách diễn đạt lại câu hỏi của tôi làm cho nó trở nên rõ nghĩa hơn: về quan hệ huyết thống, về yếu tố di truyền, gen, nhóm máu, thử nghiệm mối quan hệ cha con, quá khứ ấy sẽ không bao giờ thay đổi được.

Mẹ tôi vỗ lên tay tôi, “Ồ, mẹ hiểu điều con đang nghĩ”, bà nói nhanh. “Tất nhiên mọi đứa bé đều sinh ra với âm, dương. Âm đến từ người mẹ, dương đến từ người cha. Khi con sinh ra ta cố gắng tìm xem con thừa hưởng cái dương của người nào. Ta nhìn vào người cha thân yêu của con. Ta nói, nhìn kìa nó có nụ cười của Jimmy Louie. Ta cố gắng quên đi mọi thứ khác. Nhưng từ tận đáy lòng ta nhìn thấy một điều gì khác”.

Bà vuốt vào má tôi, một lọn tóc rơi ra khỏi vai tôi, “Con giống Mặc Sầu. Con giống Di Cô. Con giống Đạm Như, đặc biệt là giống Đạm Như. Giống tất cả chúng nó. Tất cả những đứa con ta không thể giữ được, nhưng cũng không quên được”.

Mẹ tôi quay vào bếp châm thêm nước vào bình trà. Tôi ngồi nhằn hạt dưa giữa hai hàm răng. Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng thú vui của việc cắn hạt dưa là ở chỗ cắn như thế nào để không làm vỡ hai mảng vỏ hạt dưa chứ không hẳn là ăn cái nhân.

“Như vậy mẹ chưa một lần nghĩ là con giống Văn Phú?” tôi làu bàu hỏi.

Mẹ tôi trở lại với bình trà nóng, “Nếu nói một cách thật lòng, thì có thể có một lần mẹ nghĩ như thế”.

Tôi làm bể vỏ dưa làm hai. “Cái gì?” “Có thể là hai lần tất cả”, bà nói với vẻ cân nhắc.

Tôi nín thở. Mẹ tôi rót trà không để rớt ra một giọt. “Đó là sau ngày Daddy của con chết”, bà đáp. “Tâm trạng của con thật dữ dội”.

Ồ điều đó thật kinh khủng. Tính khí của tôi – giống như Văn Phú. Mẹ tôi cau mày nhìn tôi như thể tôi lại là đứa con gái choai choai 14 tuổi. “Trong đám ma, con không khóc, không hề khóc. Con nói daddy không phải cha con. Ôi! Mẹ không bao giờ muốn nghe điều đó!” Giọng bà vang lên cứ như đó không phải chỉ là một kỷ niệm, mà cõi lòng bà lại tan nát một lần nữa. “Đó là lí do tại sao mẹ tát con. Mẹ không thể đừng được. Mẹ không thể giải thích cho con tại sao”.

“Nhưng con không có cái ý như mẹ nghĩ”, tôi nói “Đó chỉ là vì…”

“Mẹ biết tại sao”, mẹ tôi nói giọng dịu dàng. “Bây giờ thì mẹ biết là con không có cái ý như mẹ nghĩ”. Sau đó bà lại chau mày. “Nhưng còn một lần khác. Thật vô cớ. Còn nhớ một lần con muốn đi biển không?”

Tôi lắc đầu. Tôi thực không biết bà đang nói gì.

“Con thật hung dữ, con dậm chân, la lối với mẹ om xòm”. “Biển! Biển!” Mẹ tự hỏi, tính cách này từ đâu mà ra? Sau đó mẹ nhớ ra, “Ối giời! Văn Phú!” Khuôn mặt bà méo mó vì đau khổ.

“Mẹ không đổ lỗi cho con, mẹ kết án hắn. Tất cả những khuyết điểm lớn nhỏ của con mẹ đều đổ lỗi cho người đàn ông xấu xa này. Vì thế mẹ đã không phạt con, mẹ để cho con đi biển. Nhưng rồi, chẳng bao lâu sau, em con cũng hành động như vậy. Thật điên khùng! Nó la hét với mẹ những điều tương tự chỉ có điều lần này nó không đòi đi biển. Đó là cách mà ta phát hiện ra. Samuel và con cả hai đứa – đều bảo ta, “Mẹ ác lắm, mẹ ác lắm!”

“Không”, tôi nói, quá sững sờ vì những việc đã làm “Con không nói thế”.

“Có! Con nói thế, cả Samuel nữa”. Bà mỉm cười, vui sướng vì đã chứng minh được là mình đúng sau bao nhiêu năm qua. “Mẹ rất hài lòng là mẹ không còn phải đổ lỗi cho Văn Phú nữa. Điều đó là do các con – tất cả là do các con! Con nghĩ là ta không hình dung ra được những điều đó sao? Ta còn biết được cả những từ tục tĩu con đã dùng, những từ con nói khi con giơ nắm tay lên có một ngón cái đâm ra ngoài. Chúng ta cũng có những câu chửi ấy bằng tiếng Hoa, nhiều câu khác thậm chí còn tục hơn trong tiếng Anh của con. Con nghĩ bà dì chỉ là một bà già sao? Khi ai đối xử với bà không ra gì – ôi chao – tất cả những câu chửi tuôn ra ngay. Đi mà ăn cái này! Đi mà ăn cái kia! Ta nghĩ đó là câu mà bà nói trong đám ma của bà lúc câu đối viếng rơi lên người bà”. Cả hai mẹ con tôi cùng cười vang. “Dì Du là người rất mạnh mẽ!” Bà nói. “Ồ đó là một người thật tuyệt! Chúng ta đã có một thời gian dài vui vẻ bên nhau!” Mẹ tôi cười với tôi giống như cô nữ sinh trung học, giống như cái cách tôi hình dung cung cách của mẹ tôi khi bà và Peanut cùng chia sẻ những bí mật với nhau trong nhà kính. “Có thể con phải nói lời xin lỗi”.

“Với bà dì ư? Vì cái gì ạ?”

“Không phải với bà dì mà là với ta. Vì đã nói những câu không được phép nói”. Bà vẫn tủm tỉm cười.

“Nhưng đã 25 năm rồi!”

“Không có lí do lí trấu gì!”

“Có thể chúng ta sẽ đổ những lỗi này cho Văn Phú”.

“Chuyến đi biển, đó cũng là lỗi của Văn Phú luôn phải không? Tất cả mọi điều xấu xa đều là lỗi của hắn”.

Mẹ con tôi lại cười một hồi lâu. Tôi cảm thấy chóng mặt. Ở đây mẹ tôi đã kể cho tôi nghe tấn bi kịch của đời bà. Ở đây, tôi vừa được biết Văn Phú là một nửa yếu tố di truyền trong tôi. Tuy vậy chúng tôi vẫn cười. Tôi biết đó là thời điểm tôi phải bật mí. Tôi hít một hơi dài, nói với tất cả vẻ hờ hững mà tôi có thể. “Có thể chúng ta còn một điều khác nữa để đổ lỗi cho Văn Phú…” Đoạn tôi kể cho bà nghe về căn bệnh của mình.

Bao nhiêu năm qua, tôi đã hình dung mọi chuyện sẽ như thế nào nếu mẹ tôi biết điều này. Bà sẽ hoảng lên về những điều xảy ra cho tôi. Bà sẽ giận dữ là tại sao tôi không cho bà biết sớm hơn. Bà sẽ cố tìm ra nguyên nhân tại sao căn bệnh này lại rơi vào tôi. Bà sẽ thận trọng theo đuổi những biện pháp chữa trị.

Tôi đã hình dung ra tất cả những điều đó, tôi đã nhầm. Nó còn tệ hơn nữa, bà là nữ thần Báo thù tự do.

“Tại sao con lại tìm đến Doug trước? Nó không phải là một bác sĩ thực sự – chỉ là một bác sĩ về thể thao thôi. Tại sao con biết là bạn nó là bác sĩ giỏi nhất? Tại sao con lại tin vào điều những người khác nói với con? Tại sao tin họ khi họ nói đây là một ca bệnh nhẹ? Nếu hay bị mệt như vậy thì bệnh không nhẹ chút nào! Bệnh nặng đấy! Tại sao chồng con không lo lắng về chuyện đó?”

Âm điệu trong giọng nói của bà cao hơn, cao hơn. Tôi ngồi nhìn bà, hai tay của bà vung vẩy về phía một kẻ thù mà bà không thấy được nhưng chắc chắn sẽ tìm ra. Tôi nghe bà hùng hổ nói rằng chắc chắn tôi phải giấu một điều gì đó về bệnh tật của tôi. Không còn có thể làm gì được ngoài việc nói mấy câu. “Con biết con biết”. “Ối giời! Văn Phú đã để lại bệnh ấy cho con!” bà kêu lên, “Hắn gây ra chuyện này mà. Còn cái lò viba. Mẹ bảo con kiểm tra xem nó có bị rò không. Con đã kiểm tra chưa?”

“Thôi đi mẹ”, tôi cầu khẩn, “không phải là do di truyền. Cũng không phải là do lò viba. Nó là như vậy thôi. Không phải là lỗi của ai cả. Mẹ cũng không có thể làm gì được”.

Nhưng thật không có gì cản được bà. Bà lườm tôi. “Sao con có thể nói thế được?” “Mẹ không thể làm gì được đâu”.

“Ai bảo con thế? Sao con lại có suy nghĩ ấy? Nói lại tên căn bệnh cho mẹ coi. Viết tên nó ra giấy. Ngày mai mẹ sẽ nghĩ ra một cái gì đó”.

Bà lục trong ngăn kéo để những món đồ linh tinh tìm ra một cái bút chì, một tờ giấy.

Tôi đang định phản đối, nói với mẹ tôi rằng bà chỉ tự làm khổ mình chẳng vì cái gì cả. Nhưng bất thình lình tôi nhận ra, tôi không muốn bà bỏ cuộc. Tôi được an ủi một cách đặc biệt. Hoặc có thể sự khuây khỏa này không thuộc về cảm giác. Bởi vì nỗi đau vẫn còn đó, mẹ tôi đang xé nó bay đi – cái vỏ cố thủ của tôi, nỗi tức giận của tôi, nỗi sợ hãi sâu xa nhất của tôi cùng với sự tuyệt vọng. Bà đang đặt tất cả những điều đó vào trái tim mình để cho tôi cuối cùng có thể nhận thấy một điều còn ở lại: HY VỌNG.

*

Trên đường đến dự đám cưới của Bảo Bảo và Mimi, Cleo đòi khênh một đầu món quà mừng, còn Tessa thì khăng khăng nó có thể tự mang lấy một mình. Vì thế mà bây giờ bộ ly uống rượu kêu lách cách khi hai đứa giành nhau khênh.

Hai đứa con gái ghẹo nhau suốt, mỗi đứa đều không có khả năng kết tội đứa kia. Phil thở dài, đoạn chỉ vào một cái bàn, bảo chúng ngồi xuống. Anh lắc cái hộp lần nữa, cười toe toét rồi hăng hái đặt nó vào cuối cái bàn để quà. Chúng ta hãy để cho Bảo Bảo và Mimi đổi lấy một cái gì họ thích hơn”, anh thì thầm vẻ giễu cợt.

Tôi cười, vỗ vào cánh tay anh. “Anh không thể làm thế được”. Lúc đó tôi nhìn thấy mẹ tôi đi đến với một món quà trong tay. Bà kiễng chân lên, đặt cái hộp vuông của bà lên trên những món quà khác vì thế nó cao ngất nghểu. Món quà được gói bằng một miếng giấy thiếc đỏ tươi, một bằng chứng rõ ràng nó là cái giấy bao mà chúng tôi dùng để gói món quà Giáng sinh tặng bà. “Mẹ”, tôi nói, chỉ tay món quà.

“Màu đỏ là màu may mắn cho đám cưới theo phong tục Trung Hoa”, bà cự lại như thể tôi trách bà về chuyện đó. “Dù sao thì cái bên trong mới quan trọng. Con tặng cái gì vậy?”

“Một bộ đồ uống rượu”, Phil nói.

“Có những món gì?” bà hỏi.

“Sáu cái ly, một cái bình pha rượu, que khuấy rượu. Tất cả có tám món, mỗi món 800”. Phil đáp. Mẹ tôi dường như hài lòng với câu trả lời của Phil. “Mẹ suýt mua một bộ đồ nấu ăn sáu món. Mẹ đọc trên báo, Emporium Capwell. Một ý hay đấy, mẹ nghĩ, chỉ có 49 đô la. Sau đó mẹ đến xem. Con biết như thế nào không? Ba cái nồi, ba cái vung. Họ tính ba cái vung là ba món. Những thứ còn lại là một cái chảo, hai cái nồi nhỏ. Mẹ mua hũ muối, tiêu thay vào đó. Đồ pha lê thật đấy”.

Giờ đây chúng tôi đi thành hàng, nhích từng bước chậm chạp đến chỗ đãi tiệc của nhà hàng. Mẹ tôi nhìn tôi cau mày, “Ối giời! Cái áo này quá mỏng”. Bà sờ vào vải. “Quá lạnh không tốt cho sức khỏe của con. Mẹ đã bảo con rồi mà. Con phải nghe lời mẹ chứ”. Bà kéo tay áo Phil, “Cởi cái này ra, đưa cho nó khoác. Con cần phải trở thành một người chồng chu đáo hơn. Nếu con không chú ý đến nó sao con giúp nó chú ý đến bản thân mình được?”

Tôi đẩy Phil, “Ừ đi, Phil”, tôi nói, anh thở dài, cởi áo ra tuy có vẻ hài lòng, có vẻ như muốn nói với tôi rằng đó là số phận của anh, bao giờ cũng có người nhắc nhở anh có nghĩa vụ đối với tôi. Mẹ tôi chạm tay vào tay Phil, “Con nên mua cho nó một cái áo như thế này”, bà nói, gật đầu về phía cái lưng của một người phụ nữ mặc áo khoác dài bằng lông chồn.

“Đó không phải là một sự sửa sai mang tính chính trị”, Phil nói với một nụ cười nhăn nhở.

“Nó sẽ ấm hơn”, mẹ tôi khăng khăng.

Trong suốt bữa tiệc cưới, chúng tôi phải hét vào tai nhau trong không khí ồn ào như chợ vỡ. Đến lần thứ tư, một trong năm người bạn “nối khố” của Bảo Bảo như cậu ta gọi những người bạn phụ cho đám cưới, vỗ vỗ vào micro, nói giọng oang oang. “Thưa quý ông, quý bà, tôi có thể xin quý vị chú ý một chút không ạ?”

Chiếc micro rít lên rồi im tịt, mọi người ào lên, lại tiếp tục nói chuyện. Sau đó chúng tôi nghe người chủ hôn nói choang choang bằng giọng mũi vào micro.

“Nào tiếp tục chứ? Thưa quý ông quý bà, như quý vị đã biết tôi là Gary. Lần đầu tiên gặp Roger, tôi là một thằng nhỏ đến từ Brooklyn. Chúng tôi là những người bạn cùng phòng, gặp nhau một cách tình cờ không do chúng tôi chọn. Tôi giới thiệu với Roger thức ăn của những vị thần bánh mì tròn và trứng cá. Roger giới thiệu với tôi – Đoán xem cái gì – chân gà và cháo”.

Trong khi người chủ hôn tiếp tục một dòng thác những tình cảm lâm ly, mặt Bảo Bảo bừng lên vẻ hạnh phúc, hài lòng vì bao nhiêu lời tốt đẹp đổ xuống cậu ta. Nó làm tôi nhớ đến dáng vẻ ngày xưa khi cậu ta còn là một chú bé rất sung sướng vì tôi là Mary đã để cho nó chơi trò bác sĩ với chúng tôi không nhận ra rằng chúng tôi chỉ cho nó là bệnh nhân chết sau năm phút đầu tiên.

Phil hấp háy mắt, làu bàu hơi to, “Dính trấu rồi”. Tôi nhận thấy mẹ tôi cười mặc dù có thể là bởi vì những người khác đang cười một cách lịch sự. Hoặc có thể họ cũng chẳng lịch sự nữa. Họ coi đây là một trò hề.

“Hãy giả vờ”, tôi bảo Phil, “Chương trình tối nay hấp dẫn đấy”.

“Cái gì? Anh mà không dễ thương á?” Anh nháy mắt với tôi, một ông chồng bị chê nhầm.

“Đây là đám cưới mà”, tôi lý sự, mặc dầu tôi cũng có ý thức muốn bảo vệ Bảo Bảo.

“Bây giờ để tôi giới thiệu Roger với “oyvay”. Chúng tôi nghe Gary nói. “Anh giới thiệu tôi với – ui da. Để tôi nói với quý vị Roger nợ tôi một điều. Bởi vì tôi cũng giới thiệu anh ta với người phụ nữ dễ thương, bây giờ là cô dâu may mắn của anh ta. Thưa quý vị tôi có thể giới thiệu với quý vị cô Mimi Wong Kwong”. Mimi lảo đảo đứng lên mặt cô ta đỏ lựng vì quá nhiều rượu sâm banh. Bộ áo cưới của cô giống như bộ trang phục trong phim “Những người khốn khổ” te tua với những dải lụa màu men sứ. Bảo Bảo nhìn cô với ánh mắt tôn thờ.

“Ha-bu?” tôi nghe Tessa hét lên gọi mẹ tôi. “Chuyện gì xảy ra với cô kia?” Nó chỉ vào Mimi.

“Cô ấy là cô dâu”, mẹ tôi hét lại “Không, không phải thế”. Tessa nói. “Con hỏi tại sao cô ấy lại đeo một cái vòng trên mũi? Cô ấy kỳ cục quá”. Mẹ tôi nhìn cô dâu với một cái nhìn phê phán mới. “Ồ cô ấy kỳ dị bởi vì cô ấy không nghe lời mẹ cô ấy”.

“Điều đó đúng”, Phil nói. “Nhìn mẹ con coi. Mẹ nghe lời Ha-bu. Mẹ con không kỳ dị”. Tessa nhìn tôi với một sự kính trọng mới mẻ.

Người dẫn chương trình quay trở micro. “Bây giờ chúng tôi muốn giới thiệu với quý vị hai họ: về phía họ nhà gái, chúng ta có cha của cô dâu ông Thomas C.Y.Wong chủ tịch công ty du lịch Những cuộc phiêu lưu bè bạn và người vợ đáng yêu của ông Maggie”. Đám đông vỗ tay.

“Trông trẻ quá”, mẹ tôi nói. Chúng tôi bây giờ nghe một danh sách dài những cái tên, lịch sự vỗ tay khi nghe mỗi cái tên về ông chú bà dì của Mimi, hầu hết bọn họ hình như đều đến từ bang Arizona, mảnh đất của những cây xương rồng, một nơi cũng xa xôi hẻo lánh như là Trung Quốc như trong hình dung của tôi. Sau đó Gary chuyển sang giới thiệu họ nhà trai, vỗ vào vai dượng Henry với kiểu cách của một ông chủ hôn.

Dượng Henry trông cứng ngắc trong bộ quần áo đi thuê, cúi đầu vẫy chào, vội vã ngồi xuống. Dì Helen cười hết cỡ, cúi đầu chào theo lối cổ, ném một cái hôn sang phải rồi một cái sang trái. Dì rất hạnh phúc xoay sở trong bộ áo váy bằng the màu xanh lá cây nhạt đính những hạt cườm nhỏ theo những vòng tròn ở phần thân áo. Tôi nhận thấy dì đeo đôi bông tai ngọc bích quý phái mà mẹ tôi đã kể. Bây giờ Frank, Mary, Doug và con gái họ đứng lên mỉm cười vẫy vẫy, tôi vỗ tay liên tục tự hỏi không biết bao giờ thì cái màn tra tấn này kết thúc. Vẫn biết rằng điều gì sẽ diễn ra tiếp theo. Bất thình lình, người dẫn chương trình thứ hai nói, “Xin mời dì của chú rể đứng lên, bà Winnie Louie. Tôi nghe nói rằng bà đã cắm tất cả những lọ hoa dễ thương trên những bàn tiệc tối nay”. Mẹ tôi đứng dậy gật đầu ngượng ngập. Sáng nay bà đã than phiền ầm ĩ về những việc bà phải làm thêm ở cửa hàng hoa cho bữa tiệc tối nay. “Helen muốn toàn hoa hồng, màu hồng màu vàng, màu trắng”, bà nổi đóa “Tại sao chỉ có màu vàng”, mẹ hỏi bà ấy. Tại sao không có hoa cẩm chướng?

“Cám ơn dì!” Bảo Bảo kêu lên. Mẹ tôi vẫy tay về phía cậu ta. Trông bà rất tự hào.

“Người chị họ thân yêu của Roger cũng ở đây tối nay! Chúng tôi bắt đầu đứng lên, tôi nghĩ đây chỉ là trò hề thì vừa lúc cái gót chân trượt vào tấm thảm, Phil túm lấy tôi trước khi tôi ngã xuống. Một tiếng kêu phấn khích lan trong đám đông to đến nỗi nếu ở đây có một cái máy đo tiếng cười thì tôi chắc chắn sẽ thắng. Tôi ngồi xuống xấu hổ.”

“Em có sao không?” đó là Mary, thở không ra hơi đã ở bên cạnh tôi, lúc đó tôi nhận ra: tôi đã quên chuyện này. “Em khỏe”, tôi nói. Chị ta nhìn tôi với mối quan tâm không thành lời. “Thật mà, đó không phải là MS đâu. Đó chỉ do cái giầy cao gót thôi, có nhìn thấy không?” Mary cười không lấy gì làm thoải mái.

“Mary”, tôi nói với tất cả sự kiên nhẫn mà tôi có thể nói. “Không phải bởi vì em bị bệnh MS thì có nghĩa là em làm cái gì cũng hỏng đâu”.

Chị ta cười, “Ồ chị biết. Chị chỉ, em biết đấy muốn kiểm tra”. Chị ta giữ mãi một nụ cười, “nghĩ đến chuyện này, chị nhớ chị suýt ngã gẫy cổ vào hôm nọ, lúc xuống cầu thang ở chợ”. Tôi giơ tay lên, ngăn chị ta lại “Mary, không sao đâu chị không cần phải phô trương lòng tốt”.

“Em muốn nói gì?”

Lúc đó tôi nhìn thấy mẹ tôi nhưng tôi không thể dừng lại được. “Trong chuyện này”, tôi nói bằng một giọng trịnh trọng đầy châm chọc. “Chị không nên quan tâm quá nhiều đến chuyện của tôi”. Mẹ tôi chỉ ngón tay về phía tôi. Mary vẫn mỉm cười tự hỏi tại sao tôi lại có vẻ căng thẳng thế. Tôi cũng cảm thấy mình độc ác vì thế tôi xin lỗi.

“Em xin lỗi”, tôi nói với chị ta. “Có thể chúng ta sẽ nói chuyện đó sau”.

Lúc đó tôi nghe thấy tiếng sột soạt của hàng the và sa tanh. Dì Helen vỗ tay lên lưng tôi. “Ăn đủ không?” Dì hỏi, quan sát thảm họa vừa diễn ra bên bàn ăn của chúng tôi. Thức ăn vẫn ngồn ngộn trên các đĩa. Một cái khăn giấy gấp hình đầu con vịt một cái mà Cleo khăng khăng bắt mẹ tôi làm. “Quá nhiều thức ăn”, mẹ tôi than vãn, “lãng phí”. Mặt dì Helen nở ra vì sung sướng coi đó là lời khen. “Đó là vì cha mẹ Mimi. Họ khăng khăng chúng tôi phải đặt mười hai món cộng với súp, cộng với bánh. Tôi nói quá nhiều, quá nhiều. Họ nói chúng ta làm thế theo kiểu Mỹ. Nhà gái trả tiền. Tôi còn làm gì được? Ai không ăn nốt con sò vậy? Ngon lắm, bỏ uổng. Winnie chị ăn đi!”

“No quá rồi”, mẹ tôi nói, bà đang bận rộn gài lại cái nơ trên đầu Cleo.

“Đừng có làm khách mà”, dì Helen cầm lấy đôi đũa chưa dùng đến trước mặt Cleo gắp con sò, đặt nó lên đĩa thức ăn của mẹ tôi.

“Tôi không muốn ăn”.

“Ăn đi”, dì Helen nài.

Mẹ tôi nhăn mặt với con sò, “Không tươi”, bà tuyên bố.

Dì Helen cau mày rồi bỏ tọt con sò bị chê vào mồm. “Chị thấy đấy”, mẹ tôi nói trong khi bà quan sát dì Helen ăn, “chẳng có vị gì đúng không?” Dì Helen tiếp tục nhai một cách thăm dò.

“Dai quá hả?”, mẹ tôi lại nói.

Dì Helen quay về phía tôi, “Mẹ con là một đầu bếp giỏi”, bà thì thầm. “Đó là lý do tại sao mẹ con khó mà thưởng thức được những món ăn ngon. Dì bảo mẹ con, khi chúng ta về thăm Trung Quốc có thể các món ăn không được như chị nhớ, mọi thứ đều thay đổi”.

“Mẹ về Trung Quốc hả? Sao mẹ không nói với con”.

“Ồ chúng ta mới chỉ bàn bạc”, mẹ tôi đáp. “Mẹ chỉ nói có thể. Không có gì chắc chắn là chúng ta sẽ đi”.

Dì Helen tiếp tục nói chuyện với tôi. “Dì yêu cầu mẹ con đi với dì, như là một ân huệ cuối cùng. Con biết đấy”. Dì Helen nhìn tôi với vẻ cam chịu rồi thở dài. “Dù sao thì cha mẹ Mimi cũng làm chủ một công ty du lịch. Vì thế nếu chúng ta đi có thể chúng ta sẽ được giảm giá”.

Dì gắp một hạt đậu Hà Lan tẩm dầu bằng đôi đũa, lăn đi lăn lại dưới những đầu đũa. “Thế là ta có thể nhìn lại nơi ta cất tiếng khóc chào đời”, dì nói. “Ta có thể đãi tiệc cả làng. Dì nghe nói con có thể đãi 50 người với những thức ăn ngon nhất – mười hai món, chỉ mất 200 đô. Rẻ như bèo”. Dì Helen cười hết cỡ.

“Suỵt! 300 đô” mẹ tôi nói, “giá cả lên rồi”.

“300 đô cũng được!” Dì Helen nói bằng giọng cường điệu, “vẫn có thể trả giá”. Rồi dì quay về phía tôi. “Ngoài ra đó không phải lý do duy nhất chúng ta trở về quê hương”. Dì đợi tôi hỏi.

“Vậy thì tại sao mọi người lại về ạ?” tôi nói.

“Chúng ta về mua thuốc bắc”, dì Helen giải thích, “Những thứ hiếm mà con không thể mua được ở đây”.

“Thuốc để làm gì ạ?”

“Dì Helen muốn tìm xem họ có bán cái gì cho thần kinh của dì không?” Mẹ tôi xen vào với bộ mặt tỉnh bơ.

“Ồ phải”.

“Thuốc bắc có thể chữa bất cứ bệnh gì”. Dì Helen tuyên bố. “Dì biết một bà bị bệnh ung thư của phụ nữ. Bà ta đi khám bác sĩ ở đây, vô ích. Bà ta đến nhà thờ cầu nguyện vô ích thôi. Bà ta trở về Trung Quốc, uống thuốc bắc hàng ngày – bệnh ung thư biến mất tăm, lần sau bà bị ung thư phổi, cũng làm như thế, khỏi”.

“Bà ta uống thuốc gì?”

“Ồ. Dì không biết. Bà ta chỉ bảo nó có vị rất ghê. Bây giờ thì quá trễ để hỏi. Bà ta chết vì bệnh tim”.

Bất thình lình dì Helen đứng dậy, “Pearl”, bà nói nghiêm trang “đi giúp dì cắt bánh”. Trước khi tôi có thể phản đối bà đã nắm lấy khuỷu tay tôi. Thế là tôi thấy mình với dì Helen đứng trước cô dâu chú rể đặt trên lớp kem trắng. Bà nói với vẻ úp mở, “Nào bây giờ dì sẽ nói với con một bí mật”.

“Không, dì Helen ơi không có bí mật nào nữa”, tôi nói, mỉm cười. “Con đã thực hiện nghị quyết, một năm mới âm lịch không có bí mật nào cả”.

Làm sao tôi có thể nói là tôi không muốn nghe? “Dì chỉ muốn nói rằng mẹ con và dì không đi Trung Hoa vì khối u não của dì”.

“Hai người không đi sao?”

“Không, chúng ta không đi vì dì mà đi vì con”. Thấy khuôn mặt ngây ngô của tôi, bà tiếp. “Là thế này, mẹ con muốn đi Trung Hoa để tìm thuốc cho con. Bà ấy nghĩ bà ấy đã truyền bệnh cho con. Bà ấy nghĩ căn bệnh này là do sự thiếu cân bằng trong con người bà ấy, mà sự thiếu cân bằng này bắt đầu từ Trung Hoa. Nhưng bà không muốn đi một mình. Thế là ta bảo ta muốn đi vì khối u trong não của ta, mẹ con đồng ý đi vì khối u của dì. Dì bảo bà ấy phải đi vì lợi ích của ta. Như vậy làm sao bà có thể từ chối? Nhưng đoán xem chuyện gì xảy ra?”

“Chuyện gì ạ?”

“Dì chẳng có u iếc gì hết”. Bà vung tay lên, khua khua hai bàn tay.

“Cái gì?”

“Đúng đấy. Ta đã bịa ra lý do này. Ồ lần đầu tiên ta đã rất lo. Ta nhìn vào phim chụp X quang, toàn điểm B. Nhưng lúc dì nghĩ mình sắp chết thì dì cũng nghĩ chuyện gì xảy ra nếu dì chết. Dì nghĩ không biết dì có quên điều gì không? Con biết chuyện gì không? Ta quên cảm ơn mẹ con, bao nhiêu năm qua mẹ con là người bạn tốt nhất trên đời”.

“Con không hiểu chuyện này thì có gì liên quan đến việc cảm ơn mẹ con”.

“Phải, mẹ con có một bí mật. Dì tự nhủ dì sẽ chết mà hai mẹ con không biết những bí mật của nhau. Điều đó không đúng à? Con tin ta phải không?” Bà cười khúc khích như một cô gái tinh nghịch. Tôi gật đầu vẫn không hiểu chuyện này sẽ dẫn đến đâu.

“Bây giờ thì hai người đã gần nhau hơn, mẹ và con gái, có thể thấy rõ điều đó. Đó là cách dì cảm ơn mẹ con. Con biết mẹ con rồi đó, rất khó cám ơn mẹ con, rất khó cho lời khuyên. Bây giờ thì mọi chuyện đâu vào đấy.”

“Mẹ con có biết rằng dì chưa bao giờ có khối u ở não không?”

Dì Helen cười, lắc đầu, sung sướng vì lời nói dối của dì vẫn còn tác dụng. “Tất nhiên khi chúng ta về Trung Quốc, con phải giả vờ là mùa xuân kì diệu ở đó sẽ chữa lành bệnh cho ta cũng như nó sẽ chữa lành bệnh cho con nếu không bà ấy sẽ điên lên vì ta bắt bà ấy phải trở về”.

“Dì muốn nói gì, con phải giả vờ?”

“Con phải về, tất nhiên con sẽ đi cùng. Tại sao mẹ con về Trung Hoa mà không có con. Bà ấy đi vì con không phải vì dì. Dì đã nói với con điều đó. Dì chỉ giả vờ đó là cái cớ. Con phải giả vờ đi vì sự sống của dì nhưng con phải đi với bà ấy. Con nợ bà ấy vì tất cả những lo lắng mà con đã gây ra cho bà. Chỉ có điều con đừng bao giờ nói điều ấy với bà. Đó sẽ là bí mật của chúng ta.”

Tôi cũng cười, bối rối vì bị lôi vào cái vòng luẩn quẩn của những lời nói dối bất tận. Hoặc có thể chúng không phải là những lời nói dối mà là một kiểu trung thành, một sự hy sinh bất thành văn cho bất cứ cái gì mà tôi không bao giờ hiểu được.

“Đó là một điều tốt đẹp phải không? Con có nghĩ thế không?”

Tôi xua tay, “Con nghĩ vậy”, cuối cùng tôi nói. Tôi không biết là tôi đồng ý về cái gì, nhưng tôi cảm thấy điều đó là đúng.

Phil đã đưa mấy đứa con gái về nhà mẹ tôi. Dì Helen sẽ đưa hai mẹ con tôi về nhà. Chúng tôi cho những đồ ăn thừa của bữa tiệc vào những chiếc hộp giấy mang về nhà.

“Cá thì con nên bỏ lại”, mẹ tôi bảo tôi. “Cá hấp để đến mai ăn không ra gì đâu”.

“Cứ mang về cứ mang về”, dì Helen nói. “Ngày mai chúng ta sẽ xem có ăn được hay không”.

“Cá hấp mà”, mẹ tôi phản đối.

“Bên ngoài đã được chiên rồi”, dì Helen nói, phớt lờ.

Tôi tránh xa trận công kích. Tôi chú ý đến gà, thịt heo còn thừa.

Giữa hai việc này tôi rót cho mình một ly trà hoa cúc trước khi những người bồi bàn đem đi. “Trà này ngon đây”, tôi nói cố gắng làm cho mẹ tôi và dì Helen lãng quên cuộc cãi nhau.

“Ồ con chưa uống cái gì gọi là trà cho đến khi con đến được Hàng Châu”, mẹ tôi nói “Trà ở đấy ngon nhất thế giới”.

“Ồ,” dì Helen nói đôi mắt sáng lên. “Chúng ta phải đi vào cái mùa xuân diệu kỳ mà một lần chúng ta đã ở đấy Winnie ạ. Chị nhớ cái khoảng thời gian sống ở Hàng Châu chứ? Dì quay lại phía tôi giải thích, “Nước mưa ở đấy nặng như vàng. Mẹ con đã nếm rồi đó”.

“Rất ngọt”, mẹ tôi nói. “Họ bỏ đường vào”.

“Không phải đường”, dì Helen nói, “Đó là một loại hạt hoa, một loài hoa rất hiếm. Nó chỉ nở chín năm một lần hay đại loại như vậy. Con cà hạt ra, bỏ vào nồi đun lên”.

“Rất đắt”, mẹ tôi nói. “Chỉ bằng này” – mẹ tôi làm cử chỉ cho một nhúm – “Con phải trả hàng đống tiền”.

“Đó là tất cả những gì con muốn”, dì Helen nói thêm. “Con nuốt một ít. Nó chạy bên trong con thay đổi mọi thứ – dạ dày, tim, phổi, đầu óc. Mọi thứ đều trở nên ngọt ngào”.

“Yên bình nữa”, mẹ tôi nói. “Mọi thứ bên trong con đều bình an, không lo lắng, không đau buồn”.

“Mẹ con sẽ mua cho con một ít”.

“Nếu chúng ta đi”, mẹ tôi nhắc dì.

Dì Helen cười, “Nếu chúng ta đi. Cũng như nếu chúng ta có thể tìm ra nó. Có thể em không nhớ nó ở chỗ nào nữa”.

“Tôi vẫn nhớ”, mẹ tôi nói.

Dì Helen chau mày suy nghĩ… “Chị vẫn nhớ à?”

“Tất nhiên, tôi nhớ rất chính xác”.

“Sao có thể thế được? Em là người dẫn chị đi mà”.

“Tôi có thể tìm được”, mẹ tôi nói.

Tôi quan sát họ tiếp tục tranh luận, mặc dù đó không giống một cuộc tranh luận chút nào. Họ đang cùng nhau mơ mộng. Họ có thể hình dung ra điều đó, con đường đi lên núi vào lúc họ đang còn rất trẻ, khi họ tin rằng cuộc đời còn đang trải phía trước họ, tất cả những điều tốt đẹp đều có thể xảy ra. Nước ở đấy như họ đã hình dung nặng như vàng, ngọt như loài hoa quý hiếm.

Tôi cũng có thể nếm nó. Tôi có thể cảm thấy. Chỉ một chút thôi nó đủ cho ta ghi nhớ – tất cả những thứ mà bạn nghĩ là bạn đã quên nhưng chúng không bao giờ bị lãng quên. Cả những hy vọng cũng có thể tìm thấy.